Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh bắc ninh...

Tài liệu định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

.PDF
82
90
135

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI THẠCH THIÊN HÀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nguồn rõ ràng đảm bảo tính chính xác, trung thực. Kết quả nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Thạch Thiên Hà MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .............................................................................................. 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, căn cứ và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản...................................................................................... 8 1.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội có dấu hiệu gian dối trong Bộ luật Hình sự ................................................................................ 18 1.3. Các bước định tội danh và phân loại định tội danh ................................. 23 1.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản..28 Chương 2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH .............................. 31 2.1. Khái quát tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh ...... 31 2.2. Hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại tỉnh Bắc Ninh33 Chương 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH ĐÚNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH ..................................................................................................... 50 3.1. Dự báo tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới............................................................................ 50 3.2. Giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ...................................................................................... 54 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72 DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng Hình sự ĐTD Đinh tội danh VKSND Viện kiểm sát nhân dân TAND Tòa án nhân dân PLHS Pháp luật Hình sự PLTTHS Pháp luật Tố tụng hình sự MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong số những tội phạm phổ biến thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS). Thời gian qua tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên nhiều lĩnh vực gây bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng phức tạp đến tình hình an ninh trật tự, hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân. Các đối tượng sử dụng nhiều phương thức thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt để chiếm đoạt tài sản. Theo Báo cáo số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh trong thời gian 05 năm (từ năm 2015 đến hết năm 2019), TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã xét xử sơ thẩm 405 vụ/720 bị cáo về các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 142 vụ/151 bị cáo và xét xử phúc thẩm 346 vụ án/650 bị cáo về các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 120 vụ/131 bị cáo. Có thể thấy, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn chiếm tỉ lệ cao trong nhóm tội xâm phạm sở hữu và đang có xu hướng gia tăng trong thời gian từ năm 2017 đến hết năm 2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong đó có những vụ án hết sức phức tạp điển hình: vụ án Nguyễn Việt Hoàng, Nguyễn Quốc Hùng và đồng phạm có hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 45 tỷ đồng của Quỹ hỗ trợ phát triển chi nhánh Bắc Ninh… đã gây ảnh hưởng lớn đến tình hình an ninh trật tự và sự phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh. Thực tiễn cho thấy đa số các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản được cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết, đưa ra xét xử đều đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên thực tiễn vẫn còn có vụ điều tra, truy tố, xét xử chưa đúng tội danh có sự nhầm lẫn với một số tội danh khác như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc chưa thống nhất trong 1 việc định tội danh hành vi làm giả tài liệu, con dấu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản...Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ một số quy định của BLHS hiện hành chưa có văn bản hướng dẫn kịp thời áp dụng nên có còn quan điểm, cách hiểu khác nhau. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của đội ngũ chủ thể định tội danh còn hạn chế...Điều này dẫn đến việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong một số trường hợp chưa chính xác, xâm phạm đến những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp. Trong khi đó, các công trình khoa học nghiên cứu về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật không nhiều, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến hết năm 2019. Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn nên trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ là hoàn toàn có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến đề tài trên, cũng đã có nhiều tác giả đề cập trong các công trình nghiên cứu khác nhau như: (i) Giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo: Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm - quyển 1, Nxb Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam; Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (chủ biên, 2004), Định tội danh-lý luân, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb Công an nhân dân, 2 Hà Nội; Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội; Đoàn Tấn Minh (2010), Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong BLHS hiện hành, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2013), Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) - Phần các tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; v.v… (ii) Công trình khoa học là các bài viết trên các tạp chí, báo: Lê Đăng Doanh (2004), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên quan đến lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng, Tạp chí Tòa án nhân dân, (22), Hà Nội; Lê Đăng Doanh (2006), Thực trạng tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có sử dụng công nghệ cao và một số giải pháp đấu tranh phòng chống tội phạm nay ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, Tạp chí Tòa án nhân dân, (24); PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí (1998), Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/1988, tr 50 – 57; Nguyễn Ngọc Chí (1997), Một số vấn đề đồng phạm trong các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6); Nguyễn Ngọc Chí (1997), Yếu tố chức vụ, quyền hạn trong các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (11). (iii) Công trình nghiên cứu là các luận án, luận văn: Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án Tiến sĩ luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương Hiền (2007), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Trịnh Hồng Phương (2016), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ 3 thực tiễn tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội – Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; Hoàng Ngọc Dinh (20160, Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; v.v... Liên quan trực tiếp đến đề tài có một số công trình nghiên cứu như: Trương Thị Đông (2015), Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Chí (1997), Vấn đề định tội danh trong các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (8). Các công trình nghiên cứu nói trên chủ yếu đề cập và nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cùng với các chế định khác nhau của BLHS, trên phạm vi nghiên cứu rộng hoặc theo một số khía cạnh nhất định, trong đó vấn đề “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả. Liên quan trực tiếp đến đề tài tác giả nghiên cứu không có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về mặt lý luận và thực tiễn về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tính đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam một cách cụ thể, chuyên sâu tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh, sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp, trong thời gian từ năm 2015 đến 2019. Do vậy, đề tài luận văn “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” đảm bảo tính mới và không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là phân tích khoa học để làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh tội 4 lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, chỉ ra tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, qua đó hạn chế oan, sai và vi phạm pháp luật trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở tỉnh Bắc Ninh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm sáng tỏ lý luận định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. - Đánh giá về thực trạng định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. - Dự báo và đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu trong chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, với hoạt động định tội danh chính thức của Tòa án, có sự phối hợp với chặt chẽ với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân. Phạm vi về tội danh: Đề tài luận văn nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Điều 174 BLHS năm 2015. Phạm vi về chủ thể: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh (hai cấp: cấp tỉnh và cấp huyện) trong đó Thẩm phán là Chủ thể chính (không nghiên cứu Tòa án, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát quân sự), trong quá trình nghiên cứu có 5 sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi về thời gian: Đề tài luận văn nghiên cứu từ năm 2015 đến hết năm 2019. Phạm vi về địa bàn: Đề tài luận văn nghiên cứu trên đại bàn tỉnh Bắc Ninh. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp thống kê, phân tích ví dụ điển hình và tổng hợp số liệu dựa trên những bản án của Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Bắc Ninh; phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch, quy nạp để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận: Những nội dung của luận văn đưa ra nhằm góp phần làm phong phú thêm lý luận về định tội danh nói chung và định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, qua đó nâng cao nhận thức về hoạt động định tội danh trong luật hình sự Việt Nam. Từ một số giải pháp đưa ra, tác giả sẽ góp phần hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật về tội lừa đảo 6 chiếm đoạt tài sản, tạo thuận lợi cho hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền nói chung và ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn, đặc biệt đội ngũ công chức trong các cơ quan tố tụng ở tỉnh Bắc Ninh.. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1. Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Chương 3. Dự báo và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 7 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, căn cứ và ý nghĩa của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Khái niệm pháp lý về tội phạm được nhà làm luật ghi nhận trong Điều 8, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS năm 2015). Trong BLHS năm 2015, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc chương XVI nhóm các tội xâm phạm sở hữu, “là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân” [17, tr4]; Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của một số tác giả về khái niệm lừa đảo chiếm đoạt tài sản như: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối” [27, tr.214], [17]. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó [10, tr.118]. Tác giả đưa ra khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác. 1.1.1.2. Đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 8 Đặc điểm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện thông qua 04 yếu tố cấu thành tội phạm sau đây: - Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Do vậy, tội này có đặc điểm chung của các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nhằm là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác đó là ba quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt tài sản phải còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu, phải có chủ sở hữu cụ thể với các quyết định có tính chất pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản, tài sản này phải được Nhà nước cho lưu hành và có thể chuyển dịch được giữa các chủ sở hữu và cùng được thực hiện bằng hành động. - Khác với tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác thì đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối. Đó là việc người phạm tôi cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản của mình bằng việc đưa ra các thủ đoạn gian dối như: đưa ra thông tin giả, không đúng với sự thật hoặc thực hiện các hành vi cụ thể, làm cho người bị lừa dối tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động, bằng hình ảnh…hoặc kết hợp bằng nhiều cách thức khác nhau. - Thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt và là nguyên nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội, nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tùy trường hợp cụ thể, thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che giấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 9 - Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian đối của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại về tài sản do hành vi của mình gây ra cho người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản, bao giờ cũng có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản - Thực tiễn xét xử còn nhiều trường hợp cũng có hành vi là thủ đoạn gian dối, cũng có hành vi chiếm đoạt, nhưng vì hành này đã được Bộ luật hình sự quy định thành tội phạm độc lập thì cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về tội phạm tương ứng khác như: Hành vi làm vé bóng đá giả đem bán lấy tiền là hành vi phạm tội làm vé giả quy định tại Điều 202 BLHS năm 2015; hành vi gian dối trong việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng... để gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi phạm tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198 BLHS năm 2015; v.v... - Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc người phạm tội đã chiếm giữ được tài sản (từ 2.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng kèm theo một trong các dấu hiệu quy định tại điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 174 BLHS): Chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; chủ thể đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. 1.1.1.3. Khái niệm định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Định tội danh là hoạt động phức tạp, là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất được tiến hành ở tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố 10 cho đến giai đoạn xét xử. Đây là một thuật ngữ được nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý với nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, cũng như pháp luật TTHS và được tiến hành bằng cách, trên cơ sở các chứng cứ các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [7; tr 33]. TS. Dương Tuyết Miên có quan điểm: Định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của BLHS hay nói cách khác đấy là quá trình xác định tên gọi cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [14; tr 9]. Về cơ bản các quan điểm trên đều có những nhân tố hợp lý. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, để xây dựng khái niệm định tội danh một cách toàn diện cần phản ánh được bốn yếu tố quan trọng của hoạt động định tội danh là yếu tố chủ thể, yếu tố nhận thức (đánh giá, phân tích hành vi phạm tội); yếu tố về so sánh, đối chiếu kết quả nhận thức đó với quy định của pháp luật hình sự; và đưa ra được kết luận về hành vi được thực hiện. Tiếp thu các quan điểm khoa học trên, tác giả có quan điểm như sau: Định tội danh là một hoạt động nhận thức lý luận, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự, do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành bằng cách phân tích, so sánh, kiểm tra, đối chiếu các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định, từ đó xác định và đưa ra kết luận hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu là 11 tội phạm thì tội phạm đó là gì và được quy định trong điểm, khoản, điều nào của Bộ luật Hình sự. Tác giả đưa ra khái niệm định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hoạt động nhận thức lý luận, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự, do các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành bằng cách phân tích, so sánh, kiểm tra, đối chiếu các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định Điều 174 BLHS năm 2015, từ đó xác định và đưa ra kết luận hành vi đó có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không, nếu có thì được quy định tại điểm, khoản nào của Điều 174 BLHS năm 2015. 1.1.1.4. Đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Từ định nghĩa trên, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành có thể rút ra các đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: Thứ nhất, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hoạt động nhận thức lý luận. Trong đó, chủ thể tiến hành các hoạt động có tính logic như tiến hành phân tích, so sánh, kiểm tra, đối chiếu, các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tại Điều 174 BLHS để tìm ra điểm tương đồng, trên cơ sở đó kết luận hành vi có phải tội phạm hay không, là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội phạm khác. Thứ hai, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hình thức hoạt động thực tiễn pháp lý. Đây là hoạt động của các chủ thể định tội danh mà chủ yếu là cơ quan, người tiến hành tố tụng nhằm cụ thể hóa các quy định pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vào đời sống thực tế. Trong hoạt động này thì chủ thể định tội danh triệt để tuân thủ các quy định của luật tố tụng hình sự nhằm đưa ra kết luận là hành vi được xem xét có đầy 12 đủ các dấu hiệu tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại điểm, khoản nào của Điều 174 BLHS năm 2015. Thứ ba, việc định tội danh được tiến hành trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng hình sự, cần thiết phải đảm bảo tính chính xác tuyệt đối và thông thường được tiến hành theo một trình tự nhất định. Thứ tư, định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là định tội danh đối với một loại tội phạm cụ thể - tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngoài những đặc điểm chung của định tội danh với tư cách là hoạt động nhận thức có tính logic của con người, thì định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có đặc điểm riêng liên quan đến đặc điểm của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trong thực tế khách quan và quy định của BLHS về tội phạm này. 1.1.2. Căn cứ và ý nghĩa định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.1.2.1. Căn cứ định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, dù là chính thức hay không chính thức cũng đều phải dựa trên những cơ sở nhất đinh. Do đinh tội danh là sự đánh giá về mặt pháp lý nên nó có cơ sở pháp lý. Mặt khác, định tội danh lại là hoạt động nhận thức mang tính logic nên nó đồng thời cũng có cơ sở khoa học. Như vậy, có hai cơ sở - cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. - Căn cứ pháp lý của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là toàn bộ các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến định tội danh đối với tội phạm này. Nói cách khác, luật hình sự là luật nội dung (chủ thể định tội danh phải đưa ra kết luận hành vi nguy hiểm cho xã hội có thỏa mãn quy định của Điều 174 BLHS hay không) còn luật tố tụng hình sự là luật về hình thức, là cơ sở pháp lý trên phương diện hình thức trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. 13 - Căn cứ khoa học của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Để mô tả và luật hóa hành vi tội phạm, khoa học luật hình sự sử dụng phương pháp điển hình hóa thông qua các dấu hiệu pháp lý đặc trưng. Tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định trong BLHS được gọi là cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện thông qua 04 yếu tố sau: + Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Không có sự xâm hại quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì không có tội phạm [26, tr.86]. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu, đó là ba quyền năng là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Tuy nhiên, mỗi tội phạm đều xâm phạm tới khách thể nhất định đều phải thông qua việc tác động đến đối tượng cụ thể, là bộ phận cấu thành nên khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động nhằm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể bảo vệ của luật hình sự, khoa học luật hình sự gọi đây là đối tượng tác động của tội phạm. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì đối tượng tác động là tài sản, nhưng không phải mọi tài sản đều có thể trở thành đối tượng tác động của tội này, để trở thành đối tượng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì tài sản đó phải có những đặc điểm nhất định. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt tài sản phải còn nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu, phải có chủ sở hữu cụ thể với các quyết định có tính chất pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản [24; tr.59]. Hơn nữa, tài sản này phải được Nhà nước cho lưu hành và có thể chuyển dịch được giữa các chủ sở hữu, có thể mua bán trao đổi một cách hợp pháp, là tài sản hữu hình, có thực, có thể nhìn thấy, sờ thấy. Một số tài sản đặc biệt không phải là đối tượng của tội xâm phạm sở hữu mà là đối tượng của một số tội phạm khác. Ví dụ: Công 14 trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, tàu bay, tàu thủy… [12; tr.153]. + Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan [6; tr.344]. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện tội phạm như thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ phạm tội, hoàn cảnh phạm tội. Về hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Theo đó, hành vi chiếm đoạt tài sản: được hiểu là người phạm tội cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản của mình. Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc người phạm tội đã chiếm giữ được tài sản (từ 2.000.000 đồng trở lên, hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng kèm theo một trong các dấu hiệu quy định tại điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 174 BLHS) sau khi đã dùng thủ đoạn gian đối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị lừa giao tài sản cho người phạm tội hoặc không nhận tài sản đáng lẽ phải nhận. Về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả: Hậu quả của tội phạm (thiệt hại về tài sản) phải được xuất phát từ hành vi chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Nếu thiệt hại về tài sản từ nguyên nhân khác thì không cấu thành tội này. 15 - Mặt chủ quan của tội phạm: Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm bao gồm: Lỗi, động cơ, mục đích [29, tr.152]. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian đối của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại về tài sản do hành vi của mình gây ra cho người khác và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt thì không phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ trường hợp cụ thể người phạm tội có thể bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Chủ thể của tội phạm: Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ là thể nhân. Theo đó, Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng có năng lực TNHS và đạt độ tuổi do luật hình sự quy định [16; tr.56]. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”. Do vậy, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015. * Ý nghĩa định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Thứ nhất, định tội danh nói chung và định tội danh tội lừa đảo chiếm 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan