Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ định tội danh đối với tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín d...

Tài liệu định tội danh đối với tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong luật hình sự việt nam

.PDF
96
231
105

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THÀNH CHUNG §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI VI PH¹M QUY §ÞNH TRONG HO¹T §éNG CñA C¸C Tæ CHøC TÝN DôNG, CHI NH¸NH NG¢N HµNG N¦íC NGOµI TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2018 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THÀNH CHUNG §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI VI PH¹M QUY §ÞNH TRONG HO¹T §éNG CñA C¸C Tæ CHøC TÝN DôNG, CHI NH¸NH NG¢N HµNG N¦íC NGOµI TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN VĂN ĐỘ HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Nguyễn Thành Chung MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG, CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƢỚC NGOÀI .................................................. 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của định tội danh..................................................... 7 1.1.1. 1.1.2. Khái niệm định tội danh ................................................................................ 7 Đặc điểm của định tội danh ........................................................................... 9 1.2. Khái quát một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài .......................................................................................... 10 1.2.1. Khái quát lịch sử các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và hoạt động ngân hàng tại Việt Nam ................................................................. 10 Quy định về tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện hành .................................................... 15 Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về định tội danh đối với các tội phạm vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ....................................................... 21 1.2.2. 1.2.3. Kết luận Chƣơng 1 .................................................................................................. 31 Chƣơng 2: CƠ SỞ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG, CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƢỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...................................................................... 33 2.1. Dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài ........ 35 2.1.1. 2.1.2. 2.1.3. Các dấu hiệu thuộc khách thể của tội phạm ................................................ 35 Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm ...................................... 36 Các dấu hiệu thuộc chủ thể của tội phạm .................................................... 46 2.1.4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm .......................................... 47 2.2. Quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự 2015 ........................................................................................................ 48 2.3. Một số vấn đề đặt ra đối với Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) liên quan đến định tội danh đối với tội Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng ................................................................................. 53 Kết luận Chƣơng 2 .................................................................................................. 60 Chƣơng 3: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC VI PHẠM TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG KHÁC CÓ LIÊN QUAN, MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƢỚNG MẮC VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC ................................................................................. 62 3.1. Tình hình các tội xâm phạm hoạt động ngân hàng, hoạt động khác có liên quan trong những năm gần đây ................................................... 62 3.2. Thực tiễn định tội danh đối với hành vi vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài ............. 66 Những kết quả đạt được .............................................................................. 66 Một số hạn chế ............................................................................................ 68 3.2.1. 3.2.2. 3.3. 3.3.1. 3.3.2. 3.3.3. 3.4. 3.4.1. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc định tội danh đối với tội phạm trong hoạt động ngân hàng, hoạt động khác có liên quan .... 72 Những vướng mắc, bất cập của Bộ luật hình sự 1999 và của quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng ........................................................................................... 72 Hạn chế về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng .................................................................. 73 Một số nguyên nhân khác............................................................................ 74 Các kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lƣợng định tội danh đối với tội Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng ......................................................... 74 Giải pháp hoàn thiện pháp luật .................................................................... 74 3.4.2. 3.4.3. Giải pháp kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng ................................................................................. 77 Các giải pháp khác ...................................................................................... 79 Kết luận Chƣơng 3 .................................................................................................. 80 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 85 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. BLHS: Bộ luật hình sự 2. CQĐT: Cơ quan điều tra 3. TA: Tòa án 4. TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao 5. TCTD: Tổ chức tín dụng 6. VKS: Viện kiểm sát 7. VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên bảng, biểu đồ Trang Bảng 3.1. Thống kê số vụ án, bị can khởi tố theo Điều 179 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) trên toàn quốc từ năm 2007 đến năm 2016 64 Bảng 3.2. Thống kê về tỷ lệ án tồn đọng trong giai đoạn điều tra, truy tố từ năm 2007 đến năm 2016 69 Bảng 3.3. Thống kê số vụ án Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung từ năm 2012 đến năm 2016 69 Bảng 3.4. Thống kê số vụ án tạm đình chỉ ở CQĐT và VKS từ năm 2007 đến năm 2016 70 Biểu đồ 3.1: Tổng số vụ án/bị can mới khởi tố từ năm 2007 đến 2016 theo thống kê của Cục 2 Viện kiểm sát nhân dân Tối cao 65 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nếu xem nền kinh tế của một quốc gia như một cơ thể sống thì hoạt động ngân hàng được ví như hoạt động của các mạch máu, điều tiết và lưu thông nguồn vốn trong đời sống kinh tế, xã hội, đóng vai trò trọng yếu đối với việc phát triển nền kinh tế. Bảo vệ hoạt động ngân hàng được thông suốt, an toàn luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với mọi nền kinh tế trên thế giới. Hoạt động ngân hàng được thực hiện thông qua các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Dù mới được hình thành trong thời kỳ Đổi mới, nhưng hệ thống các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài của nước ta đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ với mức tăng trưởng cao, được đánh giá là một trong những thị trường trẻ và sôi động bậc nhất trong khu vực. Tuy vậy, hành lang pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập, kèm theo sự lỏng lẻo trong quản lý, điều hành đã khiến hoạt động ngân hàng đang trở nên dễ tổn thương, tạo điều kiện cho tội phạm trong hoạt động ngân hàng xuất hiện và gia tăng cả về số lượng, quy mô, tính nguy hiểm và phức tạp. Những năm gần đây, những vụ đại án tham nhũng, kinh tế liên tục xuất hiện gây chấn động dư luận trong và ngoài nước và hầu hết đều có liên quan đến hoạt động của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Có thể kể đến những vụ án như Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm (tại ngân hàng Á Châu – ACB), vụ Phạm Công Danh và đồng phạm (tại Ngân hàng Xây dựng Việt Nam), vụ Hà Văn Thắm và đồng phạm (tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Dương), gần đây nhất là vụ án Trần Phương Bình và đồng phạm (tại ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á) Trầm Bê và đồng phạm tại ngân hàng cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank)... Những vụ án này đã gây ra những thiệt hại lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng không thể khắc phục, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động ngân hàng cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước. Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung 2017 có hiệu lực từ ngày 01 1 tháng 01 năm 2018 đã có nhiều nội dung quan trọng, đáp ứng yêu cầu phù hợp với Hiến pháp 2013 cũng như thể hiện tinh thần của Cải cách tư pháp. Kế thừa và phát triển quy định về Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng ở BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), BLHS 2015 đã quy định một tội phạm riêng làm công cụ pháp lý đấu tranh, phòng chống tội phạm trong hoạt động ngân hàng, đó là quy định về Tội vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Điều 206. Quy định này đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự 2015 mới được Quốc hội thông qua năm 2017, trong đó có việc sửa tên tội danh thành Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Đây là một bước tiến quan trọng của pháp luật hình sự trong việc bảo vệ sự hoạt động lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều vấn đề đã được đặt ra trong việc định tội danh đối với loại tội phạm này, không chỉ với BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mà còn đối với pháp luật điều chỉnh hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Chính vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề “Định tội danh đối với tội Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong Luật hình sự Việt Nam” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Các công trình nghiên cứu từ trước đến nay chủ yếu tập trung vào nghiên cứu về tội Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (Điều 179 BLHS 1999) như Luận văn Thạc sĩ “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hà, hay Luận văn Thạc sĩ “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Thanh Nga. Vấn đề này cũng được phân tích trong các tài liệu chuyên ngành như: “Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động ngân hàng” - Tạp chí Ngân hàng (số 18/2009) của luật sư Phan Văn Lãng… Những công trình, bài viết trên của các nhà nghiên cứu đã làm rõ được cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và phân tích được thực 2 tiễn định tội danh về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” ở Điều 179 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Qua sự nghiên cứu này, do quy định tại Điều 206 BLHS 2015 được kế thừa và phát triển từ Điều 179 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) nên kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên cũng đã làm rõ nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn của việc định tội danh về tội Vi phạm các quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo BLHS 2015. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây dựng Đề tài khoa học cấp Bộ: “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các vụ án hình sự trong lĩnh vực ngân hàng” hoàn thành vào năm 2014 nghiên cứu về tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng nói chung, bao gồm cả các tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng… xảy ra trong hoạt động ngân hàng. Công trình khoa học này đã phân tích, làm rõ thủ đoạn, hành vi và định tội danh đối với các vi phạm quy định trong hoạt động ngân hàng có dấu hiệu của tội “Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” ở BLHS 2015. Mặc dù những công trình nghiên cứu trên đã đề cập, làm rõ nhiều khía cạnh về lý luận và thực tiễn định tội danh về tội “Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”, tuy nhiên, vì là một tội danh mới của BLHS 2015 có sự kế thừa, tổng hợp từ tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” và một số tội danh khác ở BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), do đó hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ đối với vấn đề định tội danh đối với tội phạm này. Từ tình hình nghiên cứu trên, Luận văn Thạc sĩ này kế thừa những kết quả nghiên cứu đi trước và tiếp tục bổ sung, làm rõ những vấn đề chưa được đề cập, làm rõ về định tội danh đối với tội Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích của đề tài: Mặc dù đây là tội danh vừa được quy định trong BLHS 3 2015 (được tiếp tục được sửa đổi, bổ sung ở Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của BLHS năm 2017) và chưa có hiệu lực thi hành nhưng trên thực tế, các hành vi khách quan cấu thành tội phạm quy định tại Điều 206 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đều đã được định tội danh về các tội phạm khác nhau trong BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Do đó, trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận, pháp lý, kết hợp với thực tiễn định tội danh đối với các hành vi cấu thành tội phạm đã được xử lý theo BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), mục tiêu của đề tài là làm sáng tỏ vấn đề định tội danh theo Điều 206 BLHS 2015, đồng thời có nghiên cứu thêm nội dung mới được hoàn thiện trong quy định của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc định tội danh đối với tội phạm này. Để đạt được mục tiêu trên, một số nhiệm vụ mà tác giả đặt ra trong luận văn bao gồm: Thứ nhất, phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến việc định tội danh đối với tội “Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” theo Điều 206 BLHS 2015; Thứ hai, Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của BLHS 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 206 BLHS 2015, do đó luận văn sẽ có sự cập nhật, đối chiếu, phân tích những vấn đề đã được sửa đổi liên quan đến Điều 206 BLHS 2015.Từ đó phân tích những vấn đề vướng mắc, bất cập nào đã được BLHS 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) khắc phục và vấn đề nào vẫn còn tồn tại; Thứ ba, do BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chưa có hiệu lực pháp luật, cho nên tác giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm về hoạt động ngân hàng (theo BLHS 1999) tương ứng với tội “Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng” trong BLHS 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Sau khi chỉ ra nhưng ưu điểm, luận văn sẽ nghiên cứu về những hạn chế, tồn tại, phân tích nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại đó; 4 Thứ tư, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự trong việc định tội danh theo Điều 206 BLHS 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của pháp luật làm căn cứ định tội danh theo Điều 206 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng như thực tiễn của việc định tội danh đối với các hành vi khách quan cấu thành tội phạm này. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề về lý luận, quy định của pháp luật, thực tiễn liên quan đến việc định tội danh về tội Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo Điều 206 BLHS 2015 trong mối liên hệ với các quy định tương ứng của BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật hình sự 2015 được Quốc hội thông qua năm 2017. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Đề tài là một công trình nghiên cứu có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự để đấu tranh, phòng chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng nói chung, việc định tội danh theo Điều 206 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nói riêng. Về mặt lý luận: Đề tài phân tích các vấn đề về mặt lý luận, trong đó tập trung vào các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật về hoạt động ngân hàng liên quan đến việc định tội danh theo Điều 206 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nói riêng,góp phần kiến nghị hoàn thiện nội dung của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự. Về mặt thực tiễn: Luận văn sẽ đưa ra những giải pháp có thể tham khảo được nhằm góp phần khắc phục những hạn chế, vướng mắc sẽ xuất hiện trong thực tế liên quan đến việc định tội danh theo Điều 206 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bên cạnh đó luận văn có ý nghĩa tham khảo cho các cơ quan lập pháp và các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật cũng như tổ chức tiến hành đấu tranh, phòng chống có hiệu quả đối với loại tội phạm này. 5 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề tội phạm, các quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm thể hiện qua các Văn kiện của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật. Các phương pháp nghiên cứu chính của Luận văn bao gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp liệt kê, phương pháp thống kê…Các phương pháp nghiên cứu này đã được vận dụng một cách linh hoạt để tạo ra kết quả nghiên cứu. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm 3 chương với các nội dung sau: Chương 1: Lý luận về định tội danh đối với tội Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Chương 2: Cơ sở pháp luật hình sự về định tội danh đối với tội Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo pháp luật Việt Nam. Chương 3: Thực tiễn định tội danh đối với các vi phạm trong hoạt động ngân hàng, hoạt động khác có liên quan, một số khó khăn, vướng mắc và các giải pháp khắc phục. 6 Chƣơng 1 LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG, CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƢỚC NGOÀI 1.1. Khái niệm, đặc điểm của định tội danh Định tội danh là một giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giải quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật. Việc nghiên cứu về định tội danh luôn là một trong những trọng tâm nghiên cứu cơ bản và là nhiệm vụ quan trọng của Khoa học luật hình sự [1, tr.17]. 1.1.1. Khái niệm định tội danh Trong Khoa học luật hình sự, dưới những góc độ khác nhau, các nhà khoa học đã đưa ra những khái niệm định tội danh khác nhau. Tuy vậy, dù dưới góc độ nào thì cần cũng phải khẳng định: Nhiệm vụ của định tội danh là xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện có cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS hay không? Nếu hành vi cấu thành tội phạm thì đó là tội gì, thuộc khung hình phạt nào và được điều, khoản nào của BLHS quy định? Mục đích của định tội danh là nhằm xác định đầy đủ sự thật về các tình tiết khách quan của vụ án; đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý và thực tiễn, làm tiền đề cho việc xử lý trách nhiệm hình sự (quyết định khởi tố, truy tố hoặc ra phán quyết trong xét xử) và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật. Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô cũ (Liên bang Nga hiện nay) Kuđriavtxev V.N. coi “định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm do quy phạm pháp luật hình sự quy định” [1, tr.19]. Đồng nhất với quan điểm nêu trên, Giáo sư, tiến sĩ Võ Khánh Vinh cũng đưa ra khái niệm tương tự: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định” [42, tr.18]. Đây là khái 7 niệm tương đối rõ ràng, đồng thời làm rõ được nhiệm vụ của định tội danh. Tuy vậy, khái niệm trên còn chưa làm sáng tỏ những đặc điểm cụ thể của khái niệm này như: Chủ thể của việc định tội danh, cách thức (dạng) tồn tại của phạm trù này. Giáo sư Sliapôchnhikôv A.C. thì cho rằng: Định tội danh là một giai đoạn của hoạt động bảo vệ pháp luật do các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử thực hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và, dựa vào các tình tiết thể hiện sự nguy hiểm cho xã hội của hành vi cụ thể để xác định dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng với hành vi đó [1, tr.20]. Khái niệm này đồng nhất hoạt động định tội danh với một bộ phận của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng. Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Lê Văn Cảm định nghĩa: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính Logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và, được tiến hành bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [1, tr.21]. Chia sẻ với khái niệm nêu trên, Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Độ đưa ra khái niệm định tội (danh): Định tội là một hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật được thể hiện trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm nhất định với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định [27]. Tác giả đồng ý với quan điểm nêu trên của hai nhà khoa học bởi đây là 8 những khái niệm cụ thể và toàn diện về thuật ngữ định tội danh, thể hiện được những đặc điểm cơ bản, riêng có của phạm trù này. Khái niệm nêu trên không chỉ làm rõ nhiệm vụ của định tội danh mà còn chỉ rõ dạng tồn tại của phạm trù này là một “quá trình (hoạt động) nhận thức” và là “một hoạt động áp dụng pháp luật”, qua đó đã khái quát những đặc trưng cơ bản của Định tội danh. 1.1.2. Đặc điểm của định tội danh Từ khái niệm Định tội danh đã nêu trên, có thể phân tích những đặc điểm cơ bản của khái niệm này như sau: Thứ nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận được thể hiện dưới hai khía cạnh: 1) Xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện có phù hợp (tương đồng) với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể do Điều tương ứng trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hay không? 2) Trên cơ sở đó, đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã xảy ra trong thực tế khách quan [1, tr.21]; Thứ hai, vì đây là một hoạt động áp dụng pháp luật nên chủ thể của hoạt động này là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự. Kết quả của hoạt động này là các văn bản áp dụng pháp luật (Lệnh, quyết định, cáo trạng, bản án…); Thứ ba, cơ sở pháp lý duy nhất để định tội danh là cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự quy định về các cấu thành tội phạm đối với từng tội danh cụ thể để từ đó, những chủ thể tiến hành tố tụng “xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm”; Thứ tư, định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự được tiến hành về cơ bản theo bốn bước cụ thể là: Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án trong sự phù hợp với hiện thực khách quan; Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành; 9 Lựa chọn đúng điều luật tương ứng trong Bộ luật hình sự quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm cụ thể để so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đó với các tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện; Cuối cùng là sau khi đã so sánh, đối chiếu và kiểm tra đầy đủ, chính xác thì ra một văn bản áp dụng pháp luật mà trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi thực tế đã thực hiện với cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định trong BLHS [1, tr.22-23]. 1.2. Khái quát một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội Vi phạm quy định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài 1.2.1. Khái quát lịch sử các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và hoạt động ngân hàng tại Việt Nam Ngân hàng được xem là TCTD đầu tiên và cơ bản nhất. Hoạt động ngân hàng theo nghĩa hiện đại của nó đã phát triển từ thế kỷ XIV tại các thành phố giàu có của Ý thời Phục hưng, trong nhiều cách là một sự tiếp nối của những ý tưởng và khái niệm của tín dụng và cho vay bắt nguồn từ thế giới cổ đại. Tuy nhiên, do những đặc điểm về tự nhiên – xã hội mà tại Việt Nam, hoạt động ngân hàng theo ý nghĩa hiện đại được hình thành và phát triển tương đối muộn. Sự hình thành và phát triển hoạt động ngân hàng và các TCTD trải qua ba giai đoạn lớn như sau: Thời kỳ pháp thuộc Trong suốt thời kỳ tồn tại của các triều đại phong kiến Việt Nam cho đến nửa đầu thế kỷ 19, ở Việt Nam chưa có hoạt động ngân hàng. Đến giữa thế kỷ 18, khi Pháp bắt đầu xâm lược nước ta, được sự tán thành của Quốc hội Pháp, ngày 21-011875, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh về việc “thiết lập Đông Dương ngân hàng và cho cơ quan này được hưởng độc quyền phát hành tiền tại các xứ Đông Dương, các thuộc địa Pháp miền Thái Bình Dương và các tỉnh Ấn Độ thuộc Pháp” [2, tr.198] và sau đó cho phát hành tờ tiền Đông Dương. Từ đây, nền kinh tế Đông Dương phụ thuộc hoàn toàn vào Ngân hàng Đông Dương. Đây là một ngân hàng cổ phần, tất cả số cổ phiếu trên đều được tư nhân thu mua. Cho nên, có thể gọi Ngân hàng Đông 10 Dương là một ngân hàng trung ương tư hữu của xứ thuộc địa (vì là ngân hàng có đặc quyền phát hành tiền tệ cho xứ thuộc địa) [29]. Hệ thống tài chính ở Việt Nam thời kỳ này đương nhiên do chính phủ bảo hộ nắm giữ và điều hành, ngân hàng Đông Dương đã độc quyền phát hành tiền và nắm giữ TCTD quan trọng như ngân hàng Pháp - Hoa, ngân hàng địa ốc Đông Dương, ngân hàng Cầm cố Đông Dương, Nông phố ngân hàng,… tạo thành một tập đoàn tài chính có sức mạnh áp đảo trên thị trường tài chính [29]. Thời kỳ chiến tranh giành độc lập cùng với sự hình thành và phát triển ngân hàng một cấp Cách mạng tháng Tám thành công là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, nhưng bên cạnh đó, chính quyền non trẻ mới được thành lập phải đối diện với muôn vàn khó khăn, trong đó có khó khăn về kinh tế. Khi chưa phát hành được động tiền mới, Đảng và Nhà nước vẫn tạm thời sử dụng đồng tiền Đông Dương làm công cụ chi tiêu cho chính quyền cách mạng. Ngày 31-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 18b/SL cho phép phát hành giấy bạc Việt Nam tại các địa phương từ nam vĩ tuyến 16 trở vào. Nhờ vậy, Đảng và Chính phủ ta đã giải quyết được các vấn đề về tài chính cho công cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng xã hội chủ nghĩa và đặt nền móng để hình thành, phát triển nền tài chính - tiền tệ độc lập, tự chủ của đất nước. Đại hội Đảng lần thứ hai (tháng 2/1951) đã đề ra những chủ trương chính sách về tài chính – kinh tế hết sức sáng suốt và kịp thời, phù hợp với bối cảnh của đất nước và để lại những dấu ấn lịch sử. Nội dung cơ bản của những chủ trương, chính sách đó là: Chính sách tài chính phải kết hợp chặt chẽ với chính sách kinh tế nhằm phát triển kinh tế, bồi dưỡng sức sản xuất của nhân dân. “Nắm vững phương châm phát triển kinh tế bảo đảm cung cấp chính là thực hiện một nền tài chính vững chắc” [11, tr.336]. Đặc biệt, Đảng ta xác định rõ: Cải tiến chế độ tín dụng đối với nông nghiệp và thủ công nghiệp. Quỹ tín dụng cần tăng thêm nữa. Sự sử dụng quỹ tín dụng phải nhằm đúng những nguyên tắc sau: 11 + Chú ý vào những nơi nào có nhiều khả năng để phát triển kinh tế và có nhiều sức lao động song lại nghèo phương tiện, nhất là tiền vốn; + Chú ý vào nông nghiệp trước hết, nhưng cũng cần nâng đỡ các ngành thủ công nghiệp cần thiết; trong nông nghiệp thì chú trọng đặc biệt vào bần cố nông, song đối với những phú nông có ý kinh doanh để tăng gia sản xuất mà thiếu phương tiện thì cũng cần giúp. + Việc giúp vốn theo đúng nông thời. + Tổ chức và thủ tục phải đơn giản, hợp lý đúng với quyền lợi của dân nghèo [27, tr.338-339]. Trên cơ sở này, ngày 6/5/1951, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam do đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Tổng giám đốc với những nhiệm vụ sau: 1) Phát hành giấy bạc, điều hòa sự lưu hành tiền tệ; 2) Huy động vốn của nhân dân, điều hòa và mở rộng tín dụng để nâng cao sản xuất của nhân dân và phát triển kinh tế Nhà nước; 3) Quản lý ngân quỹ quốc gia; 4) Quản lý ngoại tệ và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài; 5) Quản lý kim dung bằng các thể lệ hành chính: thể lệ về vàng bạc; thể lệ về quỹ của các doanh nghiệp quốc gia,v.v… 6) Đấu tranh tiền tệ với địch (Điều 2 của sắc lệnh). Đây là một bước ngoặt lịch sử trong hệ thống tiền tệ - tín dụng của Việt Nam. Lần đầu tiên nước ta có được một ngân hàng độc lập, tự chủ của nhân dân. Ngân hàng quốc gia Việt Nam được tổ chức theo quy mô lớn, quản lý hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc tập trung thống nhất, giữ vị trí trụ cột trong hệ thống tiền tệ - tín dụng của nước ta. Cho đến Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1954 đến năm 1975 là thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoàn thành công cuộc giải phóng Miền Nam. Những năm đầu mới hoà bình lập lại, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được đổi tên là Ngân hàng Trung ương, 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan