Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đ...

Tài liệu Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang (Luận văn thạc sĩ)

.PDF
90
118
57

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG HỮU TÙNG ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học Xã hội. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Hữu Tùng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM ........................................................................................... 7 1.1. Khái niệm định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm ............................................................................. 7 1.2. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động định tội danh trong quá trình xử lý vụ án hình sự .............................................................................................................. 21 Chương 2. QUY ĐỊNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM VÀ THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH CỦA CÁC TỘI PHẠM NÀY TẠI TỈNH BẮC GIANG . 26 2.1. Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm theo quy định của bộ luật hình sự .............................. 26 2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong việc định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm. ...... 46 Chương 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TÔI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM .............................................................................................................. 61 3.1. Sự cần thiết phải bảo đảm định tội danh đúng đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm ......................... 61 3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm .............................. 66 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 81 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 83 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BCHTWĐ: Ban chấp hành trung ương đảng BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CĐTS: Chiếm đoạt tài sản CQĐT: Cơ quan điều tra CTTP: Cấu thành tội phạm ĐTHS: Điều tra hình sự ĐTV: Điều tra viên HSST: Hình sự sơ thẩm KSND: Kiểm sát nhân dân KSV: Kiểm sát viên NQ/TW: Nghị quyết trung ương TB/TW: Thông báo trung ương THQCT: Thực hành quyền công tố TNHS: Trách nhiệm hình sự TTATXH: Trật tự an toàn xã hội DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1 Kết quả xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2012 - 2017 48 Kết quả định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất Bảng 2.2 chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn tỉnh 49 Bắc Giang từ năm 2012 - 2017 Nguyên nhân dẫn đến việc định tội danh sai các tội xâm Bảng 2.3 phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm từ năm 2012 - 2017 50 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được về mọi mặt của đời sống xã hội thì vẫn còn tồn tại không ít những hiện tượng tiêu cực. Tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, chưa có chiều hướng giảm, số lượng các vụ án hình sự mà các tòa án phải thụ lý, giải quyết tăng hơn, trong đó có nhiều vụ án lớn và ngày càng phức tạp, nghiêm trọng. Thực tiễn cho thấy, tội phạm được thực hiện thông qua hình thức đồng phạm đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt là tội phạm sở hữu, luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số các vụ án hình sự. Tính chất nguy hiểm, phức tạp và hậu quả của nó gây ra cho xã hội ngày càng cao. Việc Bộ luật hình sự 2015 tiếp tục ghi nhận chế định đồng phạm trong đó có các quy định cụ thể về đồng phạm đánh dấu một bước phát triển về chất trong hoạt động lập pháp hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng chế định đồng phạm trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động xét xử nói riêng khi giải quyết các vụ án về tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thì thấy còn có nhiều vấn đề bất cập, đặc biệt là vấn đề định tội danh trong đồng phạm, đặc biệt đối với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị can, bị cáo không thể hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một cách đặc trưng, rõ ràng, hành vi của người phạm tội lại có nhiều yếu tố khác nhau của các tội phạm khác nhau. Đối với những vụ án thuộc những trường hợp này, đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải có trình độ lý luận cơ bản và vững chắc, trên cơ sở đánh giá, phân tích, tổng hợp từng yếu tố của vụ án, áp dụng các văn bản pháp luật liên quan một cách chính xác thì mới định tội danh đúng. Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…” (Điều 31, khoản 1). Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" (Điều 9). Điều đó có nghĩa, chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực 1 pháp luật thì người bị buộc tội vẫn được coi là người chưa có tội. Định tội danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, chính xác, đồng thời làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng... góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ trật tự pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Việc định tội danh sai sẽ dẫn đến hậu quả rất lớn, đặc biệt là không đảm bảo được tính có căn cứ của hình phạt được tuyên, xét xử không đúng người đúng tội, không đúng pháp luật. Đây cũng là một trong các nguyên nhân của tình trạng oan, sai vẫn còn đang tồn tại. Thông qua thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong đồng phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cho thấy, cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắt trong việc giải quyết vụ án đặc biệt là đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong đồng phạm do quy định còn khó hiểu, các dấu hiệu pháp lý khó xác định trên thực tế... Mặt khác, còn có nhiều quan điểm khác nhau về cách xác định dấu hiệu pháp lý đặc trưng đối với nhóm tội này, nhất là với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị can, bị cáo không thể hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một cách đặc trưng, rõ ràng như tội cướp tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản. Vì vậy,việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống đề tài “Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” là rất cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và định tội danh đối với đồng phạm được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu như: - TS. Nguyễn Mai Bộ, Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009 2 - Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Chương VII "Quyết định hình phạt", trong sách: "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 -Tập 1 phần chung"do TS. Uông Chu Lưu chủ biên, Nxb Chínhtrị Quốc gia, 2001. - "Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh", chương I, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của khoa Luật trực thuộc Đại học Quốcgia Hà Nội (Tập thể tác giả do PGS.TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; - "Định tội danh- lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành", Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004 - ThS. Đoàn Tấn Minh, Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong Bộ luật hình sự hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010 - Trần Thị Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011 - Võ Thanh Hà, Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015 - "Thay đổi định tội danh một số vấn đề lý luận và thực tiễn", PGS.TS. Võ Khánh Vinh, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11, 2003 - Luật gia Đặng Văn Doãn “Vấn đề đồng phạm”, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1986; “Khái niệm người thực hiện tội phạm và khái niệm người đồng phạm", Tạp chí Luật học, số 1/1995, Trường Đại học Luật Hà Nội. - PGS.TS Lê Thị Sơn “Các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm và tổ chức tội phạm với việc hoàn thiện cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự”, sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, 2013... Có thể nói, những công trình khoa học trên là tài liệu quí báu giúp tác giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn, hiện nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong đồng phạm và trên một địa bàn cụ thể là 3 địa bàn tỉnh Bắc Giang. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: tài “Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trước yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói chung, đặc biệt là những tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm, Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và pháp luật của định tội danh trong trường hợp đồng phạm và thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2012 đến năm 2017, luận văn đề xuất các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm ở nước ta, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả của định tội danh trong vụ án hình sự có đồng phạm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu và cơ sở pháp lý của định tội danh các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm. - Phân tích cơ sở lý luận về định tội danh các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm. - Khái quát tình hình các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt và tình hình các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được thực hiện bằng đồng phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2017. - Phân tích thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết vụ án hình sự những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, để tìm ra những ưu điểm, vướng mắc, sai lầm trong thực tiễn cần phải hoàn thiện. - Đúc rút được những vấn đề cần lưu ý khi định tội danh các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm, đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm và thực tiễn áp dụng các quy định về định tội danh các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2012 đến năm 2017. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến định tội danh các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm qua phân tích các số liệu, vụ án cụ thể và đường lối giải quyết của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Giang qua các bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã xét xử từ năm 2012 đến năm 2017. 5. phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1.Phương pháp luận Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, về tính nhân đạo của pháp luật, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ vấn đề tư đó sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê;... Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân tối cao hoặc của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương ban hành có liên quan đến nội dung của đề tài, những số liệu 5 thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và địa phương... để phân tích, tổng hợp các luận chứng,các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đây là đề tài nghiên cứu chuyên khảo đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học. Trong quá trình hoàn thành luận văn, tác giả đã đưa ra những kết quả nghiên cứu trong các tạp chí khoa học pháp lý, kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học pháp lý. 6.2 . Ý nghĩa thực tiễn Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống tương đối toàn diện góp phần nhận thức sâu hơn về lý luận về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm thông qua thực tiễn xét xử; đồng thời luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học; hoàn thiện lý luận về định tội danh cũng như hoạt động thực tiễn về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm cho các cán bộ nghiên cứu, giảng dạy và làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tư pháp khi áp dụng các quy định của BLHS 2015 về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm. Chương 2. Định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Giang. 6 Chương 3. Các giải pháp bảo đảm định tội danh đúng với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM 1.1. Khái niệm định tội danh các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm 1.1.1. Định tội danh Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự diễn ra phức tạp và đa dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn: Định tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong ba giai đoạn trên của toàn bộ quá trình áp dụng luật hình sự. Định tội danh là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, chính xác, đồng thời làm cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng… góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Hiện nay, có rất nhiều cách hiểu khác nhau xoay quanh khái niệm định tội danh, cụ thể: Theo từ điểm Luật học thì: “Định tội danh được hiểu là để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì phải định tội được theo tội danh mà luật hình sự quy định. Cơ sở của việc định tội danh phải dựa vào các dấu hiệu cấu thành tội phạm”[6, tr.39]. Theo quan điểm của tác giả Dương Tuyết Miên: “Định tội đanh được hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện liểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều 7 luật nào của Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện”[17, tr.9]. Theo quan điểm của tác giả Võ Khánh Vinh: “Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng phương pháp thông qua các giải đoạn nhất định” [41, tr.9, 10]. Trong khi đó, nhà thực tiễn Đoàn Tấn Minh quan niệm:“Định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả (quy định) trong luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật” [18]; v.v… Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm định tội danh, tuy nhiên có thể đồng nhất khái niệm định tội danh như sau: Định tội danh là một dạng hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án hình sự đối chiếu, kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật. Khái niệm này cho thấy mục đích của định tội danh là nhằm đạt được sự thật khách quan từ đó đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công bằng, minh bạch, rõ ràng và đúng pháp luật. Khi tiến hành định tội danh các tội phạm cần dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản. Trường hợp điều luật về tội phạm cụ thể chứa đựng nhiều khung hình phạt thì sau khi định tội danh, cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện bước tiếp theo là xác định hành vi phạm tội thỏa mãn khung hình phạt nào. Trên cơ sở định tội danh, Tòa 8 án sẽ lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể đối với người phạm tội như tuyên bị cáo miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc lựa chọn một hình phạt cụ thể cho bị cáo. Theo cách hiểu trên thì định tội danh các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm là việc xác định sự phù hợp chính xác của những hành vi nguy hiểm cho xã hội do hai người trở lên thực hiện, cùng cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, những người đồng phạm này có đủ năng lực trách nhiệm hình sự đã cùng thực hiện một cách cố ý. Xét về thực chất quá trình định tội danh các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm là phải xác định những dấu hiệu cơ bản, điển hình, quan trọng, đồng thời chỉ ra những dấu hiệu cần và đủ để xác định thực chất hành vi xảy ra trên thực tiễn, khi xem xét, đối chiếu các dấu hiệu đó được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) phải đưa được kết luận quy phạm pháp luật được ban hành là để áp dụng cho trường hợp phạm tội cụ thể, là đồng phạm đơn giản hay tội phạm có tổ chức, căn cứ vào cấu trúc của các yếu tố CTTP. Khi định tội danh các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm những người tiến hành định tội danh phải xác định hành vi thực tế của những loại người đồng phạm khác như: Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức (nếu có), trên cở sở đặc điểm riêng của các loại hành vi người đồng phạm được quy định một cách khái quát tại BLHS. Điểm khác biệt này cần được làm rõ để tránh được sự phiến diện trong việc xác định vai trò của người đồng phạm. Định tội danh các tội phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm là tiền đề cho việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự (TNHS) và hình phạt một cách khách quan, đúng căn cứ pháp luật, đồng thời để áp dụng đúng các quy định của BLHS về các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, hình phạt và tội phạm. 1.1.1.2. Đồng phạm Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Theo quy định tại khoản 1, Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do 9 người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Tội phạm trên thực tế được thực hiện bởi một hoặc nhiều người. Khi tội phạm do nhiều người thực hiện có thể có đồng phạm. Nhiều người thực hiện tội phạm có thể là đồng phạm cũng có thể chỉ là trường hợp những người thực hiện tội phạm đã hành động trong sự độc lập hoàn toàn với nhau. Theo quy định tại khoản 1, Điều 17 Bộ luật hình sự 2015 thì khái niệm đồng phạm được hiểu là: “trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Dưới góc độ khoa học luật hình sự, có thể hiểu khái niệm đồng phạm như sau: “Đồng phạm là hình thức phạm tội do hai người trở lên cố ý cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm”. Trên cơ sở khái niệm đồng phạm có thể thấy đồng phạm đòi hỏi phải thỏa mãn các dấu hiệu của mặt khách quan (đó là số lượng, hành vi và mối quan hệ nhân quản) và các dấu hiệu của mặt chủ quan (đó là lỗi và mục đích) [27]. Các dấu hiệu này có tính đặc trưng và bắt buộc đối với đồng phạm: Thứ nhất, mặt khách quan của đồng phạm Về số lượng: Đồng phạm đồi hỏi phải có sự tham gia của hai người trở lên thực hiện một tội phạm. Đây là dấy hiệu bắt buộc thuộc về mặt khách quan của đồng phạm, nếu thiếu dấu hiệu này thì sẽ không có cấu thành đồng phạm. Tội phạm do một người thực hiện chỉ là trường hợp phạm tội riêng lẻ, cấu thành tội phạm độc lập, hậu quả phạm tội là do hành động và ý chí của một người gây ra. Chỉ khi có từ hai người trở lên tham gia thực hiện tội phạm thì mới có sự bàn bạc và cùng nhau hành động. Thứ hai, mặt chủ quan của đồng phạm 10 Đồng phạm đòi hỏi phải có sự cùng cố ý của những người tham gia thực hiện tội phạm do cố ý. Dấu hiệu chủ quan này là bắt buộc và đặc trưng của đồng phạm. Nếu thiếu dấu hiệu này sẽ không có đồng phạm và lúc này nó chỉ là hình thức nhiều người cùng phạm một tội. Về mặt lý trí: mỗi người đều biết hành vi của mình gây ra nguy hiểm cho xã hội và hành vi của những người thực hiện khác cũng gây nguy hiểm cho xã hội cùng mình. Nếu chỉ biết mình có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mà không biết hành vi của người cùng thực hiện cũng gây nguy hiểm cho xã hội giống mình thì chưa thỏa mãn dấu hiệu có lỗi trong đồng phạm. Mỗi người đồng phạm còn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như tội phạm chung mà họ cùng thực hiện. Về mặt ý chí: mong muốn có hoạt động chung, mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra. 1.1.2.3. Đặc điểm của định tội danh các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong trường hợp đồng phạm 1.1.2.1. Đặc điểm Thứ nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic giữa lý luận và thực tiễn Để định tội danh đối với mỗi hành vi phạm tội cụ thể, người tiến hành tố tụng phải xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự hay không và đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi đã thực hiện trong thực tế. Tuy nhiên, pháp luật không thể phản ánh được hết tất cả các mặt của đời sống xã hội vốn rất sinh động và phong phú mà chỉ ghi nhận những nét khái quát, phổ biến đặc trưng của thực tế để từ đó áp dụng cho các trường hợp cụ thể trong cuộc sống. Do đó, đòi hỏi phải có sự nhận thức và phán ánh chính xác, theo kịp và đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của hoạt động lập pháp và vai trò quan trọng của các cơ quan tư pháp trong hoạt động áp dụng pháp luật. 11 Về nguyên tắc, chỉ khi sự đối chiếu giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được xác định là tương ứng và phù hợp với nhau thì mới có thể kết luận được chính xác tội phạm đã xảy ra (là tội gì) và người phạm tội (đã phạm vào tội gì) đồng thời buộc họ chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Việc đối chiếu giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cũng có thể dẫn đến hướng kết luận là không có tội phạm xảy ra hoặc người là đối tượng kết luận không phạm vào tội đang cần được xác định nếu kết quả đối chiếu tương ứng là không có sự phù hợp [18, tr.11] Thứ hai, hoạt động định tội danh phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật nội dung là Bộ luật Hình sự cũng như các quy phạm pháp luật của luật hình thức là Bộ luật tố tụng Hình sự. Việc áp dụng pháp luật hình sự là nội dung pháp lý của hoạt động định tội danh. Vì pháp luật hình sự quy định cụ thể tội danh của từng tội phạm cụ thể với các dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm đang được sử dụng để định tội danh [18, tr.10]. Chính vì thế, việc thiết lập các dấu hiệu đặc trưng cơ bản và điển hình để xác định bản chất pháp lý của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong thực tế khách quan là một vấn đề rất quan trọng của quá trình định tội danh, mà toàn bộ quá trình này phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm của luật nội dung (Bộ luật Hình sự) cũng như luật hình thức (Bộ luật tố tụng Hình sự). Thứ ba, định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện liểm sát và Tòa án) để cụ thể hóa các quy phạm pháp luật hình sự trìu tượng vào đời sống thực tế. Trên cơ sở các định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện và sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn nội dung của các quy phạm pháp luật hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự quy định rõ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có những quyền hạn, trách nhiệm để giải quyết vụ án hình sự và trên cơ sở đó những cơ quan, người có thẩm quyền này tiến hành việc định tội danh để giải quyết vụ án hình sự [17, tr.10]. Trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, Cơ 12 quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xác định được tất cả các tình tiết cần thiết của vụ án phù hợp với hiện thực khách quan. Đây được xem là quy trình cụ thể hóa của quy phạm pháp luật hình sự vào đời sống thực tế, tức là lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể nào đó được thực hiện trong thực tế khách quan và từ đó đưa ra kết luận là: hành vi được xem xét ấy có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong pháp luật hình sự hay không. Thứ tư, định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự được tiến hành theo 04 bước sau: Bước 1: Thiết lập, xem xét, đánh giá đúng các tình tiết của vụ án đã xảy ra trên thực tế khách quan; Trong quá trình xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án đòi hỏi người định tội danh phải đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, vô tư, không định kiến, không suy diễn. Phải dựa vào các chứng cứ đã thu thập được và đánh giá theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xem xét, đánh giá mỗi tình tiết của vụ án phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể, trong tổng thể, biện chứng của cả quá trình phản ánh đúng diễn biến của vụ án đã xảy ra. Bởi cùng một tình tiết nhưng đặt trong mỗi hoàn cảnh khác nhau thì chúng lại có sự khác nhau về bản chất. Quá trình xem xét, đánh giá các tình tiết, sự kiện phải được tiến hành tổng thể, không tách riêng từng tình tiết mà phải có sự phối hợp, gắn kết các tình tiết với nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án.Nếu chỉ kết luận về từng tình tiết độc lập thì không thể phản ánh đúng về bản chất của tình tiết đó trong toàn bộ diễn biến của vụ án. Bước 2: Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm pháp luật hình sự phản ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm về tội danh có hướng lựa chọn. Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự mang tính trìu tượng nên chỉ nêu một cách khái quát những nét đặc trưng mang tính phổ biến để điều chỉnh hiện tượng thực tế. Do đó, đòi hỏi quá trình định tội danh 13 phải sử dụng tư duy nhận thức sâu rộng, đúng đắn về nội dung của các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm. Người định tội danh phải tự đánh giá trên căn cứ khoa học và căn cứ thực tế sao cho có sức thuyết phục. Bước 3: So sánh, đối chiếu hai quá trình trên. Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật chính là bản án và các quyết định có căn cứ, đảm bảo tính khách quan, chính xác trên cơ sở thực hiện 03 bước trên để xác định tội danh cần áp dụng đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể. Cơ sở của hoạt động định tội danh * Cơ sở pháp lý Dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, căn cứ pháp lý của hoạt động định tội danh được hiểu theo hai nghĩa là nghĩa rộng và nghĩa hẹp: Theo nghĩa rộng, những căn cứ pháp lý của hoạt động định tội danh được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp), cũng như hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm. Theo nghĩa hẹp, những căn cứ pháp lý của hoạt động định tội danh chỉ bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm [9, tr.21]. Có tác giả lại chỉ coi ở khía cạnh hẹp hơn, căn cứ pháp lý của việc định tội danh là Bộ luật hình sự mà cụ thể hơn là điều luật quy định về tội phạm cụ thể [17, tr.12]. Bộ luật hình sự 2015 đã liệt kê tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm vào trong bộ luật. Cụ thể, Điều 2 Bộ luật quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”, nếu tội phạm xảy ra trước khi có luật mới quy định về hành vi đó thì hành vi đó không bị coi là tội phạm tức là điều LHS không có hiệu lực hồi tố, kể cả việc pháp luật quy định tăng nặng hình phạt cũng vậy [41, tr.65]. Do đó, Bộ luật hình sự đóng vai trò là 14 cơ sở pháp lý quan trọng nhất của hoạt động định tội danh. Bộ luật hình sự được coi là nguồn trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt. Kết quả của hoạt động định tội danh là đưa ra văn bản kết luận một hay nhiều hành vi nguy nghiểm cho xã hội đang được xem xét, xử lý theo điều luật nào của Bộ luật hình sự. Vì vậy, việc định tội danh phải viện dẫn được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự. Hiện nay, khi xây dựng Bộ luật hình sự 2015, các nhà làm luật vẫn giữ nguyên việc phân chia Bộ luật này thành hai phần là phần chung và phần các tội phạm, theo đó: - Phần chung (Phần thứ nhất Bộ luật hình sự 2015): Bộ luật hình sự ghi nhận nhiệm vụ, nguyên tắc xử lý, các chế định cơ bản và quan trọng nhất của bộ luật là tội phạm và hình phạt, các vấn đề khác như hình phạt, hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp, quyết định hình phạt, xóa án tích… - Phần các tội phạm (Phần thứ hai Bộ luật hình sự 2015): Tại phần này, Bộ luật ghi nhận từng tội danh cụ thể, nêu tên tội danh, các dấu hiệu pháp lý hình sự cơ bản, loại và mức hình phạt cụ thể đối với từng hành vi phạm tội tương ứng. Việc áp dụng quy định của phẩn này phải dựa trên các quy phạm được ghi nhận tại Phần chung của Bộ luật. Ngược lại, các quy phạm của Phần chung cũng trở nên không có ý nghĩa nếu không có các quy phạm của phần các tội phạm trong Bộ luật hình sự. Định tội danh là việc so sánh, đối chiếu các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội với những dấu hiệu được mô tả trong mô hình một loại tội phạm trong phần các tội phạm tương ứng. Với mỗi hành vi phạm tội cụ thể trong phần các tội phạm, Bộ luật hình sự ghi nhận đầy đủ hành vi phạm tội hoàn thành, tuy nhiên, trên thực tết diễn biến tội phạm rất đa dạng, phong phú, do đó, để có thể định tội danh chính xác cần viện dẫn cả quy định của phần chung cũng như chú ý tới hiệu lực của điều, khoản được viễn dẫn về không gian và thời gian. * Cơ sở khoa học 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất