ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----o0o----
LÊ QUỐC VỤ
ĐÌNH TÌNH QUANG
KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC
Chuyên ngành: Khảo cổ học
Mã số: 60 22 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: TS Lê Đình Phụng
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình tổng hợp và nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các tài liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, khách quan và
đƣợc trích nguồn rõ ràng. Những ý kiến khoa học chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn
LÊ QUỐC VỤ
1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................... 1
MỤC LỤC............................................................................................... 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ..................................................... 4
DANH MỤC PHỤ LỤC ......................................................................... 5
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 9
1. Lý do chọn đề tài................................................................................. 9
2. Mục đích nghiên cứu......................................................................... 10
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ........................................................ 11
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................. 11
5. Kết quả và đóng góp của luận văn .................................................... 11
6. Bố cục luận văn ................................................................................. 12
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TƢ LIỆU .................................................... 13
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................. 13
1.2. Không gian, vị trí đình Tình Quang ............................................... 20
1.3. Nhân vật đƣợc thờ tại đình Tình Quang ........................................ 21
1.3.1. Tìm hiểu về Thành hoàng và Thành hoàng làng ........................ 21
1.3.2. Nhân vật đƣợc thờ tại đình Tình Quang ..................................... 23
1.4. Tiểu kết .......................................................................................... 28
Chƣơng 2: KIẾN TRÚC ĐÌNH TÌNH QUANG .................................. 30
2.1. Tìm hiểu về cảnh quan, không gian đình làng ............................... 30
2.2. Cảnh quan, không gian đình Tình Quang ...................................... 35
2.3. Kiến trúc đình Tình Quang ............................................................ 37
2.3.1. Một vài khái niệm về kiến trúc đình làng ................................... 37
2.3.2. Kiến trúc đình Tình Quang ......................................................... 41
2.3.2.1. Bố cục mặt bằng....................................................................... 42
2.3.2.2. Hồ bán nguyệt (Ao đình) ......................................................... 45
2
2.3.2.3. Bình phong ............................................................................... 45
2.3.2.4. Nghi môn.................................................................................. 45
2.3.2.5. Nhà Tả vu, Hữu vu ................................................................... 48
2.3.2.6. Đại đình .................................................................................... 49
2.3.2.7. Hậu cung .................................................................................. 52
2.4. Tiểu kết .......................................................................................... 55
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC, TRANG TRÍ VÀ ĐỊNH
HƢỚNG BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐÌNH TÌNH QUANG........ 56
3.1. Vài nét về nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình làng ...................... 56
3.1.1. Vài trò, vị trí của nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình làng ........ 56
3.1.2. Kỹ thuật điêu khắc, trang trí đình làng ....................................... 59
3.2. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí đình Tình Quang .......................... 63
3.2.1. Nghệ thuật trang trí trên đất nung, vôi vữa ................................. 63
3.2.2. Nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên gỗ ....................................... 64
3.2.3. Một số hiện vật của đình Tình Quang......................................... 70
3.3. Niên đại đình Tình Quang.............................................................. 73
3.3.1. Niên đại kiến trúc Đại đình ......................................................... 73
2.3.2. Niên đại các công trình khác ....................................................... 74
3.4. Định hƣớng bảo tồn, phát huy giá trị đình Tình Quang ................ 74
3.4.1. Những quy định về bảo tồn và phát huy giá trị di tích ............... 74
3.4.2. Những nguyên tắc cơ bản để bảo quản, tu bổ và phát huy giá trị
đình Tình Quang ................................................................................... 77
3.5. Tiểu kết .......................................................................................... 80
KẾT LUẬN ........................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 87
PHỤ LỤC .............................................................................................. 94
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
Bd.
Bản dịch
DSVH
Di sản văn hóa
KCH
Khảo cổ học
KHXH
Khoa học Xã hội
Nxb
Nhà xuất bản
PGS
Phó Giáo sƣ
TP HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
T/c
Tạp chí
tr.
Trang
TS
Tiến sỹ
VHDT
Văn hóa dân tộc
VHNT
Văn hóa nghệ thuật
4
DANH MỤC PHỤ LỤC
BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ
Bản đồ 01: Thành phố Hà Nội [Nguồn: Tập bản đồ hành chính 63 tỉnh,
thành phố Việt Nam, Nxb Tài nguyên - Môi trƣờng và Bản đồ Việt
Nam, Hà Nội 2013]
Bản đồ 02: Quận Long Biên [Nguồn: Tập bản đồ hành chính 63 tỉnh,
thành phố Việt Nam, Nxb Tài nguyên - Môi trƣờng và Bản đồ Việt
Nam, Hà Nội 2013]
Sơ đồ 03: Khoanh vùng bảo vệ di tích, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản
văn hóa]
BẢN VẼ
Bản vẽ 01: Mặt bằng định vị các hạng mục công trình
Bản vẽ 02: Mặt đứng Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản vẽ 03: Mặt đứng Đại đình
Bản vẽ 04: Mặt bằng nền Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản vẽ 05: Mặt bằng nền Đại đình
Bản vẽ 06: Mặt đứng bên
Bản vẽ 07: Mặt cắt, năm 1992 [Nguồn Cục Di sản văn hóa]
Bản vẽ 08: Mặt cắt A - A
Bản vẽ 09: Mặt cắt B - B
Bản vẽ 10: Mặt cắt C - C
Bản vẽ 11: Mặt cắt D - D
Bản vẽ 12: Mặt cắt E - E
Bản vẽ 13: Chi tiết vì trục 4, 5, 6, 7
Bản vẽ 14: Chi tiết vì trục (C1 - C3’), (D1’ - D3), (C8 - C10’), (D - D10’)
Bản vẽ 15: Chi tiết vì trục G
5
Bản vẽ 16: Chi tiết vì trục H, K
Bản vẽ 17: Chi tiết vì nách 3, 4, 5, 6, 7, 8
Bản vẽ 18: Chi tiết vì trục 3, 8
BẢN ẢNH
Bản ảnh 01: Vị trí di tích đình Tình Quang chụp từ vệ tinh [Nguồn:
Google Earth 2015]
Bản ảnh 02: Ao đình, năm 2007
Bản ảnh 03: Hồ bán nguyệt (Ao đình)
Bản ảnh 04: Nghi môn
Bản ảnh 05: Toàn cảnh đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 06: Toàn cảnh đình
Bản ảnh 07: Mặt đứng Đại đình
Bản ảnh 08: Mặt bên Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 09: Mặt bên Đại đình, năm 2007
Bản ảnh 10: Chi tiết “Lƣỡng long chầu nhật” trên bờ nóc Đại đình
Bản ảnh 11: Chi tiết kìm nóc trên mái Đại đình
Bản ảnh 12: Bẩy hiên phía trƣớc Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di
sản văn hóa]
Bản ảnh 13: Bẩy hiên phía trƣớc Đại đình
Bản ảnh 14: Bẩy hiên phía sau Đại đình, năm 2008 [Nguồn: Lê Thu
Phƣơng]
Bản ảnh 15: Bẩy hiên góc Đại đình, năm 2008 [Nguồn: Lê Thu
Phƣơng]
Bản ảnh 16: Tả vu
Bản ảnh 17: Hữu vu
Bản ảnh 18: Hậu cung
Bản ảnh 19: Không gian Đại đình
6
Bản ảnh 20: Vì nóc, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 21: Trang trí trên cốn Đại đình, năm 1992 [Nguồn Cục Di sản
văn hóa]
Bản ảnh 22: Trang trí trên cốn Đại đình, năm 1992 [Nguồn: Cục Di sản
văn hóa]
Bản ảnh 23: Mảng chạm hình chim phƣợng trên cốn, năm 1992
[Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 24: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 25: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng
Bản ảnh 26: Hệ thống đầu dƣ
Bản ảnh 27: Hệ thống đầu dƣ
Bản ảnh 28: Mảng chạm rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 29: Mảng chạm tiên cƣỡi rồng, năm 1996 [Nguồn: Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 30: Mảng chạm hình ngƣời ở đuôi đầu dƣ, năm 2006 [Nguồn:
Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 31: Mảng chạm hình ngƣời ở đuôi đầu dƣ
Bản ảnh 32: Mảng chạm hình con nghê ở đuôi đầu dƣ, năm 2006
[Nguồn: Vũ Văn Hòa]
Bản ảnh 33: Mảng chạm hình con lân
Bản ảnh 34: Mảng chạm hình con rồng
Bản ảnh 35: Mảng chạm hình chim phƣợng, năm 2006 [Nguồn: Vũ
Văn Hòa]
Bản ảnh 36: Mảng chạm hình chim phƣợng
Bản ảnh 37: Mảng chạm mả táng hàm rồng
Bản ảnh 38: Trang trí trên vì nách Đại đình
Bản ảnh 39: Trang trí trên vì nách Đại đình
Bản ảnh 40: Trang trí trên vì nách Đại đình
7
Bản ảnh 41: Nền Đại đình [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 42: Nền Đại đình, năm 2007
Bản ảnh 43: Nền Đại đình
Bản ảnh 44: Bộ cửa Đại đình
Bản ảnh 45: Chân tảng cũ
Bản ảnh 46: Chân tảng mới
Bản ảnh 47: Gian thờ giữa Đại đình
Bản ảnh 48: Cửa võng Hậu cung
Bản ảnh 49: Cốn Hậu cung [Nguồn: Cục Di sản văn hóa]
Bản ảnh 50: Bài trí đồ thờ trong Hậu cung, năm 1992 [Nguồn: Cục Di
sản văn hóa]
Bản ảnh 51: Long đình
Bản ảnh 52: Ngựa thờ tại Đại đình
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cƣ dân nƣớc ta chủ yếu là nông dân, sinh sống trong các làng xã,
một đơn vị hành chính cơ bản của xã hội Việt Nam, đóng vai trò quan trọng
trọng lịch sử, văn hoá dân tộc. Thời Trung đại và Cận đại đã xuất hiện và tồn
tại ở hầu hết làng xã một sản phẩm văn hoá đặc sắc đó là các công trình tôn
giáo, tín ngƣỡng, mà nổi bật nhất là đình, chùa làng. Trải qua quá trình lịch
sử, đình, chùa làng và các di tích tôn giáo tín ngƣỡng khác của ngƣời Việt
chiếm một vị trí đặc biệt và quan trọng trong kho tàng di sản văn hoá Việt
Nam, là sản phẩm văn hoá vật thể đặc trƣng của ngƣời Việt và trong ký ức
của mỗi ngƣời dân Việt Nam cây đa, giếng nước, sân đình mãi mãi là hình
ảnh quê hƣơng với bao thân thƣơng và đầy ắp ký ức.
Trong công cuộc đƣa đất nƣớc tiến lên theo định hƣớng Xã hội Chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nƣớc ta chủ trƣơng xây dựng một
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vì vậy, tìm hiểu,
nghiên cứu về đình làng là một trong những ngả đƣờng tìm về cội nguồn, về
bản sắc văn hoá dân tộc trong lịch sử.
1.2. Đình làng Việt hiện còn có sớm nhất là những đình làng của thế kỷ
XVI. Đình làng cùng với các công trình tôn giáo, tín ngƣỡng khác, nhƣ chùa,
đền, phủ… gắn bó mật thiết với nhau đã tạo thành cụm di tích không thể tách
rời, chi phối đời sống văn hóa làng xã. Đối với khảo cổ học nói riêng và đối
với khoa học lịch sử nói chung, đình làng là đối tƣợng nghiên cứu cần đƣợc
quan tâm.
Theo các nhà nghiên cứu, thế kỷ XVII là giai đoạn hƣng thịnh của kiến
trúc điêu khắc dân gian Việt, tiêu biểu nhất là nghệ thuật kiến trúc và điêu
khắc đình làng. Còn lại với chúng ta ngày nay, trong đó có những công trình
9
kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, làm rạng danh di sản kiến trúc cổ truyền của
dân tộc. Trong số đó, đình Tình Quang (Long Biên, Hà Nội) nổi lên nhƣ là
một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu, đặc sắc. Đình Tình
Quang hiện còn giữ đƣợc đầy đủ các hạng mục kiến trúc cùng với các thành
phần, cấu kiện kiến trúc thế kỷ XVII, XVIII, XIX.
Với giá trị kiến trúc tiêu biểu, đặc sắc nhƣ vậy, nhƣng đình Tình
Quang, trừ một vài bài viết, hình ảnh mô tả một cách khái lƣợc về kiến trúc,
nghệ thuật điêu khắc, một khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Trƣờng Đại học
Văn hóa Hà Nội (2008) viết về đình Tình Quang còn lại tới nay vẫn chƣa có
một công trình khảo cứu đầy đủ, cụ thể và toàn diện về di tích này.
1.3. Đƣợc làm việc tại Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, tôi có mong muốn tìm hiểu về di tích kiến trúc cổ. Việc hiểu biết về
di tích kiến trúc cổ sẽ giúp tôi có nhận thức đúng đắn, sự trân trọng với những
di sản của ông cha để lại, từ đó có những định hƣớng tích cực cho việc bảo
tồn và phát huy giá trị di tích.
Từ những lý do đó, tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học, Chuyên
ngành Khảo cổ học là: Đình Tình Quang kiến trúc và điêu khắc.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Khảo tả, phân tích cụ thể về cảnh quan, môi trƣờng làng Tình
Quang xƣa; về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở đình Tình Quang.
2.2. Nhìn nhận, đánh giá lại một số vấn đề về kiến trúc cổ và điêu khắc,
trang trí thuộc phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII, XVIII, XIX.
2.3. Suy nghĩ, đánh giá về loại hình kiến trúc đình làng trong dòng phát
triển chung của kiến trúc Việt.
10
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đã đƣợc chỉ rõ trong tên đề tài:
đình Tình Quang kiến trúc và điêu khắc.
3.2. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của luận văn còn đƣợc mở rộng
làm cơ sở so sánh, khẳng định giá trị của đình Tình Quang trong hệ thống
kiến trúc đình Việt Nam.
Ngoài ra, để có thêm tƣ liệu đối sánh về các trang trí điêu khắc, tôi sẽ
sử dụng cả các tƣ liệu mỹ thuật cổ (điêu khắc và đồ họa) trên các chất liệu
khác. Đó là những đồ án trang trí trên đồ gốm, đồ sứ, đồ đá và gạch trang trí
kiến trúc có ghi niên đại chính xác của thế kỷ XVII, XVIII, XIX.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Sử dụng các phƣơng pháp của khảo cổ học trong khảo sát điền dã
thực địa là các thao tác lấy tƣ liệu bằng: đo, vẽ, chụp ảnh, rập thác bản hoa
văn và văn bia. Trong nghiên cứu là cách khảo tả, so sánh, phân tích và tổng
hợp về nghệ thuật, kết cấu kiến trúc và nghệ thuật trang trí.
4.2. Kết hợp liên ngành, nhƣ sử dụng các phƣơng pháp, thao tác của
Hán Nôm, nghệ thuật, kiến trúc.
4.3. Phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét,
nhìn nhận các sự việc, hiện tƣợng và sự kiện lịch sử.
5. Kết quả và đóng góp của luận văn
5.1. Hệ thống hoá tƣ liệu về đình Tình Quang.
5.2. Phân tích, nêu bật các giá trị về kiến trúc, điêu khắc trang trí của
đình Tình Quang.
5.3. Cung cấp tƣ liệu, thông tin và định ra niên đại khởi dựng của đình
Tình Quang.
5.4. Cung cấp tài liệu phục vụ cho công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy
giá trị di tích.
11
6. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn
gồm 03 chƣơng:
- Chƣơng 1: Tổng quan tƣ liệu;
- Chƣơng 2: Kiến trúc đình Tình Quang;
- Chƣơng 3: Nghệ thuật điêu khắc, trang trí và định hƣớng bảo tồn, phát
huy giá trị đình Tình Quang.
Ngoài ra, trong luận văn còn các mục: Tài liệu tham khảo và Phụ lục.
Phần đầu của luận văn có Lời cam đoan, Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt
và Danh mục phụ lục.
12
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TƢ LIỆU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đình làng là một công trình kiến trúc đƣợc coi là lớn nhất của làng xã,
là một trung tâm văn hóa truyền thống của cộng đồng. Ngôi đình làng Việt là
một đối tƣợng của nhiều nhà nghiên cứu để tìm hiểu về văn hóa nghệ thuật
truyền thống của dân tộc và góp phần giới thiệu với công chúng những giá trị
văn hóa nghệ thuật của ông cha.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu của Học viện
nghiên cứu Viễn Đông thuộc Pháp là những ngƣời đầu tiên đã chú ý đến các
ngôi đình làng của ngƣời Việt.
Nghiên cứu dƣới góc độ nghệ thuật kiến trúc, Louis Bezacier trong
công trình L’Art Viêtnamien đã viết: Đình làng là trung tâm toàn bộ xã hội
Việt Nam thời cổ, cũng là nơi ít chịu ảnh hƣởng của phong cách kiến trúc
Trung Hoa nhất... Ngôi đình đã trở thành một trong những công trình có vẻ
oai nghiêm nhất trong phong cảnh Việt Nam [87].
Có thể thấy rằng, ở thời kỳ đầu, các nhà nghiên cứu chú trọng nhiều
hơn về vấn đề tôn giáo - tín ngƣỡng. Ngôi đình làng đƣợc nhìn nhận nhƣ là
một dấu vết đang phôi phai của chế độ quân chủ. Cho đến những năm 70 - 80
của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ thuộc Viện Mỹ thuật Việt
Nam đã tiếp nối việc nghiên cứu đình làng. Đó là các bài viết của Trần Lâm
Biền, Nguyễn Tiến Cảnh, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Du Chi, Trần Mạnh
Phú, Chu Quang Trứ, Thái Bá Vân… Ngôi đình làng đƣợc nhấn mạnh, ca
ngợi nhƣ một điểm sáng của nghệ thuật dân gian Việt. Trong thời kỳ này đã
xuất hiện một thuật ngữ khoa học mới điêu khắc đình làng. Các nghiên cứu
điền dã đó đã làm “sống lại” hàng loạt ngôi đình khắp các làng quê Việt Nam.
13
Cũng từ góc độ mỹ thuật, hai nhà nghiên cứu Nguyễn Quân và Phan Cẩm
Thƣợng đã góp một tiếng nói về nghệ thuật của ngƣời Việt với đình làng.
Thời kỳ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, với một loạt bài viết trên
Tạp chí Khảo cổ học và Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, cố PGS.TS Trịnh
Cao Tƣởng đã đi sâu hơn về nhiều vấn đề của đình làng nhƣ: Các tƣ liệu về
niên đại, đất dựng đình, mặt bằng tổng thể, cấu trúc bộ mái, kết cấu bên trong
ngôi đình với vấn đề dân tộc và hiện đại cùng hình tƣợng kiến trúc của ngôi
đình. Công trình khảo cứu về Đình Việt Nam của GS Hà Văn Tấn cùng các
cộng sự cũng là nguồn tài liệu mà những ngƣời đi sau muốn tìm hiểu, nghiên
cứu về đình đều lấy đó để làm tài liệu tham khảo.
Nhƣ vậy, đến thời kỳ này, các ngôi đình làng trên cả nƣớc, với niên đại
trải dài suốt từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX đã đƣợc phát hiện hoặc nhìn nhận
lại dƣới những góc độ khác nhau. Trong khoảng hơn một thế kỷ, có rất nhiều
nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đã khảo cứu, tìm hiểu về ngôi đình làng
Việt, cũng từ đây đã nảy sinh nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau về lịch sử,
nguồn gốc của ngôi đình.
Theo Từ điển tiếng Việt, đình có nghĩa là: “Nhà công cộng của làng
thời trước, dùng làm nơi thờ thành hoàng và họp việc làng (thường là nhà to,
rộng nhất làng)” [46, tr. 324].
Trong nhận thức của nhiều ngƣời, khi nói đến ngôi đình, ngƣời ta nghĩ
ngay tới kiến trúc lớn nhất của làng xã, đồng thời, cũng có thể coi đây là một
kiến trúc bắt nguồn từ thời Tiền sử, Sơ sử của dân tộc. Nhiều nhà nghiên cứu
của thế kỷ XX đã cố công ngƣợc dòng lịch sử để tìm về nguồn gốc của ngôi
đình, họ đã tiếp cận từ góc độ các vị thần linh liên quan, trên cả phƣơng diện
so sánh kiến trúc với những ngôi nhà có nét tƣơng đồng của tộc ngƣời thiểu
số để gần nhƣ tin rằng ngôi đình của ngƣời Việt là một sản phẩm của sự vận
14
động tự thân dân tộc, là sự tổng hòa của nhiều dòng chảy văn hóa nhƣ: nhà
sàn, nhà rông (Tây Nguyên), nhà thuyền ven biển cùng nhiều yếu tố khác.
Nhiều nhà nghiên cứu của Học viện nghiên cứu Viễn Đông thuộc Pháp
đã liên hệ, so sánh và cho rằng có sự tƣơng đồng của đình làng Việt với
những kiến trúc công cộng khác của các dân tộc ít ngƣời ở Tây Nguyên và
vùng Đông Nam Á. Đồng quan điểm này, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Huyên cho rằng, đình làng giống kiểu thức nhà công cộng của cƣ dân Minang
Kabau (đảo Sumatra). Nhà nghiên cứu Bình Nguyên Lộc cũng liên tƣởng
đình làng Việt với kiểu nhà sàn Malayo mà giáng dấp còn lƣu lại ở một tộc ít
ngƣời hiện còn sống ở phía Nam quần đảo Nhật Bản [45]. Cố PGS.TS Trịnh
Cao Tƣởng đã viết: “Hầu như tất cả những người nghiên cứu đình làng đều
có một dự cảm chung rằng: đình làng đã từng tồn tại trong nền văn hoá Việt
cổ từ hàng ngàn năm trước với tư cách là một căn nhà công cộng - nhà làng,
tương tự như nhà rông của đồng bào Bana” [68, tr. 41-51]. Nhƣng cũng theo
ông thì: “… chúng ta chưa có bất cứ một tư liệu khảo cổ học về đình hoặc là
một hình thức gạch nối giữa nhà làng và cái đình” [68, tr. 41-51]. Cố PGS
Nguyễn Du Chi có ý kiến: “Tuy nhiên, từ ngôi nhà sàn mái cong khắc trên
trống đồng Đông Sơn mà được nhiều nhà nghiên cứu coi như tiền thân xa xôi
của ngôi đình làng thời Mạc mà chúng ta còn thấy ngày nay là một dấu gạch
nối dài đòi hỏi những phát hiện tìm tòi của nhiều nhà khoa học nữa mới có
thể đi đến kết luận rõ ràng được” [17, tr.12].
Cũng có ngƣời suy luận theo một ngữ nghĩa của chữ đình là dừng lại,
cho rằng đình có xuất phát từ đình trạm. Hay nhƣ khi dời đô từ Hoa Lƣ ra
Thăng Long, nhà Lý đã bắt dân vùng ven sông Đáy cứ 10 dặm lại dựng một
đình cho vua nghỉ và kiến trúc này trở thành đình làng. Trong khi đó, PGS.TS
Trần Lâm Biền lại nhìn nhận ngôi đình làng nhƣ một sản phẩm của sự giao
thoa, hòa hợp giữa tƣ tƣởng Nho giáo và nhu cầu xã hội có tính dân giã để từ
15
đó định mốc niên đại ra đời của ngôi đình làng là vào cuối thế kỷ XV. Theo
ông, đình làng khởi nguyên là: “một nhà công cộng để nghỉ chân (đình
chạm)” rồi “có những ngôi đã trở thành kiến trúc công cộng của làng xã” [5,
tr. 38-43, 53].
Thực tế, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều loại đình khác nhau: “Tương
truyền, vào thời Đinh và Tiền Lê (968 - 980 và 980 - 1009), sứ giả các vùng và
các lân quốc thường đi thuyền về kinh đô, lên nghỉ tại Dịch Đình này trước khi
được vào bệ kiến. Tuy vậy, từ những căn cứ nêu trên cũng chỉ có thể suy luận
rằng Dịch Đình là tiền thân của kiến trúc Quán Sứ về sau” [33, tr. 2].
Văn bia chùa Linh Xứng, dựng năm 1126 có ghi: “Kế bên sông có cái
đình nhỏ. Thường thuyền bè qua lại đó để nghỉ ngơi” và cho đến nay, có lẽ
đây văn bản cổ Việt Nam đầu tiên có chữ đình (亭).
Một loại kiến trúc cũng đƣợc gọi là “đình” đƣợc đề cập tới là vào triều
Lý. Đại Việt sử ký toàn thƣ chép: “Bính Tý, [Đại Định] năm thứ 17 [1156].
Làm hành cung Ngự Thiên, điện Thụy Quang, gác Ánh vân, cửa Thanh Hòa,
thềm Nghi Phượng, gác Diện Phỳ, đình Thưởng Hoa, thềm Ngọc Hoa, hồ Kim
Liên, cầu Minh Nguyệt” [21, tr. 145].
Thƣởng Hoa đình này hẳn là tòa nhà để vua quan dừng chân nghỉ ngơi,
thƣởng thức vẻ đẹp của hoa và có lẽ nó cũng tƣơng tự nhƣ loại Lan đình đƣợc
Đại Việt sử ký toàn thƣ nhắc tới dƣới thời Trần: “Mậu Thìn, [Thiệu Long]
năm thứ 11 [1269]. Mùa Xuân, tháng giêng, ... xuống chiếu cho các vương
hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và Lan đình. Vua cùng ăn uống
với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê
giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau.”.
Cũng Đại Việt sử ký toàn thƣ ghi sự kiện năm 1231: “Thượng hoàng
xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình Trạm đều phải đắp tượng
16
phật để thờ. Trước đây, tục nước ta vì nóng bức, nên làm nhiều đình cho
người đi đường nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là đình Trạm. Thượng
hoàng khi còn hàn vi từng nghỉ ở đó...” [21, tr. 163].
Cƣơng Mục cũng ghi về sự kiện này nhƣng không gọi là đình Trạm mà
gọi là Dịch đình [52]. Nhƣ vậy, loại kiến trúc này cũng ít nhất phải có từ thời Lý.
Trịnh gia thế phả đã cung cấp cho chúng ta tên gọi một loại đình khác
đó là đình Mục Đồng. Theo sách này cho biết thì, thủa hàn vi Trịnh tổ thủa
nhỏ đi chăn trâu bao giờ cũng đóng vai trò thủ lĩnh trong đám trẻ mục đồng.
Có thể, nó cũng tƣơng tự nhƣ một dạng quán nghỉ giữa đồng, ven đƣờng,
vẫn còn đây đó tại các vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Đó thƣờng là
những ngôi nhà nhỏ, ba gian (có chái hoặc không chái), đƣợc dựng dƣới bóng
cây lớn, là nơi mọi ngƣời có thể dừng chân nghỉ ngơi tránh mƣa, nắng.
Rõ ràng Dịch đình, đình Trạm, Lan đình, Thƣởng Hoa đình hay đình
Mục Đồng là một loại kiến trúc hoàn toàn khác, không thể giống những ngôi
đình làng nhƣ ta vẫn thấy hiện nay. Thậm chí đình làng còn ngƣợc lại hẳn với
đình Trạm. “Trên một cái kẻ của đình làng Phù Lưu (Bắc Ninh) còn ghi:... kẻ
nào cho khách đi đường và bọn công thương trú ngụ (ở trong đình) thì xin
thần linh tru diệt” [78, tr. 82].
Sang thế kỷ XV, dƣới thời Lê sơ, một loại đình đƣợc nhà nƣớc cho
dựng ở kinh đô, dùng làm nơi niêm yết, ban bố chính lệnh: đình Quảng Văn.
Sách Cƣơng mục chép: “Tháng 10, mùa đông (năm Tân Hợi 1491) dựng đình
Quảng Văn. Trước đây, khi nào có chiếu lệnh của nhà vua ban ra, lúc ấy mới
đem treo bảng yết thị. Đến nay, dựng đình ở ngoài cửa Đại Hưng làm nơi
treo những pháp lệnh về việc chính trị. Khi đình ấy đã lạc thành, nhà vua đặt
tên cho là đình Quảng Văn”. Đại Việt sử ký toàn thƣ cũng ghi về sự việc này
và chú thích thêm: Quảng Văn nghĩa là truyền bá rộng: “Đình này ở trong
17
Long thành, phía trước Phụng Lâu, có ngòi Ngân Câu chảy quanh hai bên tả
hữu” [21].
Chúng ta chƣa thấy có nét tƣơng đồng giữa đình Quảng Văn với những
ngôi đình làng hiện nay. Tuy nhiên, những tƣ liệu khác cho phép chúng ta
nghĩ rằng đình làng đã xuất hiện dƣới thời Lê sơ (thế kỷ XV) - giai đoạn Nho
giáo đƣợc đề cao ở nƣớc ta. Đại Việt sử ký toàn thƣ chép sự kiện năm 1522:
“Bọn Hưng Hiền bốn người mang mộc, cầm giáo từ phường Phục Cổ đánh
thẳng vào Điện Thụy Quang. Vua bèn tránh ra đóng ở đình cũ xã Nhân Mục”
[21]. Điều này cũng phù hợp với tên một tấm bia ở đình Yên Mô (Ninh Bình)
có niên đại 1472: “Yên Mô xã đình bi ký” [78, tr. 83].
Thông qua các tài liệu, có thể thấy đƣợc trong lịch sử đã từng tồn tại
nhiều loại kiến trúc có tên gọi chung là đình: ngôi nhà vuông - Phƣơng đình;
kiến trúc có mái tròn - Viên đình; nhà trên mặt nƣớc - Thủy đình; nơi nhàn
tản - Hoa đình, Lƣơng đình; nhà che bia - Bi đình; cầu có mái - Kiều đình; rồi
Trạm đình, Quán đình, Dịch đình. Tất cả đều hàm nghĩa là một ngôi nhà, một
công trình, một đơn nguyên. Điểm khác nhau chỉ là về hình dáng và công
năng. Nếu nhìn nhận theo ngôn ngữ học thì tính từ chỉ rõ sự khác nhau của
các kiến trúc này thƣờng đứng trƣớc. Cấu trúc cũng cho thấy nguồn gốc
Trung Hoa của các kiến trúc đó. Nhƣng đình làng (hay hiểu một cách chính
xác hơn đình của làng) thì rõ ràng là một từ thuần Việt. Các ngôi đình làng
nên đƣợc hiểu là một kiến trúc độc lập, không có nguồn gốc từ bất kỳ một
công trình nào khác có cùng tên gọi. Nghĩa là đình làng là đình làng và kiến
trúc này chỉ là mƣợn tên chứ không hề có nguồn gốc Hán hay ngoại lai [38].
Nhƣ vậy, về nguồn gốc ra đời của ngôi đình làng còn nhiều ý kiến khác
nhau, nhƣng theo nhận xét của GS Hà Văn Tấn... “mặc dù còn thiếu chứng
cứ, ta tin rằng đình - ngôi nhà chung của làng xã đã xuất hiện từ lâu đời, nếu
không phải là thời Tiền sử thì cũng là thời Sơ sử của dân tộc. Tất nhiên là
18
thời đó, chưa được gọi là đình, một từ vay mượn của Trung Hoa” [55, tr. 20].
Tới cuối thế kỷ XV, cùng với sự phát triển của lịch sử, của ý thức hệ Nho
giáo, ngôi đình làng - sản phẩm kiến trúc thuần Việt nhất đã ra đời. Tuy
nhiên, dấu vết vật chất của loại hình kiến trúc này đến nay mới chỉ đƣợc tìm
thấy ở thế kỷ XVI và với niên đại “tu lý” năm 1531 khắc trên cột cái, đình
làng Thụy Phiêu (Ba Vì, Hà Tây cũ) hiện đƣợc coi là ngôi đình cổ nhất nƣớc
[74]. Ngoài đình làng Thụy Phiêu, hiện còn một số ngôi đình làng khác vẫn
bảo tồn đƣợc những yếu tố về mặt niên đại, phong cách nghệ thuật thế kỷ
XVI, cho phép chúng ta nghĩ rằng ở giai đoạn này, ngôi đình đã thành một
thực thể văn hoá của làng xã.
Nếu ở thế kỷ XVI, đình làng còn thƣa thớt thì sang những thế kỷ sau,
các ngôi đình làng đã xuất hiện ngày càng nhiều và giai đoạn cuối thế kỷ
XVII đƣợc coi là giai đoạn “bùng nổ” của những ngôi đình làng Việt và trở
thành một kiến trúc to lớn nhất trong mỗi làng quê của ngƣời Việt.
Thế kỷ XVIII, XIX và đầu XX, đình làng vẫn là những công trình to
lớn nhất của cả làng và ngày càng phát huy mạnh hơn chức năng ban đầu, đó
tụ hội họp của cộng đồng làng khi có việc chung. Nhiều ngôi đình làng ra đời
là sản phẩm do sự bảo trợ của tầng lớp tiểu thƣơng nhiều tiền của, nhƣ đình
làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), đình làng Lại Yên (Hoài Đức, Hà Tây
cũ). Cũng từ giai đoạn này, Thành hoàng đƣợc thờ trong Hậu cung bao kín,
cách biệt, tạo nên sự thâm nghiêm, xa cách dân thƣờng và thần nhƣ “thiêng”
hơn trong con mắt ngƣời dân.
Dƣới góc độ kiến trúc, từ thế kỷ XVIII, các công trình nhƣ Tiền tế, Tả
vu, Hữu vu dần xuất hiện, tạo cho mặt bằng tổng thể của ngôi đình càng ngày
càng phức tạp, theo xu hƣớng phân biệt tầng lớp. Bên cạnh đó, do hoàn cảnh
đặc biệt của dân tộc ta, nhiều ngôi đình làng (cũng nhƣ những di tích cổ
truyền khác), trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân đã trở thành những
19
- Xem thêm -