TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
TRẦN LÂM BIỀN
ĐÌNH LÀNG VIỆT
(CHÂU THỔ BẮC BỘ)
NHÀ XUẤT BẢN THẾ GIỚI
I SB N : 9 7 8 - 604 - 77 - 0993 - 9
4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
ĐÌNH LÀNG VIỆT
(CHÂU THỔ BẮC BỘ)
6
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
MỤC LỤC
THAY LỜI MỞ .................................................................................9
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM ..................................................19
Chương 2
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC ĐÌNH LÀNG .............................47
2.1. Không gian kiến trúc .............................................................50
2.2. Mặt bằng của ngôi đình làng ................................................54
2.3. Cấu trúc bộ khung của đình làng ........................................64
2.3.1. Mối liên kết các cấu kiện trong kiến trúc đình ...............71
2.3.2. Kết cấu kiến trúc các bộ vì của đình làng ........................74
2.3.3. Các bộ vì cơ bản trong kiến trúc đình ..............................75
2.3.4. Kết cấu các loại xà trong đình ............................................83
2.3.5. Các cấu kiện kiến trúc khác của đình ..............................87
2.3.6. Kết cấu mái đình ..................................................................97
2.3.7. Thành phần bao che của đình ..........................................106
2.3.8. Các cấu kiện kiến trúc sàn, trần ......................................107
2.3.9. Kết cấu móng, nền đình ...................................................111
Chương 3
CHẠM KHẮC Ở ĐÌNH LÀNG ................................................115
3.1. Tượng tròn trong đình .........................................................116
3.2. Chạm khắc trên đình (phù điêu) ........................................121
3.2.1. Kỹ thuật chạm khắc ...........................................................124
3.2.2. Những bộ phận chạm khắc trên kiến trúc ....................126
3.2.3. Đề tài chạm khắc cơ bản của đình ..................................127
3.3. Đồ thờ cơ bản trong ngôi đình ...........................................145
Phụ chương
VỀ LỄ HỘI GẮN VỚI ĐÌNH LÀNG .......................................161
1. Sự quay lại với thời hỗn mang
(thời gian chiêm bao, như chưa đi vào trật tự)........................163
2. Mối quan hệ với thần linh, cộng đồng và bản thân ............164
2.1. Ứng xử với thần linh ............................................................164
2.2. Ứng xử với cộng đồng và với bản thân ..............................167
3. Mối quan hệ với thiên nhiên trên nền tảng nông nghiệp
(một trọng tâm của lễ hội ...........................................................170
Kết luận ........................................................................................175
Tài liệu tham khảo .....................................................................179
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
7
8
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
THAY LỜI MỞ
Một trong những công trình kiến trúc có niên đại sớm ở nước
ta, mà chúng ta được biết là ngôi đình ở cạnh động Thiên Tôn,
thuộc khu di tích Hoa Lư (Ninh Bình). Ngôi đình này không còn
nữa, nhưng vẫn “sống” trong tiềm thức người dân ở địa phương
hằng quan tâm tới lịch sử vùng đất của mình. Vẫn theo lời xưa
truyền lại, thì đấy là nơi các sứ bộ, các châu mục, quan lại ngoài
biên viễn dừng chân chờ đợi trước khi vào bái yết vua. Nếu quả như
thế, thì đó là dịch đình (đình trạm), chứ không phải là ngôi đình
làng như người thời nay còn biết đến. Tất nhiên, chúng ta không
loại trừ khả năng dịch đình là tiền thân của đình làng. Hiện nay, tại
địa điểm của ngôi đình cổ ấy, chúng ta còn gặp nhiều viên gạch và
một số mảnh gốm có hoa văn nói lên dấu tích của các thời Đinh,
tiền Lê, Lý.
Tới thời Trần, ngôi đình vẫn chỉ mang tính chất của một điểm
nghỉ chân. Bằng vào tài liệu viết, chúng ta biết rằng nó chưa phải là
nơi thờ Thành hoàng của làng xã.
Điểm lại đôi nét còn biết được về diễn trình của loại kiến trúc
được gọi là “đình”, từ buổi đầu của thời kỳ độc lập cho đến thời Lê
sơ - Mạc và dừng lại trước triều Chính Hòa (cuối thế kỷ XVII), tức
triều đại được đánh dấu bởi một bước phát triển rực rỡ của nghệ
thuật xây dựng đình làng. Trong buổi khởi nguyên của nó, cái gọi
là “đình” vốn là một nhà công cộng để nghỉ chân (đình trạm). Đến
đầu triều Trần, một số nhà nghỉ chân ấy còn được dùng làm nơi thờ
Phật, đồng thời vẫn giữ chức năng cũ. Có điều rằng, giữa hai chức
năng cũ và mới ấy, cái nào trở thành chính, thì thực khó mà phỏng
đoán. Thời Lê sơ, rồi đến thời Mạc, ắt hẳn nhiều ngôi đình vẫn là
nhà nghỉ chân, nhưng nội dung một số lời văn bia còn cho thấy, có
những ngôi đình đã trở thành công trình kiến trúc công cộng của
làng xã. Chúng tôi thiết nghĩ, một khi đình đã thuộc về làng xã,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
9
thì không có gì lạ, nếu có những vị thần của làng xã được đưa vào
đình, chẳng khác gì Phật cũng từng bước vào đình, dưới thời Trần
đạo Phật còn đóng vai như một quốc giáo, đến thời Lê trung hưng,
thì sự có mặt của nhân vật gọi là “Thành hoàng” trong một số đình
làng là điều chắc chắn (nội dung văn bia đình An Khê ở Bắc Giang).
Kể ra, nếu chỉ căn cứ vào nội dung các lời bia đã tóm tắt, thì
có thể nghĩ rằng bấy giờ chức năng trạm nghỉ chân vẫn còn chiếm
ưu thế so với chức năng thờ phụng. Dù sao, qua khảo sát trên thực
địa, ta cũng thấy rằng, ngay từ thế kỷ XVI (thời nhà Mạc), một số
ngôi đình lớn đã xuất hiện với tư cách là một kiến trúc công cộng
của làng xã: các đình Thụy Phiêu sửa năm 1531 (Ba Vì, Hà Nội),
Tây Đằng (thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội), Thanh Lũng
(huyện Ba Vì, Hà Nội), Lỗ Hạnh (huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang), Thổ
Hà (huyện Việt Yên, Bắc Giang), là những ví dụ nổi tiếng. Mấy ngôi
đình vừa kể là những tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh của làng
xã. Đương nhiên, với thời gian chúng không còn giữ được nguyên
trạng, nhưng phần còn lại cũng đủ để chúng ta nhìn lại bộ mặt thực
của từng ngôi đình: một công trình kiến trúc dành cho việc thờ
Thành hoàng làng. Vấn đề vẫn cần đặt ra là niên đại khai sinh của
loại đình làng ấy (không phải là quán nghỉ, chủ yếu là nơi thờ Thành
hoàng làng). Không một tài liệu thuộc bất cứ loại nào có thể minh
chứng, nên chúng tôi chỉ nghiên cứu trên các hiện vật và di tích để
đoán định.
Thành hoàng làng là vị thần bảo hộ làng, có thể nói là đấng thần
linh tối thượng của làng. Chúng ta thường hiểu như vậy. Song, vị
ấy ở đâu ra? Theo nguồn gốc Trung Hoa, khái niệm “Thành hoàng”
từng được nhắc đến: Thần Thành hoàng của Trung Hoa chỉ mới
xuất hiện vào đời nhà Chu, cùng một lượt với những thành quách
của các lãnh chúa, và hoàng là cái hào bao quanh bức tường. Đó là
thần của thành trì và thành phố.
Thần của ta là thần làng xóm, chứ không phải là thần của thành
phố. Nông thôn ở Trung Hoa có thần làng không? Có, nhưng lại
khác hẳn thần làng của ta. Thần của ta là nhân vật địa phương,
còn thần các làng Trung Hoa là thần đất đai. Ta có cất nhà, họ
thì lộ thiên. Thần của ta là của riêng của dân mỗi làng. Thần của
Trung Hoa là của riêng lãnh chúa mà nhiều làng phải cùng thờ với
lãnh chúa.
Theo đó, tác giả Bình Nguyên Lộc nói rằng ở nước ta thờ Thành
hoàng là sai. Nhưng dù sai hay đúng thì vẫn hiện diện một thực
10
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
tế lịch sử: Khái niệm “Thành hoàng” gốc Trung Hoa đã “đổ bộ”
vào nông thôn nước ta. Vấn đề là từ bao giờ? Chưa có bằng cứ gì
cho phép tin rằng vị thần mang tên gọi Trung Hoa ấy đã “có mặt”
ở nông thôn nước ta hồi thời Lý và thời Trần. Thời Lê sơ, Nho
giáo phát triển mạnh: trên đấu trường tranh chấp ý thức hệ chính
làm nền cho một nhà nước quân chủ mà tính chất trung ương tập
quyền ngày càng được củng cố. Đạo giáo và Phật giáo bị đẩy lùi
một bước. Khác với nhà Lý, chính quyền Lê sơ, sau khi lãnh đạo
nhân dân đuổi giặc Minh, đã nhìn Trung Hoa như một mẫu mực
cho việc tổ chức xã hội về mọi mặt. Thế là nhiều biểu hiện văn
hóa - nghệ thuật cung đình của nhà Minh được đem áp dụng vào
nước ta. Và, tất nhiên nghệ thuật - văn hóa dân tộc có bị mờ đi, phải
chăng đấy cũng là một thời kỳ để cho khái niệm “Thành hoàng”
được truyền bá vào nông thôn nước ta.
Có thể thấy rõ là trong xã hội thời Lê sơ có nhiều biến đổi lớn
so với các thời trước, đặc biệt là, triều đình không còn để cho nông
thôn tự trị theo lối cũ, không chỉ bóc lột nông dân thông qua “chủ
làng” nữa, mà xã hội nông thôn được tổ chức lại, gắn bó với triều
đình hơn về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa. Phải chăng, tình
hình mới ấy đã tạo nên điều kiện cho triều đình đưa “Thành hoàng
làng” vào làng xã, để qua đó mà cung cấp cho người dân một ông
vua tinh thần? Nếu quả thế, không có gì lạ nếu Thành hoàng được
cấy vào ngôi đình, một kiến trúc tuy vốn phi tôn giáo, nhưng lại đã
có tiền lệ tiếp nhận tượng Phật, theo lệnh của vua Trần.
Rồi dưới cái ô bảo trợ của triều đình, xu thế mới cứ thế mà
mạnh lên, lan rộng. Ngay từ thế kỷ XVI, sự hiện diện của triều đình
trong ngôi đình làng đã quá rõ ràng. Tại đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang)
một trong những ngôi đình cổ nhất mà phần cơ bản của kiến trúc
còn tồn tại đến ngày nay, chúng tôi đã đọc được trên một bức phù
điêu, bốn chữ: “Hoàng đế vạn tuế” do hai con rồng cuộn thân vào
nhau nâng lên. Từ đó về sau, trong số các hoành phi của từng ngôi
đình làng, thường thì thế nào cũng có một bức hoành phi mang
mấy chữ “Thánh cung vạn tuế”, hay “Thánh thọ vô cương”. Toàn
là những công thức chúc tụng vua và chính vì thế mà ta có quyền
nghĩ rằng, ngay từ những đoạn đường đầu của nó, đình làng dù là
nơi thờ Thành hoàng của làng xã, đồng thời còn nhằm mục đích
đề cao chính thể quân chủ, và nhân vật tiêu biểu của chính thể ấy
là ông vua.
Tất nhiên, đình, với tư cách là nơi thờ Thành hoàng làng của
làng xã, không chỉ ra đời vì triều đình và chính thể quân chủ. Xã
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
11
hội nông thôn càng phân hóa, tầng lớp chủ nhân mới của nông
thôn càng được củng cố. Trong một nông thôn ngày càng phát triển
nhưng thiếu một nền kinh tế hàng hóa, tầng lớp chủ nhân mới
nói trên chỉ có thể tự khẳng định chủ yếu trong phạm vi làng xã.
Và đình làng, một khi đã trở thành trung tâm tinh thần của làng
xã, với việc thờ Thành hoàng do nhà vua phong, có thể đóng một
vai trò tích cực trong quá trình tự khẳng định nói trên. Cho nên,
bên cạnh các hình thức đề cao vua và chính thể quân chuyên chế,
đình còn khả năng thu hút các sinh hoạt văn hóa và tinh thần của
làng xã. Ảnh hưởng của ý thức hệ dội từ triều đình xuống chủ yếu
được biểu hiện tại đình, qua lễ tế. Hội đình còn bao gồm biết bao
sinh hoạt văn hóa dân gian khác nữa, với các hèm và trò chơi, kể
cả diễn xướng.
Khi trao đổi ngoài lề với nhau, cũng có người cho rằng, Thành
hoàng là biến tướng của một vị thần nào đó, chẳng hạn thần đất
của xóm làng thời cổ. Chúng ta không đủ cứ liệu để tán thành
hay bác bỏ ý kiến này. Dù sao, đối với nhiều người, Thành hoàng
là vị thần được du nhập vào làng xã Việt theo yêu cầu của điều
kiện lịch sử thời Lê sơ và thời Mạc. Không rõ hồi bấy giờ từng
vị Thành hoàng làng mang diện mạo cụ thể ra sao, chỉ biết rằng,
bước qua thời Lê trung hưng (thế kỷ XVII), nếu căn cứ vào một số
sắc phong và các thần phả còn sót lại đến nay (chủ yếu do Nguyễn
Bính ngồi tại Bộ Lễ thảo ra), thì nhân vật đang được bàn đã hoàn
toàn mang tính bản địa. Nhiều khi, Thành hoàng được thờ tại một
ngôi đình không chỉ có một vị, mà tới năm sáu vị thậm chí nhiều
hơn nữa. Thành hoàng có thể là danh nhân lịch sử (Lê Phụng Hiểu,
Lý Thánh Tông) có thể là sơn thần (Tản Viên), là hoàng hậu cùng
công chúa (như ở đình Trà Cổ), chẳng những thế còn có thể là dâm
thần, là trẻ con, là ăn mày chết vào giờ thiêng, thậm chí, trong thời
gian gần đây, còn có thể là cả Thành hoàng đang sống. Có trường
hợp làng lập đình, nhưng vì làng không sẵn Thành hoàng, biết làng
khác có vị Thành hoàng thiêng, bèn xin rước bát nhang về thờ.
Thế là có vị Thành hoàng kiêm nhiệm hai địa phận. Điều đó khiến
chúng ta ngỡ rằng, vì bản thân khái niệm “Thành hoàng” được
du nhập từ ngoài, cho nên Thành hoàng cụ thể của các làng xã có
xuất xứ và sự tích khác nhau. Định cho mọi Thành hoàng ở ta một
nguồn gốc lịch sử chung, e rằng không phù hợp với thực tế lịch sử.
Thế là Thành hoàng trở thành ông vua tinh thần của làng xã,
chúng tôi muốn nói rằng, việc thờ phụng Thành hoàng vô hình
chung gắn liền với việc sùng bái Hoàng đế, và qua Hoàng đế mà
sùng bái triều đình, vì đây là một hình thức sinh hoạt triều đình thu
12
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
nhỏ lại. Có thể nói thế, vì sự có mặt của vị thần này và ngôi đình,
nơi thờ vị thần ấy, ở giữa lòng làng xã làm cho người dân quê quen
với cái trật tự của chế độ vua quan đương thời và góp phần dựng
một xã hội ổn định trong hệ ý thức của trật tự đó.
Trên thực tế, những ngôi đình sớm nhất mà hiện nay ta còn biết
được, mới ra đời trong thời Mạc (thế kỷ XVI), và tấm sắc phong
sớm nhất chính là thuộc về thời đó: tấm sắc phong cho Thành
hoàng đình Tử Dương (huyện Ứng Hòa, Hà Nội) vào năm 1574
(Sùng Khang 9). Thực ra, theo ước đoán của chúng tôi thì đình thờ
Thành hoàng phải ra đời sớm hơn, vào thời Lê sơ. Cứ liệu còn quá
ít để khẳng định, nhưng cũng phần nào được củng cố bởi bài ký
của Bùi Xương Trạch viết vào năm 1493 về đình Quảng Văn (Hà
Nội). Bài văn ca tụng triều đình, chủ yếu đề cao nhà vua, đồng thời
nói lên ý nghĩa thực tiễn của ngôi đình trong việc công bố chính
lệnh của nhà nước đương thời. Và, về mặt nào đó, cũng phản ánh
được việc sáng tạo ra một kiến trúc mới. Tạm có thể cho rằng, đây
là tiền đề của ngôi đình làng về sau. Tất nhiên, còn phải chờ lâu
nữa, qua thời Mạc, sang thời Lê trung hưng, đặc biệt với Nguyễn
Bính, và những quy định về cách thức thờ phụng Thành hoàng, mà
ông là một trong những tay thi hành đắc lực, thì vị thần này và ngôi
đình của làng xã mới gắn bó với nhau một cách mật thiết.
Có thể nói thời Mạc là thời “bùng nổ” của các công trình kiến
trúc nặng chất mỹ thuật, chủ yếu là kiến trúc ít nhiều có gắn với tôn
giáo. Trong xu thế chung ấy, kiến trúc đình cũng phát triển. Chẳng
những thế, những ngôi đình ra đời thời ấy, mà vẫn tồn tại đến nay,
còn phô bày chất dân gian cao nữa. Xét trên bối cảnh chung đương
thời, đình vẫn chưa chiếm được vị trí độc tôn. Cuối thế kỷ XVII
đáng được xem là một giai đoạn bản lề, bia ký đương thời xác nhận
tư cách thắng thế của ngôi đình trong làng xã. Nhiều đình ra đời
có sự đóng góp của dân đinh cả làng. Đình thực sự trở thành công
trình của tập thể, và về mặt nào đó, có gắn với chế độ ruộng công,
trong nhiều trường hợp, khi làng xã quyết dựng đình, thì tất cả dân
đinh, nghĩa là mọi người được chia ruộng công, đều có nghĩa vụ
phải đóng góp.
Sang thời Lê mạt (thế kỷ XVIII), việc xây dựng đình làng giảm
sút hẳn. Xét về mặt hoàn cảnh xã hội, đây là thời kỳ mà nạn kiêm
tính ruộng đất ở châu thổ Bắc Bộ phát triển mạnh, hàng vạn nông
dân “bị đuổi” khỏi làng, đi tha phương cầu thực. Còn riêng về mặt
kiến trúc, thì hàng loạt lăng quận công ra đời, đây là bằng chứng
không thể chối cãi được về sự phát triển của kinh tế tư nhân. Trong
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
13
những điều kiện ấy, kinh tế tập thể của cộng đồng làng xã tất giảm
sút. Chúng ta có thể tin rằng, đấy là lý do khiến cho đình làng không
có điều kiện để tiếp tục phát triển mạnh. Nói như vậy, không có
nghĩa là không đâu xây đình nữa, ta vẫn thấy mọc lên ngôi đình
Đình Bảng (1736), và một số ngôi đình khác. Tuy nhiên, sự xuất
hiện những ngôi đình trong thời gian này đã gắn liền với sự đỡ đầu
của một hay nhiều cá nhân giàu có, những người làm việc “công
đức” để sau này được phụ thờ ở đình, và trước mắt, để tìm vinh dự
ở làng xã. Tất nhiên, tính chất dân dã trong trang trí đình đã giảm
sút nhiều. Trong khi đó, ở miền Trung, trên đất Nghệ An, Hà Tĩnh
ngày nay, điều kiện lịch sử lại cho phép ruộng công của làng xã
được duy trì ở một mức độ khá hơn nhiều: phải chăng, đấy là điều
kiện khiến cho kiến trúc đình làng vẫn phát triển một cách tương
đối bình thường, và các biểu hiện dân gian, dân dã trong nghệ thuật
trang trí không giảm sút một cách đột ngột như trên đất Bắc.
Cuối thế kỷ XVIII, chiến thắng của Tây Sơn tạo ra được một
thời ổn định ngắn ngủi, và vì vậy có lẽ chưa đủ thời gian cho làng xã
phục hồi, cho nên chúng ta hiếm gặp ngôi đình được dựng lên lúc
bấy giờ. Trong một số trường hợp, người ta chỉ tu sửa, hoặc dựng
thêm nhà tiền tế, hay hậu cung, thế thôi. Đó là trường hợp, của
đình Hồi Quan (Bắc Ninh), nhà hậu cung đình Phong Cốc (đảo
Hà Nam, Quảng Ninh).
Triều Nguyễn (thế kỷ XIX), dù cho chính sách của triều đại này
là gì, thì, sau quá nhiều năm chiến tranh, việc nước nhà thống nhất
cũng tạo điều kiện cho làng xã trên đất Bắc ổn định trở lại, ít nhất
cũng trong một thời gian nào đó, xóm thôn không còn quá tiêu điều
như trong nửa đầu thế kỷ thứ XVIII nữa. Dòng mỹ thuật truyền thống
có thời cơ để phục hồi. Cho nên, dưới thời Gia Long, nhiều đình lớn
được dựng, đặc biệt đình An Đông (Quảng Ninh), với những cột
cái lớn chưa từng thấy (đường kính chân cột những 105cm). Rồi thì
đình Tam Tảo (Từ Sơn, Bắc Ninh). Chùa cũng vậy, chẳng hạn như
chùa Đức La (Yên Dũng, Bắc Giang) được dựng lại khá to lớn.
Buổi đầu ấy qua đi nhanh chóng, rồi nhà Nguyễn cũng như nhà
Lê sơ, đề cao Nho giáo, cóp nhặt và truyền bá nghệ thuật đương
thời của Trung Hoa, ý thức có hệ thống ấy đã góp phần xác lập một
bộ máy vua quan chuyên chế, mà tính chất trung ương tập quyền
được củng cố thêm rất nhiều, so với các triều đại trước, không khỏi
ảnh hưởng đến dòng mỹ thuật bắt nguồn từ truyền thống lâu đời
của dân tộc. Phải chăng, đấy cũng là một trong nhiều lý do, nếu
không phải là lý do chính, khiến cho, dưới thời Minh Mệnh, triều
14
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
vua có vẻ thịnh trị nhất trong suốt lịch sử của nhà Nguyễn, việc xây
cất các công trình kiến trúc công cộng ở làng xã chẳng đáng là bao:
về mặt này, ta chỉ gặp bia ký ở các kiến trúc do triều đình lệnh cho
dựng hoặc kiến trúc phụ ghép thêm vào các kiến trúc cũ. Trong khi
đó kiến trúc cung đình ở Huế hút nhiều cố gắng cũng như của cải
Nhà nước, và, tất nhiên nhiều sức lao động của một bộ phận nhân
dân. Từ cuối đời Minh Mệnh về sau, đình được dựng nhiều hơn ở
miền xuôi, vôi và gạch được sử dụng, còn ở miền núi, thì gỗ vẫn là
nguyên liệu chính. Kiến trúc đình thâm nhập cả vào những vùng
tương đối hẻo lánh của miền ngược, hàng loạt đình được trải ra
suốt từ Lạng Sơn qua Bắc Sơn về Thái Nguyên; đình Long Đống,
đình Hữu Vĩnh, đình Nông Lục, đình Hưng Vũ, đình Dục Lắc,
đình Quỳnh Sơn...
Trên đất miền Nam, kể từ nay trở đi, cũng có đình, cũng thờ
Thành hoàng. Song, qua những đình ở Sài Gòn và ở nhiều làng xóm
xung quanh, thì cảm giác đầu tiên của chúng tôi là một số nét khác
biệt giữa đình ở đây và đình ở miền Bắc: hội đình kém náo nhiệt,
Thành hoàng đình nào thiêng thì còn được dân ở nhiều nơi khác
đến lễ bái (đình Ông ở ấp Phong Phú, huyện Thủ Đức, thường nhật
thu hút cả người ở Chợ Lớn hay xa hơn tới lễ). Tuy chưa có đủ bằng
cứ để dám chắc nhưng chúng ta cứ ngờ ngợ rằng ngôi đình ở miền
Nam, về thực chất, gắn nhiều hơn với tính chất của ngôi đền. Phải
chăng tổ chức có phần lỏng lẻo hơn của làng xã miền Nam, so với tổ
chức của làng xã miền Bắc, đã làm nhạt đi vai trò của ngôi đình làng.
Đình làng là công trình kiến trúc được coi là lớn nhất của làng
xã, là một trung tâm văn hóa truyền thống của cộng đồng...
Theo tinh thần Nghị quyết 5 Ban chấp hành Trung ương khóa
VIII của Đảng về việc phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thì việc
nghiên cứu đình làng là một trong những trọng tâm của nhiều
ngành khoa học. Mặt khác, việc nghiên cứu đình làng là tìm về văn
hóa - nghệ thuật truyền thống dân tộc và góp phần giới thiệu tới
công chúng những giá trị văn hóa nghệ thuật của ông cha.
1- Nghệ thuật cổ Việt Nam là kết tinh của tinh thần người Việt
“muôn đời muôn thủa”, trên cơ sở cuộc sống hằng ngày và cách ứng
xử của cộng đồng, của dân tộc ta trước cái đẹp thực thể và tâm linh.
Công trình nghiên cứu về đình làng trên các phương diện lịch sử và
văn hóa với một cái nhìn tổng thể về bản chất của cái đẹp hữu thể
và cái đẹp vô thể trong sự đan xen tương hỗ của chúng thuộc truyền
thống văn hóa nghệ thuật của dân tộc.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
15
2- Lịch sử văn hóa - nghệ thuật Việt Nam gắn chặt với những
bước thăng trầm, phát triển trong từng thời điểm của văn hóa nghệ thuật dân tộc, ngôi đình là một trong những sản phẩm tiêu
biểu, ứng hợp với từng điều kiện của lịch sử. Đó là một đặc điểm
rất riêng, bởi vì không phải bất cứ dân tộc nào trên thế giới, sự ứng
hợp ấy cũng rõ nét như vậy. Cũng giống như sự phát triển của dân
tộc về mặt xã hội, sự phát triển của mỹ thuật nước ta diễn ra thành
một chuỗi liên tục, không bị đứt đoạn, trong đó ngôi đình là một
trong những giá trị văn hóa - nghệ thuật và là một gạch nối trên
dòng chảy liên tục ấy để tạo nên một bình diện độc đáo.
Công trình nghiên cứu về đình làng Việt Nam được trình bày
như một tổng hợp tương đối đầy đủ những nhận thức về tổ hợp lịch
sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật đình làng. Chúng tôi hy vọng rằng
nó sẽ đáp ứng được phần nào yêu cầu của thực tế và như một “cửa
mở” cho những công trình tiếp sau.
3- Trước kia có một số người (và nhiều người) tin rằng, mỹ thuật
Việt Nam cổ truyền, theo cách nói của L. Bezacier - người đầu tiên
tìm hiểu mỹ thuật Việt Nam, chỉ là “dạng thuộc địa” của mỹ thuật
cổ truyền Trung Hoa, chẳng hạn như mỹ thuật Lý là một biến dạng
của nhiều khía cạnh của mỹ thuật Tống, mỹ thuật Nguyễn là một
biến thể của mỹ thuật Thanh... Nhận định này dễ được chấp nhận vì
dù muốn, dù không, cha ông ta đã từng tiếp thu một số yếu tố văn
hóa - nghệ thuật của dân tộc láng giềng. Chính vì vậy, có một thời,
nước ta đã bị coi là một nước “Trung Hoa hóa” (Bezacier) ở Đông
Nam Á, trong khi các nước Lào, Cam-Pu-Chia, Thái Lan... lại bị
mệnh danh là những nước “Ấn Độ hóa”. Nghiên cứu văn hóa nghệ
thuật truyền thống Việt Nam nói chung, đình làng nói riêng, trên
cơ sở quy luật lịch sử và sự tiếp biến văn hóa, chúng ta sẽ loại bỏ
dần nhận định chưa khách quan trên, nhằm xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta
đều hiểu rằng, tiếp thu không đồng nhất với “sao chép”. Vả lại, bên
cạnh những yếu tố tiếp thu (mà cha ông ta đã từng dung hội một
cách tuyệt vời dựa trên cơ sở của tinh thần tự tôn dân tộc) còn có
biết bao yếu tố khác được bắt nguồn từ rất xa xưa trên đất nước này.
Chúng ta cũng hiểu rằng, một thứ lý luận chung chung, khô khan,
không thể làm thay đổi một quan niệm đã được định hình. Song,
chỉ có thể xóa bỏ nếp hằn tư duy dựa trên những tài liệu sinh động,
cụ thể mà công trình nghiên cứu về văn hóa - nghệ thuật đình làng
sẽ góp phần vào việc làm đó. Hy vọng rằng, thông qua công trình
này, chúng ta sẽ dễ dàng và tự nhiên hơn trong việc khám phá sự
sáng tạo độc đáo của tổ tiên, trên lĩnh vực sáng tạo cái đẹp.
16
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
4- Một đặc thù của nền mỹ thuật cổ truyền Việt Nam là sự quán
triệt tính dân dã trong văn hóa, hay nói đúng hơn, trong nền mỹ
thuật cổ truyền Việt ở thời quân chủ chuyên chế, chúng ta không
nhận thấy có sự phân biệt rạch ròi giữa dòng bác học và dòng dân
gian (không phải nền mỹ thuật nào cũng có). Lịch sử văn hóa nghệ thuật đình làng đã góp phần khẳng định sự sáng tạo diệu kỳ
của người dân lao động về mặt tạo hình.
Với tinh thần nêu trên, chúng tôi tin rằng ấn phẩm Đình làng
Việt (vùng châu thổ Bắc Bộ) sẽ là một công trình nghiên cứu có
tính chất tổng hợp liên ngành, góp phần nêu bật được giá trị bản
sắc văn hóa của ông cha ta, dẫn tới việc bảo tồn, xây dựng và phát
huy truyền thống tốt đẹp của Di Sản Văn Hóa Việt Nam.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
17
18
Ban thờ gian giữa tòa đại đình, đình Hương Canh,
Vĩnh Phúc (Tư liệu: VMT)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ SỰ
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA ĐÌNH LÀNG VIỆT NAM
Nhiều loại hình kiến trúc cổ truyền của người Việt còn lại tới
ngày nay, có thể tạm phân định thành kiến trúc nhà ở dân gian,
kiến trúc cung điện, lăng tẩm, thành quách, kiến trúc tôn giáo tín
ngưỡng... Trong những kiến trúc kể trên, chúng ta không thể tiếp
cận được với bất kể một ngôi nhà dân gian nào có từ giữa thế kỷ
XVII trở về trước. Từ giữa thế kỷ XVII trở về sau cùng lắm chỉ có
thể tìm được những kiến trúc nhà thờ họ kiêm nhà ở, còn nhà ở
thông thường chủ yếu là sản phẩm của thế kỷ XX về sau. Vì thế,
trong việc nghiên cứu kiến trúc nhà ở bắt buộc chúng ta phải tiếp
cận từ góc độ lịch sử học kiến trúc và dân tộc học kiến trúc để tìm
ra một số vấn đề còn ngưng đọng về kết cấu của chúng trong thời
quá khứ.
Trong lĩnh vực kiến trúc, tạm thời chúng ta có thể rút từ một
số ngôi nhà của tộc người thiểu số để làm đối chứng cho kiến trúc
truyền thống của người Việt, trong đó có ngôi đình.
Không một kiến trúc tôn giáo nào được nảy sinh từ một sáng
kiến riêng biệt, đột ngột, mà mọi kiến trúc ít nhiều đều có gốc
gác, dù gần gũi, hay xa xôi đều bắt nguồn từ những ngôi nhà ở.
Bởi chính nhà ở, một khi đã vượt cao hơn nhu cầu trú ngụ, thì nó
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
19
đã chứa đựng cả những yếu tố văn hóa và tâm linh, nhiều khi nó
phản ánh về vũ trụ quan và nhân sinh quan thuộc nhận thức của
con người. Chính nhận thức đó là nền tảng tinh thần cho mọi kiến
trúc tôn giáo, tín ngưỡng và cả những ngôi nhà thời sau. Rõ ràng
những ngôi nhà kiểu mới mà không mang thần thái Việt, tức mang
bản sắc ẩn tàng trong tâm hồn của nó, thì cũng trở nên có phần lạc
lõng và xa cách. Vậy kiến trúc nhà ở chính của người Việt, nhất là
ở đồng bằng Bắc Bộ, đã mang dáng dấp và ý nghĩa gì?
Theo lịch sử kiến trúc, chúng ta có thể biết được người Việt
ở châu thổ sông Hồng đã từng có nhiều kiểu nhà khác nhau, từ
những ngôi nhà đơn sơ nhiều tính “tạm bợ”, cả mái và thân đều lợp
lá, rồi những ngôi nhà vách trát đất, lợp cỏ tranh (ranh), hay nhà
sàn, nhà trình tường và một kiểu nhà dài mái dốc...
Trong kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của người Việt thì 3 dạng
nhà sàn, nhà trình tường, nhà mái dốc đã ít nhiều ảnh hưởng tới
những mặt khác nhau của ngôi chùa, đình, đền... Vì thế chúng tôi
muốn điểm lướt qua về thần thái của các ngôi nhà này trước khi đi
vào những nét cơ bản thuộc các kiến trúc đình.
Nhà sàn
Rất nhiều cư dân ở vùng Đông Nam Á có nhà sàn. Nhà sàn hiện
nay còn có mặt ở hầu khắp địa bàn của các cư dân thiểu số Việt
Nam, cả ở Tây Bắc, Việt Bắc cho đến tận Tây Nguyên... Nhiều nhà
nghiên cứu dân tộc học văn hóa còn cho biết, vào thời gian cách
đây chỉ vài ba trăm năm, nhà sàn cũng có mặt ở vùng châu thổ
sông Hồng. Tới nay thì nhà sàn cũng mới chỉ lui về miền núi cách
Hà Nội khoảng hơn 40 km. Nhìn chung, người ta có thể nhìn thấy
nhà sàn được thể hiện dưới hai dạng: một là, những nhà là nơi ở
của tiểu gia đình, nó có độ dài vừa đủ, nhiều khi chỉ gồm một gian
hai chái, với bốn mái lá, được dựng trên các cột cao, thấp không
nhất loạt như nhau, có khi chỉ cao vừa đủ để chống sự ẩm thấp,
nhất là những ngôi nhà ở gần miền xuôi. Cũng có khi làm khá cao
để còn sử dụng không gian dưới sàn. Ở vùng Tây Nguyên, thoáng
như còn tàn dư của chế độ “mẫu hệ”, các gia đình con gái khi chưa
ra ở riêng (cũng có khi không ở riêng) đã ở chung với bố mẹ và
dưới mái nhà này thường chiếm một không gian tương ứng. Do
vậy mà ngôi nhà sàn được kéo khá dài và có bờ nóc thường theo
trục Đông - Tây. Có một điểm đặc biệt là, nhà rông Tây Nguyên có
mái rất cao, nhưng nhà ở thì mái thấp. Điều chúng ta quan tâm là ý
nghĩa và những nhận thức khác nhau thuộc tâm linh của ngôi nhà
sàn ở phía Bắc và ở Tây Nguyên.
20
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM - ĐÌNH LÀNG VIỆT
- Xem thêm -