UÛY BAN NHAÂN DAÂN TP. HOÀ CHÍ MINH
SÔÛ KHOA HOÏC – COÂNG NGHEÄ
«
BAÙO CAÙO TỔNG KEÁT ÑEÀ TAØI
ÑÒNH HÖÔÙNG SÖÛ DUÏNG MOÄT SOÁ LOAØI
TRE CHUÛ YEÁU TRONG SAÛN XUAÁT
HAØNG THUÛ COÂNG MYÕ NGHEÄ
Chuû nhieäm ñeà taøi: TS. PHAÏM NGOÏC NAM
ÑH Noâng Laâm Tp. Hoà Chí Minh
Tp. Hoà Chí Minh 2009
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC ---------------------------------------------------------------------------------- ii
Chương 1: MỞ ĐẦU ---------------------------------------------------------------------- 1
1.1- Đặt vấn đề ---------------------------------------------------------------------- 1
1.2- Mục tiêu nghiên cứu ---------------------------------------------------------- 2
1.3- Ý nghĩa và tính mới về khoa học và thực tiễn ---------------------------- 2
1.4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ------------------------------------------ 2
Chương 2: TỔNG QUAN ---------------------------------------------------------------- 3
2.1- Khái quát về tình hình phân bố và sử dụng tre trúc ---------------------- 3
2.1.1- Tình hình phân bố và sử dụng tre trên thế giới ------------------------- 3
2.1.2- Tình hình phân bố và sử dụng tre ở Việt Nam -------------------------- 5
2.2- Những nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài ------- 7
2.2.1- Những nghiên cứu có liên quan trên thế giới --------------------------- 7
2.2.2- Những nghiên cứu có liên quan ở Việt Nam ---------------------------- 7
Chương 3: NỘI DUNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU --------------------- 10
3.1- Nội dung nghiên cứu --------------------------------------------------------- 10
3.1.1- Khảo sát thực trạng khai thác, chế biến và đặc tính nguyên liệu ----- 10
3.1.2- Nghiên cứu xây dựng quy trình tẩm, sấy trong phòng thí nghiệm --- 10
3.1.3- Đề xuất hướng sử dụng các loại tre nghiên cứu ------------------------ 10
3.1.4- Chuyển giao công nghệ ---------------------------------------------------- 10
3.2- Phương pháp nghiên cứu ----------------------------------------------------- 11
Chương 4: KẾT QUẢ - THẢO LUẬN ------------------------------------------------ 15
4.1- Thực trạng khai thác, chế biến và đặc tính nguyên liệu ----------------- 15
4.1.1- Tình hình khai thác và chế biến của 20 loài tre ------------------------- 15
ii
4.1.2- Đặc điểm sinh trưởng, hình thái và cấu tạo thô đại của 20 loài tre -- 18
4.1.3- Đặc điểm cấu tạo hiển vi của 20 loài tre khảo sát --------------------- 34
4.1.4- Thành phần hóa học của 20 loài tre khảo sát --------------------------- 37
4.1.5- Tính chất vật lý của 20 loài tre khảo sát --------------------------------- 39
4.1.6- Tính chất cơ học của 20 loài tre khảo sát -------------------------------- 43
4.2- Xây dựng quy trình xử lý tre ------------------------------------------------ 45
4.4.1- Xây dựng quy trình tẩm tre theo phương pháp ngâm thường -------- 45
4.2.2- Xây dựng quy trình sấy tre ------------------------------------------------ 50
4.3- Đề xuất hướng sử dụng các loại tre nghiên cứu -------------------------- 56
4.4- Chuyển giao công nghệ tẩm, sấy tre --------------------------------------- 62
4.4.1- Tình hình tẩm, sấy tre tại công ty LTC ---------------------------------- 62
4.4.2- Thực nghiệm quy trình tẩm tre ------------------------------------------- 64
4.4.3- Thực nghiệm quy trình sấy tre -------------------------------------------- 65
4.5- Đánh giá hiệu quả ------------------------------------------------------------- 67
4.5.1- Sản xuất thử sản phẩm bàn salon –NT ----------------------------------- 67
4.5.2- So sánh ---------------------------------------------------------------------- 72
Chương 5: KẾT LUẬN ------------------------------------------------------------------ 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO --------------------------------------------------------------- 76
PHỤ LỤC ----------------------------------------------------------------------------------- 78
BẢNG TRA CÁC LOẠI TRE NGHIÊN CỨU -------------------------------------- 84
Chương 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Theo thống kê sơ bộ của Ban chi đạo kiểm kê rừng quốc gia thì Việt Nam có
khoảng 150 loài tre thuộc 15 chi phân bố rộng rãi ở nhiều vùng trong cả nước, chủ
iii
yếu tập trung ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ. Tre trải dài trên
diện tích 1.489.068 ha chiếm khoảng 4,53% diện tích toàn quốc, với tổng trữ lượng
8.400.767.000 cây. Tre trúc là loại thực vật một lá mầm, là loại lâm sản có giá trị
đứng thứ hai sau gỗ, có truyền thống lâu đời, có giá trị kinh tế, xã hội và văn hóa hết
sức to lớn. Ngoài những vật dụng thân thuộc trong đời sống hàng ngày, tre trúc còn
được sử dụng với hơn 30 công dụng khác nhau.
Theo quyết định số 664/TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 18/10/1995
qui định về việc xuất khẩu một số lâm sản ngoài gỗ, trong đó «Nghiêm cấm xuất
khẩu tre, mây, song dạng nguyên liệu thô. Được phép xuất khẩu các sản phẩm chế
biến từ tre, trúc, giang, vầu, luồng, lồ ô, song mây… ». Có thế nói, nước ta với thế
mạnh về trữ lượng lớn và chu kỳ khai thác ngắn, tre nứa đã và đang đáp ứng phần
lớn nguyên liệu cho sản xuất hàng mộc mỹ nghệ xuất khẩu; ngoài ra, nó còn thay
thế một phần nguyên liệu gỗ phục vụ cho công nghiệp giấy, các sản phẩm công
nghiệp có giá trị cao như cót ép, ván dăm, ván ghép tre, ván tre gỗ kết hợp đang
từng bước được hoàn thiện để giành được chỗ đứng trên thị trường. Trong chương
trình trồng mới 5 triệu hecta rừng, tre trúc là một trong những loài cây quan trọng
nhất được trồng thành rừng tập trung hoặc phân tán trong các hộ gia đình. Tuy vậy,
từ trước đến nay, tre trúc vẫn là nhóm lâm sản ngoài gỗ ít được quan tâm nghiên
cứu. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ về mặt cấu tạo, tính chất,
công nghệ gia công chế biến và sử dụng tre chưa được chú trọng nhiều, công nghệ
chưa đầu tư hợp lý nên các hướng đi trên chưa phát triển mạnh. Các nghiên cứu
chưa có định hướng lâu dài, chưa mang tính hệ thống liên kết giữa nghiên cứu và
sản xuất.
Do vậy, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các đặc điểm, tính chất cơ lý hóa
và quy trình tẩm, sấy cho 20 loài tre phổ biến nhằm cung cấp dẫn liệu cần thiết cho
các nhà sản xuất để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên này. Kết quả
nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học để định hướng sử dụng và phát triển vốn rừng,
nâng cao chất lượng rừng tre trúc thông qua công tác khuyến nông. Tài liệu này còn
được sử dụng trong thiết kế các công trình, đồ thủ công mỹ nghệ có sử dụng đến
nguyên liệu tre. Tuyển chọn những loài tre có tính đa mục đích có giá trị kinh tế cao,
iv
hoặc những cây tre có giá tri đặc biệt trong sản xuất kinh doanh, phát triển hoặc bảo
tồn.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định các đặc tính của 20 loài tre, đưa ra các giải pháp kỹ thuật nâng
cao chất lượng nguyên liệu. Đề xuất định hướng sử dụng cho nguồn nguyên liệu
này trong việc sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đạt hiệu quả kinh tế cao.
1.3- Ý nghĩa và tính mới về khoa học và thực tiễn
- Về mặt lý luận: Việc nghiên cứu đặc điểm cấu tạo, tính chất cơ lý không
chỉ có ý nghĩa xác định tre trên thị trường và trong sử dụng tre mà còn nhiều ý nghĩa
lý thuyết trong hệ thống thực vật và tiến hóa.
- Về thực tế sản xuất: Kết quả nghiên cứu đặc tính nguyên liệu là cơ sở để
giải thích bản chất các hiện tượng sản sinh trong quá trình gia công chế biến và sử
dụng tre. Xây dựng các chế độ tẩm sấy thích hợp cho từng loại tre để cải thiện tính
chất nguyên liệu. Định hưởng sử dụng hợp lý cho từng loài tre cụ thể đem lại hiệu
quả kinh tế cao. Cung cấp số liệu cần thiết cho việc tính toán thiết kế hợp lý, giải
quyết mâu thuẫn giữa việc bảo đảm an toàn và tiết kiệm nguyên vật liệu.
1.4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vế đối tượng nghiên cứu, đề tài quan tâm đến những loài tre thông dụng có
giá trị kinh tế cao mà các cơ sở chế biến cần nhận dạng; những loài tre chưa biết
hoặc ít người biết đến nhưng số lượng cá thể nhiều, có phạm vi phân bố rộng, kể cả
những loài tre mới nhập nội có giá trị trong sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Loài
cây nghiên cứu phải được định tên Việt Nam và tên khoa học.
v
Chương 2:
TỔNG QUAN
2.1- Khái quát về tình hình phân bố và sử dụng tre
2.1.1- Tình hình phân bố và sử dụng tre trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 75 họ và 1250 loài thuộc họ tre được trồng
nhiều nơi trên thế giới, nhất là các nơi có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Phân
bố chủ yếu ở độ cao 100- 800m so với mặt nước biển, các loài tre phát triển tốt với
môi trường có độ ẩm cao và không khí mát. Theo thống kê của R. L. Banik và Fu
Maonyl cho đến 1995 diện tích tre trúc trên thế giới có khoảng 15 triệu hecta phân
bố chủ yếu ở châu Á, chiếm 84% diện tích tre trúc thế giới (gần 11 triệu hecta),
trong đó 80% là ở Ấn Độ, Trung quốc và châu Á Thái Bình Dương bao gồm cả
Nhật Bản (khoảng 1000 loài) trong số này có 150 loài cao to, có giá trị kinbh tế cao.
Ở Châu Mỹ, tre mọc ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Tre trúc mọc tự nhiên từ
miền Nam Hoa Kỳ kéo dài đến Agentina và Chile với khoảng 200 loài. Vùng Bắc
Mỹ chỉ có vài chục loài trong đó phong phú nhất là Madagasca có tới 40 loài. Ở
châu Đại Dương có ít tre hơn và phân bố rải rác.
Theo Calderon (1979) nhìn chung chỉ có 2 giống Bambusa và Arundinaria là
phân bố khắp nơi, từ vùng nhiệt đới đến vùng á nhiệt đới và vùng khí hậu hòa ấm.
Với sự đa dạng về chủng loại tre trúc hầu như có mặt ở rất nhiều nơi trên thế
giới. Theo Calderon (1979), tre trúc chủ yếu tập trung ở vùng châu Á – Thái Bình
Dương, thể hiện ở bảng 2.1 phân bố những giống tre chủ yếu trên thế giới.
vi
Bảng 2.1 Tình hình phân bố những giống tre trúc chủ yếu trên thế giới
Giống tre
Arthrostylidium ruprecht
Số lượng
Vùng phân bố
các loài
20
Trung tâm và Nam châu Mỹ
Arundinaria michaux
81
Châu A, châu Mỹ, châu Phi
Bambusa retzius corr schrecber
73
Trung tâm và Đông Á
Cephalostachyum Munro
9
Ấn độ, Malaysia, Madagasca
Chusquea kunth
71
Trung tâm và Nam châu Mỹ
Dendrocalamus nees
24
Ấn độ, Philipines
Dinochloa buse
9
Philipines, Giava, Malaysia
Gigantochoa kurz
12
Ấn độ, Philipines
Guadua kunth
29
Trung tâm và Nam châu Mỹ
Ochlandra thwaites
11
Trung và Đông Á, Madagasca
Oxytenanthera munro
16-18
Châu Á, châu Phi
Phyllostachys siebold & zucczrini
25
Nhật Bản, Trung Quốc, Himalaya
Schizostachyum nees
25
Ấn độ, Philippines, Madagasca
Các nước phát triển ngày càng coi trọng cây tre và ưa thích sản phẩm chế
biến từ tre. Ở các nước Đông Nam Á, nơi được coi là quê hương cây tre, đang có xu
hướng quay trở lại sử dụng loại vật liệu có nhiều đặc tính qúy báu này trong mọi
mặt của đời sống. Ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm từ tre đã ra đời và
đang phát triển mạnh ở một số nước ở châu Á. Trung quốc là nước có diện tích và
sản lượng tre nhiều nhất thế giới với nền công nghiệp tre tiên tiến; mỗi hecta trồng
tre chất lượng cao đem lại thu nhập 15.000 USD mỗi năm cho người nông dân
Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu do Viện nghiên cứu và phát triển sinh thái (trụ sở
ở Lugana, Philipines) cho thấy cây tre đã cải tạo thành công đất ở những vùng đất bị
tro núi lửa Pinatubô hủy hoạ, ngay cả những vùng đất bạc màu, cằn cỗi hay đất bị ô
nhiễm. Viện nghiện cứu này cũng khẳng định bộ rễ của cây tre có tác dụng ổn định
đất, chống xói mòn đất, tre mọc ken dày có thể làm giảm cường độ của gió, giảm sự
tàn phá của những cơn bão và gió lốc. Hiện nay, ở Autralia loại ván trượt được ưa
chuộng làm bằng tre phủ một lớp bọc nhựa epoxy bằng công nghệ cao. Ở Indonesia,
vii
tre được sử dụng làm những căn nhà cao tới 8m (dùng kèm với các loại vật liệu
khác), và đồ nội thất khác như bàn máy tính bằng tre… Một tổ chức có tên
Bambusa bảo vệ môi trường ở đảo Bali đã cho ra đời có hơn 80 giống tre cùng với
phương pháp chăm sóc có ưu điểm là giá thành thấp, có khả năng chống côn trùng,
nấm mốc cho tre...
2.1.2- Tình hình phân bố và sử dụng tre ở Việt Nam
Theo thống kê sơ bộ của Ban chi đạo kiểm kê rừng quốc gia thì Việt Nam có
khoảng 150 loài tre thuộc 15 chi phân bố rộng rãi ở nhiều vùng trong cả nước, chủ
yếu tập trung ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ. Tre trải dài trên
diện tích 1.489.068 ha chiếm khoảng 4,53% diện tích toàn quốc, với tổng trữ lượng
8.400.767.000 cây. Trong đó rừng tre tự nhiên có diện tích 1.415.552 ha chiếm
14,99% diện tích rừng tự nhiên với trữ lượng 8.304.693.000 cây. Trong rừng tre tự
nhiên bao gồm rừng thuần tre với diện tích 789.221 ha chiếm 8,36% diện tích rừng
tự nhiên với trữ lượng 5.863.091.000 cây và rừng hỗn giao gỗ tre với diện tích
626,331 ha chiếm 6,63% diện tích rừng tự nhiên với trữ lượng là 2.441.602.000 cây.
Đối với rừng tre trồng ở Việt Nam có diện tích 73,516 ha bằng 4,99 diện tích rừng
trồng, với trữ lượng 96.074.000 cây. Diện tích rừng tre trồng bằng 5,06% diện tích
rừng tre tự nhiên nhưng trữ lượng tre trồng chỉ bằng 1,16% trữ lượng tre tự nhiên.
Như vậy, có thể khẳng định số cây trên 1 hecta ở rừng tự nhiên gấp 5 lần ở rừng
trồng.
Bảng 2.2: Diện tích rừng tre phân bố ở các vùng chủ yếu ở nước ta
Diện tích (ha)
STT
Vùng phân bố
Rừng tự nhiên
Trữ lượng (1000cây)
Rừng
trồng
Rừng tự
nhiên
Rừng
trồng
Thuần loại
176.449
Tre gỗ
132.745
13.695
1.577.853
13.628
57.218
42.503
8.665
428.015
3.374
1
Đông Bắc
2
Tây Bắc
3
ĐB sông Hồng
80
0
11
240
34
4
Bắc Trung Bộ
172.999
99.110
51.040
1.977.715
78.975
5
Tây Nguyên
210.343
123.770
0
3.007.371
0
6
DH miền Trung
27.519
2.517
0
167.031
0
viii
7
Đông Nam Bộ
Tổng cộng
144.613
225.686
105
1.146.468
63
789.221
626.331
73.516
8.304.693
96.074
Ở Việt Nam tre có mặt hầu hết tất cả các vùng nhưng chủ yếu tre thích nghi
với các vùng Bắc Trung Bộ, Đông Bắc, Đông Nam Bộ, và Tây Nguyên. Kết quả
thống kê về diện tích rừng tre thông qua các vùng trên lãnh thổ nước ta thể hiện
bảng 2.2.
Ở Việt Nam có thể gặp tre trúc từ độ cao ngang mực nước biển ở các xóm ấp
thuộc vùng Tây Nam Bộ, trên các đảo thuộc vịnh Hạ Long đến các độ cao gần
3.000m thuộc dãy Hoàng Liên Sơn. Tre trúc có rất nhiều công dụng, có thể nói từ
thân, gốc, rễ, lá, quả (hạt) đều được sử dụng triệt để. Thân tre dùng làm vật liệu xây
dựng và là nguyên liệu để làm ra các đồ dùng khác, làm nguyên liệu giấy; măng tre
làm thực phẩm; gốc tre và cả thân tre làm đồ thủ công mĩ nghệ, làm nhạc cụ; lá tre
làm thức ăn gia súc, măng tre, tinh tre còn được dùng làm thuốc; quả (hạt) tre có thể
ăn hoặc làm thức ăn gia súc… Cho nên tre trúc là loài cây đa mục đích vào bậc nhất
trong các loài cây trồng của nước ta.
Dựa trên các đặc điểm hình thái và sinh thái, tre trúc có thể chia làm hai
nhóm. Nhóm mọc tản như trúc, vầu, sặt,... phân bố ở các vùng cao có khí hậu lạnh;
trên nhiều đỉnh núi như Tây Côn Lĩnh, Chư Yang Sinh, Ngọc Lĩnh, các loài tre
thuộc nhóm mọc tản tạo thành các vành đai khá rộng. Còn các loài tre mọc cụm như
tre gai, hóp, trúc, diễn, bương, mai, lùng, lồ ô thường mọc ở độ cao dưới 700 m và
được nhân dân trồng nhiều quanh làng bản, dọc đường đi, ven sông suối.
Ngoài số rừng tre mọc tự nhiên tập trung, còn hàng trăm triệu cây tre được
trồng rải rác trong các gia đình ở vùng đồng bằng, trung du và miền núi cũng tạo
một trữ lượng tre trúc đáng kể. Do đặc tính của tre trúc là dễ trồng, mọc nhanh,
phân bố rộng, có nhiều đặc tính kỹ thuật quý nên được dùng trong nhiều ngành
nghề khác nhau. Đã thống kê được hơn 30 loại công dụng của tre trúc, nhưng phần
lớn tre trúc của Việt Nam đã được sử dụng làm hàng thủ công, mỹ nghệ, làm vật
liệu xây dựng và làm nguyên liệu cho các nhà máy giấy. Đặc biệt măng tre dưới
dạng tươi hoặc khô là món ăn quen thuộc của nhân dân Việt Nam. Càng ngày người
ix
ta càng phát hiện ra nhiều công dụng của tre trúc. Việc thử nghiệm trồng tre lấy lá
để gói bọc hoặc làm tấm cách âm (xuất sang Đài Loan), hoặc đốt thân tre làm than
hoạt tính (xuất khẩu sang Nhật Bản) cũng sẽ tạo nên nhiều mặt hàng tre trúc xuất
khẩu trong tương lai (Vũ Văn Dũng, 2003).
2.2- Một số nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài
2.2.1- Những nghiên cứu trên thế giới
Năm (1964), Martawidjaja đã thí nghiệm ngâm tre trong một số dung dịch
thuốc muối, naphthenate đồng và PCP. Kết quả thử nghiệm hiệu lực của thuốc
ngoài bãi thử tự nhiên cho thấy với thời gian ngâm 24 giờ, tre tẩm có hiệu lực
phòng chống côn trùng hại tre. Những (1979), Sight và Tewari nghiên cứu khả năng
thấm thuốc của tre Dendrocalamus strictus theo phương pháp ngâm thường với
dung dịch thuốc CCA nồng độ 5%, tác giả cho biết tốc độ thấm thuốc ở giai đoạn
đầu khá nhanh và sẽ giảm dần theo thời gian ngâm. Tre chẻ thanh đạt lượng thấm
thuốc cao hơn so với tre truyền thống. Tẩm tre chẻ thanh bằng thuốc dầu với áp lực
tẩm 14kG/cm2, lượng thuốc thấm của tre nguyên ống đạt 88kg/m3 và tre chẻ thanh
đạt 92kg/m3.
Theo Clayton (1986), Clayton và Renvoice đã đưa ra bảng phân loại với 49
chi của Bambuseae và được chia làm 3 nhóm phụ là Arundinarinae Benth,
Bambusese Presl và Melocanninae Reichenb. Sodertrom (1987) đã đề nghị một hệ
thống phân loại căn cứ vào đặc điển cấu tạo giải phẩu, bao gồm 54 chi, sắp xếp
trong 9 nhóm phụ. Sau đó, đã có nhiều nghiên cứu phân loại nhằm bổ sung một số
loài như Stapleton (1991), Dransfield (1992)… cho đến nay hệ thống phân loại tre
trúc đã sơ bộ xác định khoảng 1250 loài thuộc 75 chi phân bố trên thế giới. Bên
cạnh đó, cũng đã có nhiều nghiên cứu về công nghệ xử lý và chế biến tre như
Kumar và Dobriyal (1988) cho biết yêu cầu của tre nguyên liệu sau khi chặt hạ cần
phải tiến hành bảo quản không quá 5 ngày. Theo Suthoni (1988) đã thí nghiệm
ngâm tre trong dung dịch CuSO4 7% và dầu diezen 7 ngày. Kết quả tre tẩm có hiệu
lực phòng mọt tre xâm nhập.
x
Năm 1997, Zhang-QiSheng, Sun—Fengwen, Wang –Jianhe trường đại học
nam kinh Trung Quốc đã nghiên cứu về loại ván tổng hợp gỗ- tre sử dụng l2m sản
cointainer. Kết quả nghiên cứu cho thấy tính chất kết dính của tre và gỗ của loại ván
này không thấp hơn so với các loại ván dán, đây là vật liệu có thể thay thế ván dán.
2.2.2- Những nghiên cứu ở Việt Nam
Các nhà phân loại đã đưa ra danh sách khác nhau về các loài tre trúc ở nước
ta. Theo Phạm Hoàng Hộ (1990), rừng Viện Nam có khoảng 102 loài tre, trúc,
thuộc 19 chi. Nhưng giữa năm 2003, các nhà khoa học của Viện Khoa học Lâm
Nghiệp Việt Nam và Viện Điều Tra Quy Hoạch Rừng đã phát hiện thêm 6 chi, 21
loài tre lần đầu tiên được ghi nhận của Việt Nam và 23 loài tre mới cho khoa học,
đưa tổng số loài tre trúc của Việt Nam lên gần 150 loài thuộc 25 chi. Theo dự đoán,
nếu được điều tra đầy đủ, số loài tre trúc của Việt Nam có thể lên đến 250 – 300
loài.
Theo Nguyễn Tử Ưởng và Nguyễn Đình Hưng (1995) có khoảng 150 loài
tre trúc thuộc 20 chi ở Việt Nam. Theo Nguyễn Tích và Trần Hợp (1971) và nhiểu
tác giả khác xếp tre trúc vào họ tre (Bambusaceae). Nhưng gần đây Trần Đình Lý
(1993) và sách đỏ Việt Nam, phần thực vật Bộ Khoa học công nghệ - Môi trường,
(1996) đã tập hợp các loài tre vào các chi khác nhau của họ Hoà Thảo (Poacea).
Tre được xử lý bảo quản giúp tăng tuổi thọ sử dụng. Như Nguyễn Văn
Thông (1977) đã bảo quản trúc nguyên liệu giấy bằng phương pháp nhúng, phun
dung dịch thuốc LN2, LN3 và PCPNa. Kết quả thí nghiệm cho biết, trúc đối chứng
chỉ sau 10 ngày đã bị nấm làm mất phẩm chất, trúc nguyên cây được nhúng trong
dung dịch thuốc LN3 và PCPNa nồng độ 4% trong thời gian 1 phút đạt lượng thuốc
bám dính trên bề mặt 1,75kg/tấn và đối với trúc đập dập đạt 3,25 kg/tấn đã đảm bảo
phẩm chất nguyên liệu trong thời gian lưu kho bãi từ 4-6 tháng.
Vào đầu những năm 90 trường đại học Lâm Nghiệp lần đầu tiên hành nghiên
cứu đặc điểm, tính chất tre gai Đông Triều, Quảng Ninh. Với kết quả nghiên cứu
cho thấy tre gai có khối lượng thể tích cơ bản Dcb = 0,62 g/cm3, độ co rút dọc thớ
0,15%, xuyên tâm 11% tiếp tuyến 9%. Ứng suất nén dọc thớ 499kG/cm2, ứng suất
ép ngang thớ 45,6 kG/cm2, uốn tĩnh 750 kG/cm2.
xi
Năm 1993, Hưá Thị Huần đã nghiên cứu xây dựng chế độ công nghệ sản
xuất ván sợi từ nguyên liệu tre lồ ô và bạch đàn. Năm 1995, Đoàn Bổng và các cộng
tác viên Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã nghiên cứu sử dụng lồ ô, song
mật, bạch đàn, keo tai tượng sản xuất giấy. Năm 1997, Phạm Minh Thoa đã nghiên
cứu công nghệ chế biến và sử dụng tre trong sản xuất sản phẩm ván ghép thanh tre 3
lớp. Năm 2001, Nguyễn Thị Bích Ngọc nghiên cứu kỹ thuật bảo quản tre dùng
trong xây dựng. Năm 2002, Hoàng Thị Thanh Hương nghiên cứu công nghệ sản
xuất ván tre lồ ô, gỗ cao su kết hợp. Tre trúc tuy có nhiều hướng nghiên cứu khác
nhau, nhưng đều phục vụ cho mục đích sử dụng tre sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Tóm lại: Vẫn còn tồn tại một vấn đề lớn trong phân loại tre trúc ở nước ta
cần được giải quyết. Trên thực tế, có nhiều loài tre hiện chiếm một khối lượng chủ
yếu của rừng, được sử dụng rộng rãi nhưng tên gọi còn thiếu chính xác. Do vậy,
định danh phân loại tre trở nên là một nhu cầu cấp thiết và có nhiều ý nghĩa trong
công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, thương mại, xuất nhập khẩu đặc biệt
là đánh giá và xác định hướng sử dụng tre hợp lý theo đặc tính nguyên liệu nhằm
mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ở Việt Nam, hầu hết các nhà sản xuất thường sử
dụng các loại tre bó hẹp trong một số ít loài, qui trình công nghệ chủ yếu theo kinh
nghiệm. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều loài tre trúc có trữ lượng lớn, tuy nhiên việc
sử dụng còn rất hạn chế. Theo bản tin trồng mới 5 triệu ha rừng, tre trúc là một
trong những loài cây quan trọng được chọn gây trồng và phát triển nhằm tạo ra
vùng nguyên liệu cho chế biến tre trúc. Vấn đề được đặt ra là làm sao để thay thế
hoặc đa dạng hóa nguyên liệu, cũng như lựa chọn công nghệ chế biến tre hợp lý, đạt
hiệu quả kinh tế cao.
xii
Chương 3:
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1- Nội dung nghiên cứu
3.1.1- Khảo sát thực trạng khai thác, chế biến và đặc tính nguyên liệu
- Đặc điểm sinh trưởng và hình thái của 20 loài tre khảo sát.
- Xác định đặc điểm cấu tạo thô đại và hiển vi của 20 loài tre.
- Xác định các chỉ tiêu tính chất vật lý của 20 loài tre nghiên cứu (khối lượng
thể tích, điểm bão hòa thớ tre, tỷ lệ co rút, tỉ lệ dãn nỡ.....)
- Xác định thành phần hóa học của 20 loài tre nghiên cứu (hàm lượng
cellulose, lignin, hàm lượng các chất trích ly tan trong alcol- benzen, trong nước
nóng....)
- Xác định các chỉ tiêu tính chất cơ học của 20 loài tre nghiên cứu (ứng suất
nén, ứng suất uốn tĩnh)
3.1.2- Nghiên cứu xây dựng quy trình tẩm, sấy trong phòng thí nghiệm
- Xây dựng qui trình công nghệ tẩm tre (các thông số về chế độ tẩm như loại
hoá chất, nồng độ thuốc, thời gian tẩm ...) ảnh hưởng đến chất lượng nguyên liệu
và thời gian sấy.
- Xây dựng qui trình công nghệ sấy tối ưu cho từng loại tre nghiên cứu.
3.1.3- Đề xuất hướng sử dụng các loại tre nghiên cứu
- Xác định tuổi khai thác tối ưu cho từng loài tre cụ thể phù hợp với từng công
nghệ sản xuất.
- Định hướng sử dụng cho 20 loài tre khảo sát.
3.1.4- Chuyển giao công nghệ
- Thực nghiệm quy trình tẩm tối ưu của 20 loài tre tại cơ sở sản xuất.
- Thực nghiệm quy trình sấy tối ưu của 20 loài tre tại cơ sở sản xuất.
xiii
- Sản xuất thử các loại sản phẩm nội thất từ nguyên liệu tre đã qua tẩm sấy. So
sánh sản phẩm từ tre sau khi đã áp dụng qui trình tẩm sấy của đề tài với sản
phẩm của cơ sở sản xuất.
3.2- Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp tiếp cận của đề tài: Để có thể tiếp cận hệ thống một cách
khoa học đề tài sẽ kế thừa các thành tựu nghiên cứu khoa học trước đây. Bao gồm:
ứng dụng lý thuyết kỹ thuật và công nghệ sấy gỗ của PGS.TS. Hồ Xuân Các (1994);
các dạng phương trình toán học biểu diễn quá trình khuyếch tán ẩm của FicK
(1954), quá trình thấm dẫn ẩm của Darsi (1984), ứng dụng các mô hình biểu diễn
quá trình giảm ẩm nguyên liệu của Lewis, (1921), Noomhorm (1986), Thompsom
(1986)… để lựa chọn mô hình phù hợp nhất cho các nguyên liệu tre nghiên cứu.
* Phương pháp thực nghiệm: Quá trình nghiên cứu được thực hiện theo
phương pháp thực nghiệm dựa trên cơ sở hệ thống tiêu chuẩn trong nước và thế giới.
- Chọn cây cắt khúc, lấy mẫu và xác định tính chất vật lý, cơ học, hoá học của
tre theo Liese và các tài liệu có liên quan.
- Phân loại đặc điểm cấu tạo tre theo bảng phân loại của Liese.
- Tính toán kết quả các chỉ tiêu cơ học được qui đổi về độ ẩm 12% để phù hợp
với qui định quốc tế và độ ẩm 18% cho phù hợp với tiêu chuẩn ở Việt Nam
- Theo dõi và kiểm tra chất lượng nguyên liệu trước và sau khi tẩm, sấy.
- Định hướng sử dụng tre theo Chiang –Q – Sheng
a- Nghiên cứu cấu tạo giải phẫu tre
- Cấu tạo thô đại: Quan sát bằng mắt thường và kính lúp ×10
- Cấu tạo hiển vi: Tạo tiêu bản mắt cắt ngang và mặt cắt dọc của tre luồng và
tre gai. Quan sát trên kính hiển vi, đo kích thước các tế bào bằng thước trắc vi.
- Phương pháp tạo tiêu bản hiển vi: Mẫu tre có kích thước 20×10×t (mm) chưa
qua xử lý được đem luộc trong nước từ 3 - 5 ngày cho đến khi mềm. Mẫu cắt được
cắt trên máy cắt vi phẫu A.O Sliding, với độ dày 20 -22µm. Các phẫu thức được
khử nước từ từ khi cho đi qua lần lượt các dung dịch alcol với nồng độ tăng dần
1/10; 3/10; 5/10; 7/10; và alcol tuyệt đối. Sau khi khử nước, các phẫu thức được
xiv
đem ngâm trong thuốc nhuộm Safranin bão hòa trong Anilin với dung dịch Alcol,
loại bỏ màu thừa bằng alcol và làm sáng tiêu bản bằng xylen, cố định tiêu bản bằng
Keo Balsan canada.
b- Phương pháp xác định các tính chất cơ lý
Phương pháp xác định khối lượng thể tích và tỉ lệ co rút của tre: Khối lượng
thể tích và tỷ lệ co rút của tre được xác định trên cùng một loại mẫu thử kích thước
10×20×t mm với thể hiện rõ ràng của 3 mặt cắt: ngang, tiếp tuyến (TT) và xuyên
tâm (XT), với 20mm là kích thước theo phương dọc thớ.
Các mẫu thử được để hong khô tự nhiên, cân và đo để biết khối lượng và
kích thước theo các chiều ở trạng thái hong khô. Sau đó, mẫu được đưa vào tủ sấy
đến khô kiệt ở nhiệt độ 105±2oC. Mẫu được xem đã khô kiệt khi chênh lệch khối
lượng giữa 2 lần cân liên tiếp nhau không quá 0,01g. Sau khi đã đạt trạng thái khô
kiệt, mẫu được cân và đo nhanh để biết khối lượng và kích thước theo các chiều ở
trạng thái khô kiệt. Sau đó các mẫu thử được đem ngâm trong nước cho đến khi
kích thước không thay đổi. Các lần đo kiểm tra cách nhau 3 ngày đêm. Mẫu được
xem đã bão hòa nước khi chênh lệch kích thước giữa 2 lần đo liên tiếp không quá
0,01mm. Sau khi đã đạt trạng thái bão hòa nước, mẫu được đo để biết kích thước
theo các chiều ở trạng thái bão hòa nước.
Các tính chất cơ lý được xác định theo TCVN – 1970. Bao gồm: Khối lượng
thể tích khô kiệt; khối lượng thể tích cơ bản; tỷ lệ co rút theo phương tiếp tuyến (TT)
từ trạng thái tươi đến khô kiệt; tỷ lệ co rút theo phương xuyên tấm (XT) từ trạng
thái tươi đến khô kiệt; tỷ lệ co rút thể tích từ trạng thái tươi đến khô kiệt; điểm bão
hòa; ứng suất uốn tĩnh δut (kG/cm2) và nén dọc thớ δnd (kG/ cm2).
c- Thí nghiệm xác định thành phần kích thước xơ sợi
Để phân li các tế bào tre cần tìm cách phân hủy tấm chung liên kết giữa các
tế bào, nhằm khảo sát đặc điểm hình thái của từng kiểu tế bào. Áp dụng phương
pháp Franklin để thực hiện việc tách mô. Những mảnh tre này được làm mềm trong
hỗn hợp acid acetic và nước oxi già. Huyền phù tế bào tre sẽ được bảo quản trong
ống nghiệm với dung dịch Formalin loãng (4 – 6 %). Trãi mỏng lên kính với một
xv
giọt huyền phù tế bào. Sau đó làm ngập trong thuốc nhuộm Safranin, hơ nóng, khử
nước, làm sạch trong cồn và lên tiêu bản bằng keo canada.
d- Thí nghiệm xác định thành phần học
- Hàm lượng tro theo tiêu chuẩn Tappi standard T15m-58.
- Hàm lượng chất tan trong alcol benzen theo tiêu chuẩn Tappi standard T6m58.
- Hàm lượng chất tan trong nước nóng theo tiêu chuẩn Tappi standard T1,
- Hàm lượng Pentozan theo tiêu chuẩn Tappi standard T19m-50
- Hàm lượng Cellulose theo phương pháp Kiusher và Khopher
- Hàm lượng Licnin theo tiêu chuẩn Tappi standard T13m-54
- Phương pháp xác định khả năng thấm thuốc bảo quản của các loại tre khảo
sát:
Lượng thuốc thấm vào mẫu tre được tính theo công thức sau:
M=
(m2 − m1 ).C
Trong đó: M: là lượng thuốc thấm (kg/m3); m1, m2: khối
V .100
lượng mẫu trước và sau khi tẩm (kg); C: là nồng độ thuốc; V: thể tích mẩu (m3)
Bảng 3.1: Danh sách các loài tre nghiên cứu
STT
Tên Việt Nam
Tên khoa học
1
Tre lục trúc
Bambusa oldhami
2
Tre vàng sọc
Bambusa vulgaris
3
Tre lồ ô
Bambusa procera
4
Tre gai
Bambusa stenostachya
5
Tre mỡ
Bambusa arundinacea
6
Tre đũa
Bambusa sp
7
Tre tạp giao
Bambusa pervasiabilis
8
Tre xiêm
Bambusa tulda
9
Tre hóa giấy
Bambusdsa blumeana
10
Tre hóa cẳng bò
Bambusa agrestis
11
Tầm vông
Dendrocalamus strictus
12
Tre mạnh tông
Dendrocalamus asper
xvi
Ghi chú
13
Tre điền trúc
Dendrocalamus latiflorus
14
Tre bát độ
Dendrocalamus ohhlami
15
Tre gầy
Dendrocalamopsis sp
16
Tre luồng
Dendrocalamus membranaceus
17
Tre tàu
Gigantochloa levis
18
Tre le
Oxytenanthera dinhensis
19
Trúc sào
Phyllostachys edulis
20
Tầm vông đá
Thyrsostachys siamensis
Những cây tre được lấy làm thí nghiệm phải đạt tuổi thành thục, số tre này
được khai thác từ vườn Trúc Đào (thuộc huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai), các hộ
dân ở Phú An, Bến Cát, Bình Dương, lâm trường Nghĩa Trung tỉnh Bình Phước,
lâm trường Đạ Hoai tỉnh Lâm Đồng. Đặc điểm của tre thành thục là mo nang đã rơi
hết, màu tre đạt đến độ nhuyển, tức chuyển sang màu xanh đậm hay xanh vàng. Nền
xanh của tre có thể còn hoặc có thể biến mất một phần.
Chọn cây tre sinh trưởng bình thường, không sâu bệnh và có đường kính
trung bình không quá to, cũng không quá nhỏ, chiều cao trung bình, thân khá thẳng,
không sâu bệnh, không thót ngọn. Tre sau khi chặt hạ được chia làm 3 đoạn, mỗi
đoạn khoảng 1,5 m, tối thiểu 2 mắt tre. Đoạn 1: cách gốc 0,5m, đoạn 2: đoạn giữa
thân tre và cách gốc 3,5m; đoạn 3: cách gốc 6m. Sau đó, ghi kí hiệu bó lại, đóng gói
và chuyển về phòng thí nghiệm. Và tiến hành gia công mẫu thí nghiệm, các mẫu thí
nghiệm được bảo quản nơi thoáng mát, thông gió, hong phơi tự nhiên.
Chương 4:
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thực trạng khai thác, chế biến và đặc tính nguyên liệu
4.1.1- Thực trạng về tình hình khai thác và chế biến của các loài tre
xvii
Nhóm lâm sản ngoài gỗ này ngày càng được sử dụng nhiều trong đời
sống hàng ngày, thủ công nghiệp và công nghiệp… Tuy nhiên, việc khai thác diễn
ra tự do, không theo qui trình kỹ thuật. Nguyên nhân này dẫn đến rừng tre nứa ở
Việt Nam bị suy giảm nghiêm trọng về số lượng và chất lượng. Theo kế họach
2000- 2010, ngoài diện tích 1,49 triệu ha rừng tre nứa sẵn có, chúng ta cần phải
trồng mới 500.000 ha. Về sử dụng tre, hàng năm ước tính nước ta tiêu thụ khoảng
400-500 triệu cây tre nứa cho các mục đích khác nhau. Phần lớn tre nứa vẫn được
sử dụng phục vụ cho xây dựng như làm nhà ở những vùng nông thôn, làm cầu, giàn
giáo, gia cố nền móng … Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ tre rất phong phú về
chủng loại. Bên cạnh, các sản phẩm nội thất bằng tre như bàn ghế, giường chiếu…
các sản phẩm công nghiệp có giá trị cao như cót ép, ván dăm tre, ván ghép thanh tre,
ván sàn tre, ván tre gỗ kết hợp … ngày càng phát triển phục vụ nhu cầu sử dụng
trong nước và xuất khẩu. Loại hình sản xuất này đã góp phần đa dạng hóa ngành
nghề thủ công ở nông thôn, tận dụng thời gian nhàn rỗi và tăng thu nhập cho người
nông dân. Với sự phát triển của ngành du lịch, những ngôi nhà tre có những nét kiến
trúc mang bản sắc Việt Nam đang được chú trọng phát triển và rất hấp dẫn đối với
các du khách nước ngoài. Ngoài ra, măng tre còn được sử dụng nhiều trong công
nghệ chế biến thực phẩm… Qua điều tra, tuổi thành thục của thân tre chủ yếu là 3-4
tuổi và chết già tự nhiên khoảng 7- 8 tuổi. Vì vậy nếu không khai thác hằng năm
lượng cây chết tự nhiên khá lớn. Ở những lâm phần có tiến hành khai thác, lượng
măng đều gia tăng. Ở những lâm phần đang phục hồi thì số cây ở tuổi 1- 2 nhiều
hơn 3- 4. Việc khai thác măng cũng chỉ coi là biện pháp kỹ thuật lâm sinh, số lượng
măng lấy ra không vượt quá 30 – 35% tổng số lượng măng sinh ra trong năm.
Phương thức khai thác phù hợp là khai thác chọn theo tuổi các cây trong bụi, tuổi
chặt phù hợp nhất là những cây 3- 4 tuổi trở lên, các cây chừa lại chủ yếu là những
cây 1- 2 tuổi là những cây đẻ măng và nuôi các thế hệ sau. Tốt nhất là chặt hàng
năm vì mỗi năm đều có cây mới sinh ra, tuổi cây lấy ra sẽ đồng đều. Cây lấy ra từ 4
tuổi trở lên và một phần cây tuổi 3, sản lượng cây lấy ra khoảng 30 – 35% số cây.
Chu kỳ hai năm là phù hợp với điều kiện hiện nay, sản lượng lấy ra cho một lần
chặt sẽ lớn hơn, tiện cho việc vận chuyển. Cây chặt là những cây 3- 4 tuổi, sản
lượng lấy ra khoảng 50%. Tùy mục đích kinh doanh và đầu tư mà chọn mật độ
xviii
trồng khác nhau 500cây/ha 4×5m, 400cây/ha 5×5m, 333cây/ha 6×5m. Thu hoạch
thân tre: thường mỗi bụi chỉ để lại 1 -2 cây một tuổi để sinh măng cho vụ sau và cây
3 tuổi để bảo vệ bụi tre, còn những cây trên 3 tuổi thì khai thác thân, những cây trên
6 tuổi trở lên phải đào bỏ cả gốc cây, rồi lấp đất lại.
Bảng 4.1: Diện tích tre phân bố ở các vùng trên cả nước
TT
Vùng phân bố
1
Đông Bắc
2
Tây Bắc
3
ĐB Sông Hồng
4
Bắc Trung Bộ
5
Tây Nguyên
6
7
Trữ lượng (1000 cây)
Rừng
Rừng đặc Rừng sản
phòng hộ
dụng
xuất
964.751
76.814
549.916
Tổng trữ
lượng (1000
cây)
1.591.481
352.183
22.287
56.919
431.389
270
4
0
274
883.494
192.640
980.701
2.056.690
1.148.294
470.738
1.388.339
3.007.371
DH Miền Trung
100.495
1.520
65.016
167.031
Đông Nam Bộ
440.627
182.156
523.748
1.146.531
3.889.969
946.159
3.546.639
8.400.767
Tổng cộng
Tre ra măng vào mùa mưa nên mùa chặt tre thích hợp vào mùa khô, chất lượng
cây tốt hơn vì lượng nước trong thân ít. Khi chặt tre cần tuân thủ các nguyên tắc:
- Chặt hết nhưng cây cần chặt ở mỗi bụi
- Phân bố đều các cây còn lại trong bụi
- Chặt từ ngoài vào trong
- Kết hợp chặt vệ sinh (chặt cây già, cây đang bị mục)
- Chặt sát gốc, cao nhất không quá 30 cm
- Phải tiến hành chặt gọn từng bụi, xong bụi này mới chặt bụi khác.
- Chú ý bảo vệ cây non và tránh làm dập nát, gãy măng
Trên thực tế, sản lượng tre khai thác không ổn định chủ yếu theo nhu cầu của
thị trường. Các loại tre chủ yếu hiện đang được các cơ sở chế biến tre sử dụng là
tầm vông, tre tàu, tre gai, lồ ô và tre xiêm; ngoài ra còn có cả luồng được mua ở các
tỉnh phía Bắc. Chính sự khai thác một cách tùy tiện như vậy nên nguồn nguyên liệu
này không đảm bảo sự tái sinh khi khai thác ồ ạt không tính toán. Tuy nhiên, việc
xix
khai thác tre không những đem lại lợi ích kinh tế cho địa phương mà còn giải quyết
làm việc làm cho hàng ngàn người lao động.
Người khai thác
↓
Trung gian
⇒
Xí nghiệp chế
biến
⇒
Tiêu thụ nội địa
và xuất khẩu
↓
Xí nghiệp sơ chế
Hình 4.1: Sơ đồ khai thác, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Nguyên liệu tre đến các cơ sở chế biến thông qua 3 con đường. Nguyên liệu
có thể đi trực tiếp từ người khai thác đến các cơ sở chế biến. Lượng nguyên liệu đi
theo con đường này không nhiều vì các cơ sở chế biến có qui mô thường muốn mua
nguyên liệu với số lượng lớn. Nguyên liệu còn được bán cho các trung gian tại cửa
rừng; sau đó các trung gian này bán lại cho các cơ sở chế biến. Thông thường các
cơ sở chế biến mua nguyên liệu theo con đường này vì lượng nguyên liệu tương đối
lớn. Ngoài ra, nguyên liệu cũng có thể từ người khai thác và trung gian đến các cơ
sở sơ chế, rồi sau đó nguyên liệu sơ chế xong được bán lại cho các cơ sở chế biến.
Tre sau khi được mua về bãi của doanh nghiệp hầu hết tre sẽ được để ngoài
trời “phơi nắng, sương” khoảng từ 3-4 tuần, sau đó tre mới được đưa vào sơ chế. So
với gỗ, trong ngành sản xuất tre thì các công cụ chế biến tương đối đơn giản. Trong
công đoạn sơ chế tre trước khi đưa vào sấy, công cụ để gia công chỉ là các loại cưa
đĩa cắt ngắn nhằm mục đích chuẩn chiều dài tre theo đúng qui cách sản phẩm.
Ngoài ra, gia công chế biến tre ở công đoạn sơ chế còn có máy chà nhám, lò uốn….
Nguyên liệu tre sau khi được gia công sơ chế sẽ được chuyển vào lò sấy hoặc
qua các công đoạn uốn, tẩm rồi mới chuyển vào lò sấy. Dưới đây là 1 số công đoạn
gia công nguyên liệu được thực hiện trước khi sấy:
+ Nguyên liệu => sơ chế => sấy…
+ Nguyên liệu => sơ chế => tẩm => sấy…
+ Nguyên liệu => sơ chế => uốn => chà vỏ => sấy…
+ Nguyên liệu => sơ chế => uốn => chà vỏ => tẩm => sấy…
xx
- Xem thêm -