VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG TÚ LÊ
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH XĂNG DẦU THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG TÚ LÊ
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH XĂNG DẦU THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC MINH
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
HOÀNG TÚ LÊ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH XĂNG
DẦU.......................................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm về điều kiện kinh doanh xăng dầu.............................................. 8
1.2. Lý do quy định điều kiện kinh doanh xăng dầu......................................... 16
1.3. Nội dung điều kiện kinh doanh xăng dầu.................................................. 20
1.4. Các điều kiện cụ thể đối với hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xăng
dầu 25
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
XĂNG DẦU QUA THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN.................................................................................................................... 33
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu....33
2.2. Thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu qua thực tiễn tại
tỉnh Đồng Nai..................................................................................................... 40
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về điều kiện kinh
doanh xăng dầu.................................................................................................. 58
2.4. Định hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu......60
2.5. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu tại
Việt Nam............................................................................................................. 65
2.6. Các giải pháp thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu tại
Việt Nam............................................................................................................. 66
KẾT LUẬN............................................................................................................ 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 72
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN
Association of South East Asian Nations (Hiệp hội các quốc gia
đông Nam Á)
BVMT
Bảo vệ môi trường
ĐKKD
Đăng ký kinh doanh
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GRDP
Tổng sản phẩm trên địa bàn
IEA
International Energy Agency (Cơ quan năng lượng quốc tế)
OPEC
Organization of Petroleum Export Countries (Tổ chức các nước
xuất khẩu dầu mỏ)
PCCC
Phòng cháy chữa cháy
Petrolimex
Tập đoàn xăng dầu Việt Nam
PV Oil
Tổng Công ty dầu Việt Nam
UBND
Ủy ban nhân dân
USD
đô la Mỹ
VNĐ
Việt Nam đồng
WTO
World Trade Organization (Tổ chức thương mại thế giới)
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề
tài
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, nhu cầu tiêu dùng của người dân ở Việt Nam ngày càng
tăng là những nhân tố cho thấy yêu cầu rất lớn về nguyên - nhiên liệu ngày càng trở
nên cần thiết, đặc biệt là xăng dầu. Xăng, dầu là mặt hàng có tính chiến lược, có ý
nghĩa quan trọng trong nền kinh tế - xã hội; đồng thời tác động mạnh mẽ đến nhiều
ngành, nghề sản xuất - kinh doanh, đời sống nhân dân và an ninh quốc phòng. Có
thể nói xăng dầu là nguồn nhiên liệu chính cho mọi hoạt động của nền kinh tế.
Trong cân bằng năng lượng thế giới, xăng dầu và khí thiên nhiên chiếm tỷ lệ
khoảng 63%, phần còn lại thuộc về than đá (23%), điện hạt nhân và thuỷ điện
(12,5%), các dạng năng lượng khác (1,5%) [24, tr. 11-12].
Do tính chất quan trọng của kinh doanh xăng dầu nên ở các quốc gia, nhà
nước đều can thiệp ở mức độ nhất định lĩnh vực và hoạt động kinh doanh ngành,
nghề, mặt hàng này. Một sự bất ổn của thị trường xăng dầu quốc tế và trong nước
có thể tác động tiêu cực đến nền kinh tế trong nước. Vì vậy, kinh doanh xăng dầu
hiện nay, được xác định là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện mà Nhà nước vừa
cần phải đảm bảo các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường vừa phải điều tiết, bình
ổn để tránh những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội. Hiện nay, thị
trường xăng dầu Việt Nam có 29 thương nhân đầu mối được phép xuất nhập khẩu,
kinh doanh xăng dầu và được dự báo còn tăng mạnh trong thời gian tới. Nghị định
83/2014/NĐ-CP mở ra khá nhiều điều kiện thông thoáng theo hướng thị trường
cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng cạnh tranh về thị phần.
Nhà nước gần như giữ lại quyền điều hành giá và cho doanh nghiệp một mức lợi
nhuận cố định không bị chi phối bởi giá nguyên liệu đầu vào.
Hoạt động kinh doanh xăng dầu trong những năm qua dưới sự quản lý của
Nhà nước đã góp phần ổn định thị trường trong nước, thúc đẩy sản xuất phát triển
và ổn định đời sống nhân dân, kể cả trong điều kiện tình hình chính trị thế giới diễn
biến phức tạp. Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã ban hành Luật doanh nghiệp năm
1
2014, được chính thức áp dụng từ ngày 1/7/2015 thay thế cho Luật Doanh nghiệp
2005 với nhiều đột phá trong thủ tục gia nhập thị trường cho nhà đầu tư. Đối với
các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, Luật đầu tư quy định 267 ngành, nghề tại
Phụ lục IV, đã giảm bớt 119 ngành, nghề so với Luật Doah nghiệp 2005 và từ ngày
01/01/2017, Luật sửa đổi, bổ sung đã giảm xuống chỉ còn 243 ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện. Mặc dù đã giảm bớt nhưng với con số trên, danh mục ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện vẫn được cho là quá nhiều so với các nước phát triển
trong cùng khu vực mà Việt Nam đã ký kết các Hiệp định song phương. Chính điều
này đã gây khó khăn nhiều cho các nhà đầu tư nói chung, làm ảnh hưởng tiêu cực
đến việc đăng ký kinh doanh (ĐKKD), tác động trực tiếp đến công cuộc cải cách
thủ tục hành chính và mâu thuẫn với quyền tự do kinh doanh được quy định trong
Hiến pháp. Bên cạnh đó, điều kiện kinh doanh được thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau và khá phức tạp mà cụ thể là: Yêu cầu xác định vốn pháp định, Chứng
chỉ hành nghề, Giấy phép kinh doanh, Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh,
ký quỹ, mua bảo hiểm trách nhiệm nghề, nghiệp cho hoạt động của doanh
nghiệp,… hoặc buộc các doanh nghiệp phải tuân theo pháp luật từng chuyên
ngành khi thực hiện thủ tục ĐKKD, đặc biệt là kinh doanh xăng dầu. Ngoài ra,
trên thực tiễn, để đồng bộ cùng với cơ chế ĐKKD thông thoáng thì cũng cần có
sự quản lý chặt chẽ về mặt pháp lý, tăng cường chế tài xử phạt về hành vi gian
lận, vi phạm các điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp, tạo môi trường kinh
doanh lành mạnh, minh bạch và công bằng.
Trong những năm gần đây, sau sự ra đời của Nghị định 84/2009/NĐ-CP và
hiện nay là Nghị định 83/2014/NĐ-CP cùng cơ chế quản lý đối với kinh doanh xăng
dầu mở rộng, cho phép ngày càng nhiều các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần
kinh tế có thể tham gia vào thị trường kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam, tạo nên sự
cạnh tranh gay gắt nhưng đồng thời cũng mang lại tính đa dạng trên thị trường, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển và hội nhập, góp phần tạo điều kiện mở ra một môi
trường kinh doanh thuận lợi phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Vấn đề cần
thiết hiện nay, cần phải có sự đánh giá đầy đủ quy định của pháp luật về điều kiện
kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam, đặc biệt là khía cạnh về sự hạn chế, bất cập,
những vấn đề còn tồn tại từ thực tiễn, qua đó, nhìn nhận lại các yêu cầu thật sự của
doanh nghiệp và cơ chế vận động của thị trường khi các doanh nghiệp tham gia vào
thị trường kinh doanh xăng dầu, từ đó sẽ đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả trong lĩnh vực này.
Mặc dù các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu hiện nay
được đánh giá là khá đầy đủ, tuy nhiên, vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong
muốn vì nhiều lý do khác nhau như ý thức chủ thể, quản lý nhà nước,… Bên cạnh
đó, Đồng Nai là một tỉnh miền đông Nam bộ, có tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ,
các lĩnh vực kinh doanh nói dung và xăng dầu nói riêng trong những năm gần đây
đang theo xu hướng phát triển nhanh chóng và theo đó, xuất hiện nhiều tồn tại, phức
tạp nhất định. Đây cũng chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Điều kiện kinh
doanh xăng dầu theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” để làm đề
tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Thúc đẩy nền kinh tế phát triển luôn là ưu tiên hàng đầu của bất kỳ quốc gia
nào trên Thế giới và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Đại hội lần thứ X của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nêu ra tính nguyên tắc trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước giai đoạn hiện nay là phải bảo đảm sự gắn
kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và
phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Việt Nam coi các doanh nghiệp là
“trụ cột”, là “nền móng” của phát triển kinh tế và để thực hiện tốt mục tiêu này,
Đảng và Nhà nước luôn chú trọng xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh,
cạnh tranh, cùng các cơ chế quản lý thông thoáng, tạo điều kiện tối đa cho các
Doanh nghiệp phát triển tiềm lực của mình.
Pháp luật và áp dụng pháp luật đối với quy định về ngành, nghề kinh doanh có
điều kiện là một vấn đề tương đối mới và vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện nhằm
bắt kịp với xu thế về nền kinh tế thị trường phát triển trên Thế giới. Về kinh nghiệm
lập pháp cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn
chế và đang được
nhận được sự quan tâm nghiên cứu nhiều nhà khoa học. Cho đến nay, đã có một số
nghiên cứu, luận bàn đề cập đến vấn đề pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật liên
quan đến điều kiện kinh doanh và ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Cụ thể, bài viết
của tác giả Trần Huỳnh Thanh Nghị đăng trên Tạp chí Luật học số 4/2015 đã phân
tích một số cải cách thủ tục thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2014 trong
việc cải thiện môi trường thứ hạng kinh doanh của Việt Nam trong năm 2016, qua đó
chỉ ra một số trở ngại của Việt Nam trong thời gian tới, đó là tốc độ cải cách thủ tục
thành lập doanh nghiệp vẫn còn chậm so với nhiều nền kinh tế khác, danh mục ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện còn nhiều và chế tài xử phạt đối với nhà đầu tư kinh
doanh vi phạm chưa đủ sức răn đe đối với doanh nghiệp [15, tr. 5-8]. Đề cập đến vấn
đề “Hoàn thiện pháp luật nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư kinh doanh”, Luật sư
Trương Thanh Đức nêu lên sự bất cập về quyền tự do kinh doanh so với quy định của
Hiến pháp cho phép doanh nghiệp được tự do kinh doanh, kinh doanh những gì mà
pháp luật không cấm [11, tr. 5-11]. Bên cạnh đó, con số trong Danh mục ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện còn quá nhiều, gây cản trở cho các doanh nghiệp trong quá
trình thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh. Bài viết “Một số hạn chế của luật
doanh nghiệp và luật đầu tư 2014 còn nhiều bất cập” của tác giả Phạm Thị Hồng Đào
nêu lên những vấn đề tồn tại đang gây nhiều khó khăn, một số quy định chưa thật sự
phù hợp, các văn bản pháp luật được ban hành trước thời điểm các Luật này có hiệu
lực vẫn chưa được hoàn thiện, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ với những cải cách
của luật [10, tr. 5-9]. Điều này đang gây nên sự chậm trễ, ách tắc và khiến các các
doanh nghiệp cũng như nhà đầu tư trong nước và nước ngoài lo ngại. Bài viết của tác
giả Nguyễn Dạ My “Pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp theo
luật doanh nghiệp 2014” [13] và bài viết của tác giả Nguyễn Thị Anh “Trình tự, thủ
tục thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo pháp luật
Việt Nam” [1] đã đưa ra một số khái quát về điều kiện trong thành lập doanh nghiệp nói
chung và thành lập doanh nghiệp trong ngành, nghề kinh doanh có điều kiện nói riêng.
Bên cạnh đó, hai tác giả cũng đã có những đánh giá thực tiễn và đưa ra một số giải
pháp hoàn thiện trong lĩnh vực này. Với nhiều bất cập về trình tự, thủ tục thành lập
doanh nghiệp đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, tác giả Nguyễn Thị
Thu Thủy đã có bài viết “Hoàn
thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam hiện nay” trên trang Tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, nêu lên sự cần thiết xây dựng văn bản pháp luật chuyên biệt cho tình tự,
thủ tục ĐKKD trong ngành, nghề kinh doanh có điều kiện [25, tr. 64].
Có thể thấy, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã khái quát sơ
lược những nội dung liên quan đến các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện theo Luật
Doanh nghiệp và Luật Đầu tư hiện hành, tuy nhiên, tìm hiểu, nghiên cứu cụ thể về điều
kiện kinh doanh xăng dầu, một trong những ngành, nghề kinh doanh có điều kiện trong
bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay thì chưa có bài viết nào.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu làm rõ thực trạng quy định của pháp luật về điều kiện
kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay qua lăng kính thực hiện của một địa
phương là Đồng Nai, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện chế định pháp luật này.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề chung mang tính lý thuyết về điều kiện kinh doanh
xăng dầu.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật; kết quả đã đạt được cũng như khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng
dầu qua trường hợp tỉnh Đồng Nai.
- Đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện cũng như thực thi pháp luật về
điều kiện kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu
tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Thực tiễn thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu được đánh giá
qua thực tế ở tỉnh Đồng Nai từ năm 2014 đến nay (theo hiệu lực của Luật Doanh
nghiệp và Luật Đầu tư).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN, kinh tế thị trường, quyền con người.
Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
sau đây:
+ Phương pháp phân tích: Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về
điều kiện kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam.
+ Phương pháp so sánh: So sánh những quy định của pháp luật về điều kiện
kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam và các nước, qua đó, làm rõ về những yếu tố cấu
thành điều kiện kinh doanh xăng dầu.
+ Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các kết quả nghiên cứu.
+ Phương pháp lịch sử: Nhìn lại quá trình thay đổi, cải cách pháp luật về điều
kiện kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ các khái niệm liên quan với điều kiện
kinh doanh xăng dầu, luận giải lý do quy định điều kiện kinh doanh xăng dầu; đồng
thời phân tích nội dung điều kiện kinh doanh xăng dầu và các điều kiện cụ thể đối với
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung tư liệu cho việc đánh giá thực
trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay và nghiên cứu
hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần chính của
Luận văn có 02 chương với những nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Khái quát chung về điều kiện kinh doanh xăng dầu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh xăng dầu qua thực tiễn
tỉnh Đồng Nai và giải pháp hoàn thiện.
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH XĂNG
DẦU
1.1. Khái niệm về điều kiện kinh doanh xăng dầu
1.1.1. Khái niệm xăng dầu
Xăng dầu là tên chung để chỉ các sản phẩm của quá trình lọc dầu thô, dùng
làm nhiên liệu, bao gồm: Xăng động cơ, dầu điêzen, dầu hỏa, dầu ma-dút, nhiên liệu
bay; nhiên liệu sinh học và các sản phẩm khác dùng làm nhiên liệu động cơ, không
bao gồm các loại khí hóa lỏng và khí nén thiên nhiên [5]. Tùy theo công dụng, xăng
dầu được chia thành: các loại xăng, dầu hỏa thông dụng, nhiên liệu phản lực, nhiên
liệu diezel và dầu bôi trơn. Đặc điểm chung của nhóm sản phẩm này là dễ cháy, đặc
biệt khí nén ở áp suất cao chuyển thành thể khí. Khi cháy chúng phát sáng, thể tích
tăng đột ngột và sinh nhiệt.
Xăng dầu là một loại hàng hóa được sử dụng rất rộng rãi trong cuộc sống và
trong các ngành công nghiệp, được dùng để thắp sáng và tạo nhiệt (xăng, dầu hỏa,
nhiên liệu diezel, nhiên liệu phản lực). Xăng dầu dùng cho các loại động cơ đốt
trong, làm nhiêu liệu dùng cho động cơ nổ diezel, nhiên liệu dùng cho động cơ phản
lực. Nhóm dầu nhờn dùng trong các động cơ nổ với mục đích làm mát động cơ, bôi
trơn làm giảm ma sát cho các bộ phận và chi tiết chuyển động làm tăng tuổi thọ
thiết bị. Xăng dầu dùng làm dung môi trong nhiều ngành công nghiệp đặc biệt là
công nghiệp sơn do có khả năng hòa tan nhiều chất hữu cơ.
Biểu đồ 1.1: Các sản phẩm lọc hóa dầu
Nguồn: http://Petrotimes.vn
Đặc điểm của xăng
dầu
Xăng dầu là một loại hàng hoá có những đặc tính lý hóa riêng do vậy, để được
phép kinh doanh cần có những điều kiện bảo đảm nhất định về cơ sở vật chất kỹ
thuật.
Xăng dầu ở thể lỏng rất dễ bốc cháy, đặc biệt nhạy cảm với sự thay đổi của
nhiệt độ môi trường. Trong điều kiện nhiệt độ trên 23 độ C với áp suất trên 100 ápmốt-phe chỉ cần một tia lửa điện phóng qua có thể gây phản ứng sinh nhiệt dẫn đến
bốc cháy [29, tr. 14]. Đặc điểm này đòi hỏi công tác phòng cháy trong hoạt động
kinh doanh xăng dầu hết sức nghiêm ngặt. Công tác phòng cháy chữa cháy gắn liền
với toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh xăng dầu, đồng thời phương tiện và
thiết bị dùng cho kinh doanh xăng dầu phải là những thiết bị chuyên dùng.
Xăng dầu là một loại sản phẩm rất dễ bị hao hụt trong quá trình vận chuyển,
lưu kho và kinh doanh. Do đó, trong hoạt động sản xuất kinh doanh cần phải tính
toán đường vận động của xăng dầu và có biện pháp hợp lý nhằm hạn chế tối đa mức
hao hụt.
Xăng dầu là mặt hàng rất dễ bị giảm hoặc mất phẩm chất. Xăng dầu kém
phẩm chất sẽ ảnh hưởng đến quá trình kích nổ và phá huỷ động cơ. Việc kinh doanh
xăng dầu kém phẩm chất sẽ gây ra tác hại lan truyền và trực tiếp phá huỷ năng lực
sản xuất, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống xã hội. Vì vậy, đòi
hỏi quy trình nhập, xuất, phương tiện tồn chứa, loại hình và phương tiện vận tải, kỹ
thuật bảo quản xăng dầu phải được nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng và có những giải
pháp về kỹ thuật, tổ chức quản lý trong quá trình kinh doanh xăng dầu.
Xăng dầu là một loại hoá chất độc hại đối với con người, là một hợp chất có
phản ứng hoá học mạnh, thường gây nên ô nhiễm môi trường. Vì vậy, quá trình
kinh doanh xăng dầu phải đặc biệt chú ý đến việc bảo vệ môi trường và cần phải có
các biện pháp phù hợp để hạn chế tối đa tác động tới môi trường.
Vai trò của xăng dầu được thể hiện ở những khía cạnh
- Đối với kinh tế
+ Xăng dầu là đầu vào quan trọng cho nhiều ngành sản xuất - kinh doanh
Muy-lơ đvanh-xi, nhà nghiên cứu xã hội Pháp đã nhận xét: “Thế kỷ XX nếu
không có dầu mỏ không ai có thể hình dung được diện mạo của thế giới sẽ như thế
nào, chỉ cần ngừng dòng chảy xăng dầu, cả thế giới sẽ ngừng hoạt động” [14]. Có
thể thấy, nguyên - nhiên liệu là một yếu tố thiết yếu trong giá thành của sản xuất,
kinh doanh của nền kinh tế. Khi giá xăng dầu có sự biến động, sẽ tác động đến giá
cả của các sản phẩm có liên quan và kéo theo sự tác động của các sản phẩm này đến
các sản phẩm khác trong một chuỗi quan hệ kinh tế hàng hóa. Xăng dầu tác động
một cách toàn diện đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, từ nông nghiệp, công
nghiệp đến thương mại, dịch vụ. Sản xuất càng phát triển, mức độ chuyên môn hoá,
hợp tác hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ sẽ dẫn đến giao lưu về hàng hoá với mức
độ ngày càng lớn và phạm vi ngày càng được mở rộng mà hiện nay nguồn cung cấp
nhiên liệu cho các phương tiện vận tải phục vụ cho giao lưu hàng hóa chủ yếu là
xăng dầu.
+ Xăng dầu là hàng hóa có giá trị đóng góp vào GDP của nhiều quốc gia,
đặc biệt thông qua hoạt động xuất khẩu
Từ khi dầu mỏ xuất hiện đã làm đảo lộn trật tự kinh tế thế giới, một số quốc
gia nghèo khó bỗng chốc trở nên giàu có nhờ nguồn dầu mỏ dồi dào dưới lòng đất
và ngoài khơi. C. Max từng cho rằng sự ra đời đầu máy hơi nước là mốc quan trọng
trong Cách mạng công nghiệp của thế kỷ XVII, tuy nhiên sự phát triển của công
nghiệp cơ khí, cơ khí hoá và điện khí hoá, theo Lenin, vai trò quyết định lại là dầu
mỏ. Thậm chí một số nhà kinh tế học thế giới đã đưa ra tiêu chí mức tiêu thụ xăng
dầu của mỗi nước làm căn cứ đánh giá trình độ phát triển đi lên của nền kinh tế theo
chiều hướng công nghiệp hoá.
- Đối với đời sống xã hội
Xăng dầu là loại nhiên liệu dùng cho các phương tiện giao thông vận tải, đi lại
hàng ngày mà hiện tại khó có thể thay thế được mặc dù hiện nay đã có những
nghiên cứu, phát minh, sáng chế ra phương tiện ứng dụng các công nghệ sử dụng
năng lượng sạch thay thế xăng dầu như năng lượng mặt trời, pin nhiên liệu,... nhưng
số lượng các phương tiện này là không đáng kể. Bên cạnh đó, chi phí cho việc đầu
tư, phát triển các công nghệ ứng dụng nhiên liệu sạch thường đòi hỏi nguồn vốn rất
lớn và nhiều doanh nghiệp vẫn không đủ khả năng để phát triển theo hướng này.
Hiện tại, do vai trò cực kỳ quan trọng của xăng dầu đối với kinh tế và đời sống xã
hội nên lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ảnh hưởng rất lớn đến hầu như tất cả các
ngành, nghề kinh doanh khác và từ đó, tác động đến mọi khía cạnh của đời sống xã
hội.
- Đối với chính trị
Xăng dầu chính là nguyên nhân sâu xa của rất nhiều cuộc nội chiến, chiến
tranh xâm lược hoặc căng thẳng, tranh chấp giữa các quốc gia trên thế giới. Đặc
biệt, trong vài thập niên trở lại đây, khi mà dầu mỏ đóng một vai trò đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế và đời sống xã hội của thế giới thì kéo theo đó là
các cuộc chiến giữa các quốc gia với nhau nhằm tranh giành sự kiểm soát đối với
nguồn dầu mỏ.
- Đối với an ninh quốc phòng
Xăng dầu không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế và đời
sống của nhân dân mà nó còn đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực an ninh, quốc
phòng. Song song với việc trang bị các máy móc, thiết bị, khí tài thì việc cung cấp
xăng dầu, nguồn nhiên liệu chính để vận hành các phương tiện, thiết bị này cũng vô
cùng quan trọng. Xăng dầu là yếu tố bảo đảm việc phát huy sức mạnh chiến đấu và
khả năng phòng thủ bảo vệ đất nước. Trong thời chiến, phần lớn các xe tăng, máy
bay, tàu chiến,... không thể hoạt động nếu không có xăng dầu. Trong thời bình, xăng
dầu vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo dưỡng thiết bị, khí tài và luyện tập
sẵn sàng chiến đấu. Hầu như tất cả các quốc gia đều xác lập một cơ chế bảo đảm và
cung cấp xăng dầu riêng cho lĩnh vực an ninh, quốc phòng.
Tóm lại, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, xăng dầu giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng vì xăng dầu là yếu tố đầu vào quan trọng và là nguyên, nhiên
liệu chưa thể thay thế được của sản xuất; xăng dầu là năng lượng phục vụ dân sinh
và an ninh, quốc phòng [9, tr. 12]. Xăng dầu không chỉ là yếu tố bảo đảm cho các
hoạt động sản xuất và đời sống được tiến hành bình thường mà còn tham gia vào
việc tạo ra giá trị xã hội làm cho đời sống xã hội ngày càng được cải thiện. Dầu mỏ
nói chung và xăng dầu nói riêng từ khi xuất hiện cho đến ngày nay và cả nhiều năm
tiếp theo đã và sẽ còn là một sản phẩm chiến lược hàng đầu của các quốc gia. Do
đó, các quốc gia đều có chính sách, chiến lược và các biện pháp quản lý sản xuất,
kinh doanh và dự trữ xăng dầu.
1.1.2. Khái niệm kinh doanh xăng dầu
“Kinh doanh” là thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến trong đời sống kinh tế
của các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Kinh doanh được giải thích trong
Luật Công ty năm 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 là các hoạt động
nhằm tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua, bán hàng hóa. Theo cách hiểu này thì
kinh doanh đồng nhất với khái niệm về thương mại được nêu trong Luật Thương
mại Việt Nam năm 1997.
Đến năm 1999, khái niệm “kinh doanh” một lần nữa được nhắc lại trong Luật
Doanh nghiệp như sau: “Kinh doanh được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” [19]. Theo đó, kinh
doanh bao hàm cả các hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa, các hoạt động sản xuất,
gia công, đầu tư hay các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi. Cách hiểu này khá
tương đồng với khái niệm thương mại được nêu ra trong Luật Thương mại sửa đổi
năm 2005 khi quy định hoạt động thương mại “là hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục tiêu sinh lợi khác” [21]. Như vậy, hiện nay khái niệm kinh
doanh được hiểu như là hoạt động thương mại theo nghĩa rộng. Đây cũng là cách
hiểu phổ biến của các quốc gia trên thế giới về hoạt động thương mại.
Năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh
xăng dầu, theo đó, kinh doanh xăng dầu bao gồm các hoạt động sau: Xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu, gia công xuất nhập khẩu xăng dầu
nguyên liệu, sản xuất và pha chế xăng dầu; phân phối xăng dầu tại thị trường trong
nước; dịch vụ cho thuê kho, cảng, bảo quản, vận chuyển xăng dầu [4].
Nghị định 83/2014/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, cơ bản
cũng không khác biệt nội dung so với Nghị định 84/2009/NĐ-CP. Theo đó, khái
niệm về kinh doanh xăng dầu bao gồm các hoạt động [5] “Xuất khẩu (xăng dầu,
nguyên liệu sản xuất trong nước và xăng dầu, nguyên liệu có nguồn gốc nhập
khẩu), nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gia công xuất khẩu xăng dầu,
nguyên liệu; sản xuất và pha chế xăng dầu; phân phối xăng dầu tại thị trường trong
nước; dịch vụ cho thuê kho, cảng, tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển xăng dầu”.
Theo định nghĩa như trên, có thể phân chia hoạt động kinh doanh xăng dầu
thành các hình thức kinh doanh: Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu; Sản
xuất, pha chế xăng dầu; Phân phối xăng dầu; Tổng đại lý kinh doanh xăng dầu; Đại
lý bán lẻ xăng dầu; Nhận quyền bán lẻ xăng dầu; Cửa hàng bán lẻ xăng dầu; Kinh
doanh dịch vụ xăng dầu bao gồm: kinh doanh dịch vụ cho thuê cảng, kho tiếp nhận
xăng dầu và kinh doanh dịch vụ vận tải xăng dầu. Ngoài ra, có thể phân chia hoạt
động kinh doanh xăng dầu thành các nhóm như sau: nhóm hoạt động gia công, sản
xuất; nhóm hoạt động thương mại quốc tế (xuất nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất,
chuyển khẩu); nhóm hoạt động thương mại nội địa (phân phối sản phẩm, cung cấp
các dịch vụ liên quan); nhóm hoạt động đầu tư trong nước và quốc tế. Các hoạt
động này, để được xem là hoạt động kinh doanh khi và chỉ khi được thực hiện với
mục đích lợi nhuận.
1.1.3. Điều kiện kinh doanh xăng dầu
Hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật
Đầu tư năm 2014 đã được xây dựng với phương thức tiếp cận theo hướng đơn giản
hóa điều kiện và thủ tục đăng ký kinh doanh, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của
quy định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết, tự chủ trong hoạt động của doanh
nghiệp. Tại khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định doanh nghiệp có
quyền được “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm” [22].
Quyền tự do kinh doanh được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiện hành cho
phép doanh nghiệp được quyền lựa chọn để kinh doanh tất cả các ngành, nghề; trừ
một số ngành, nghề có ảnh hưởng xấu đến an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã
hội, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục được liệt kê trong danh mục ngành nghề
cấm kinh doanh.
Một số ngành, nghề liên quan đến môi trường, trật tự an toàn xã hội hoặc cần
phải tuân thủ những quy tắc nghề nghiệp chặt chẽ. Đối với những ngành, nghề đó,
pháp luật không cấm hoặc cản trở kinh doanh nhưng nhà nước kiểm soát chủ thể
kinh doanh bằng cách buộc họ phải đáp ứng một số điều kiện kinh doanh nhất định.
Để làm rõ khái niệm điều kiện kinh doanh, trước hết cần giải thích thuật ngữ “điều
kiện”. Theo Từ điển Tiếng Việt, điều kiện là “cái cần phải có để cho một cái khác
có thể có hoặc có thể xảy ra” [16, tr. 383]. Điều kiện chính là yếu tố tiên quyết,
mang tính quyết định đối với sự xuất hiện của một sự vật, sự việc nào đó.
Thuật ngữ điều kiện kinh doanh như là đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh
nghiệp năm 2005 được giải thích ở khoản 2 Điều 7 của đạo luật này. Theo đó,
- Xem thêm -