Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của pháp luật dân sư...

Tài liệu điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của pháp luật dân sự việt nam tt

.PDF
29
200
141

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI HOÀNG THỊ LOAN ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự Mã số: 9 38 01 03 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC Hà Nội - 2019 Công trình được hoàn thành tại: Đại học Luật Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Phạm Văn Tuyết 2. TS. Hoàng Thị Thuý Hằng Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh PGS.TS Phan Hữu Thư TS. Đinh Trung Tụng Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp Trường tại Trường Đại học Luật Hà Nội vào hồi … giờ … ngày … tháng … năm … Có thể tìm Luận án tại: 1. Thư viện quốc gia 2. Thư viện Trường Đại học Luật Hà Nội 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người là thực thể xã hội, đồng thời là thực thể sinh học mà sự sống, cái chết của họ luôn chịu tác động bởi quy luật tự nhiên. Cái chết làm chấm dứt sự tồn tại con người sinh học đồng thời làm chấm dứt năng lực chủ thể của chính họ trong mọi quan hệ pháp lý. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của quan hệ thừa kế, cái chết xảy đến với con người không làm chấm dứt tất cả các quan hệ xã hội mà họ tham gia, đặc biệt là các quan hệ về tài sản bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ với các chủ thể khác. Bởi sự tồn tại của các quan hệ này phụ thuộc vào sự vận động của các quy luật kinh tế - xã hội. Khi còn sống, con người tham gia hoạt động lao động tìm kiếm hoặc tạo ra của cải, vật chất nhằm phục vụ nhu cầu của bản thân, cộng đồng và xã hội. Đối với của cải, vật chất dư thừa, con người có xu hướng dự trữ, tích lũy. Khi chết đi, của cải vật chất đó sẽ tiếp tục được dịch chuyển cho những người còn sống khác. Pháp luật đảm bảo quá trình dịch chuyển này thông qua hai trình tự thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Trong đó, trình tự phân chia di sản thừa kế theo di chúc xuất hiện muộn hơn thừa kế theo pháp luật nhưng được áp dụng rộng rãi hơn. Cũng xuất phát từ nhận thức về quyền tự định đoạt của cá nhân tăng lên nên xu hướng lập di chúc để định đoạt tài sản trước khi chết ngày càng nhiều. Tuy nhiên, để lại và hưởng di sản thừa kế theo di chúc ngay từ thời kì đầu cũng đã rất khó khăn và phức tạp. Mọi sự đều tuân theo quy định của pháp luật về bản di chúc. Những điều kiện mà pháp luật đặt ra để bản di chúc có được giá trị pháp lý cũng bắt đầu được ghi nhận. Điều này cho phép NCS khẳng định các quy định về điều kiện để di chúc hợp pháp cũng là một trong các ghi nhận thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh quan hệ thừa kế. Tại Việt Nam, trước khi có BLDS năm 2015, quy định về di chúc và các điều kiện có hiệu lực của di chúc đã được ghi nhận, đồng thời được định hình thông qua điều kiện để di chúc hợp pháp, điều kiện để di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật và điều kiện để di chúc được thi hành. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc có nhiều sự thay đổi mang tính phù hợp với sự phát triển toàn diện của xã hội hơn. Tuy nhiên: (i) Hầu hết các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc đang được ghi nhận tại BLDS năm 2015 đều được kế thừa từ các văn bản quy phạm trước đó. Cho nên, những hạn chế, bất cập, thiếu sót của các quy định này vẫn tồn tại và gây ra nhiều “nhức nhối” trong hoạt động nghiên cứu cũng như hoạt động xét xử; (ii) Sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội đã tác động mạnh mẽ tới nhận thức, hành vi của con người, kéo theo sự thay đổi trong quan hệ thừa kế, đặc biệt thừa kế theo di chúc. Dẫn đến, nhiều quy định không còn phù hợp với thực tế. Cơ quan tiến hành tố tụng nhận định, tranh chấp thừa kế ở nước ta được xem là loại án dân sự phổ biến, phức tạp, có những vụ án tranh chấp kéo dài hàng chục năm. Nguyên 2 nhân quan trọng dẫn đến tranh chấp thừa kế phức tạp bởi vì đây là quan hệ tranh chấp đặc thù, thường xảy ra giữa những người thân thích có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với nhau; sự thiếu thống nhất trong việc áp dụng quy định của pháp luật để đưa ra phán quyết; sự ảnh hưởng của các giá trị truyền thống về văn hoá, đạo lý trong gia đình hay khi giải quyết tranh chấp thừa kế… Trong các tranh chấp đó, số lượng các tranh chấp liên quan đến di chúc cũng ngày càng nhiều lên. Vấn đề này xuất phát từ: (i) sự chưa rõ ràng và thiếu sót của các quy định liên quan đến điều kiện để di chúc hợp pháp; (ii) quy định của pháp luật về các điều kiện để di chúc phát sinh hiệu lực thi hành cũng chưa bao quát được tất cả các trường hợp phát sinh ngày càng đa dạng trong thực tế xã hội; (iii) nhận thức của người dân về di chúc, việc lập di chúc cũng như quyền, nghĩa vụ của chủ thể trong quan hệ thừa kế tăng lên nhưng chưa thực sự đầy đủ và toàn diện. Nghiên cứu BLDS của một số quốc gia trên thế giới và các công trình khoa học có liên quan cho thấy, vấn đề lý luận chuyên sâu đối với các điều kiện có hiệu lực của di chúc chưa được nghiên cứu một cách toàn diện. Đặc biệt cơ sở lý luận cho việc ghi nhận các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo pháp luật Việt Nam cũng chưa được đề cập trong bất cứ công trình nào trước đó. Trong thực tiễn của hoạt động áp dụng quy định pháp luật để giải quyết tranh chấp còn gặp nhiều vướng mắc, mâu thuẫn. Mà nguyên nhân lớn nhất do thiếu thống nhất trong cách hiểu và áp dụng quy định của pháp luật để tuyên bố di chúc không hợp pháp hoặc không có hiệu lực pháp luật. Trước thực tế đòi hỏi của xã hội ngày nay, việc nghiên cứu làm rõ lý luận và đánh giá thực trạng, thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc là một yêu cầu cần thiết. Chính vì vậy, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định pháp luật dân sự Việt Nam” sẽ có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. 2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Phạm vi nghiên cứu được giới hạn bởi hai phần: Thứ nhất, về phạm vi không gian nghiên cứu: Một là, luận án tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam; Hai là, trong quá trình nghiên cứu PLDS của Việt Nam về điều kiện có hiệu lực của di chúc, NCS sẽ lồng ghép, so sánh với pháp luật của một số quốc gia khác trên thế giới như Pháp, Nhật, Thái Lan, Đức…Thứ hai, về phạm vi thời gian nghiên cứu: Một là, luận án tập trung vào các quy định của BLDS năm 2015 về điều kiện có hiệu lực của di chúc. Có kết nối với các văn bản trước đó. Hai là, luận án đề cập tới thực tiễn xét xử thông qua một số bản án có đã có hiệu lực (áp dụng luật hiện hành và các các văn bản trước đó). 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Việc nghiên cứu sẽ làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về di chúc, điều kiện có hiệu lực của di chúc. Đặc biệt, xây dựng khái niệm riêng về điều kiện có hiệu lực của di chúc, xác định cơ sở lý luận, thực tiễn của việc quy định các điều kiện có hiệu lực của di chúc. 3 Bên cạnh các vấn đề về lý luận, luận án còn làm rõ quy định của pháp luật hiện hành đặt trong sự phân tích, bình luận, đánh giá với văn bản quy phạm pháp luật thời kì trước về điều kiện có hiệu lực của di chúc. Đồng thời, nghiên cứu pháp luật một số quốc gia trên thế giới theo hướng so sánh nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam. Luận án được triển khai phần thực tiễn áp dụng với một số bản án đã có hiệu lực pháp luật để qua đó có cơ sở cho việc đánh giá hoạt động xét xử tranh chấp về thừa kế theo di chúc, việc áp dụng quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc. 4. Những đóng góp mới của việc nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài: “Điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định pháp luật dân sự Việt Nam” có thể mang đến những đóng góp mới sau đây: Thứ nhất, xác định bản chất của di chúc và điều kiện có hiệu lực của di chúc. Thứ hai, xác định cơ sở lý luận và thực tiễn đối với quy định về điều kiện có hiệu lực của di chúc. Thứ ba, xây dựng khái niệm và hệ thống hoá các nhóm điều kiện cấu thành điều kiện có hiệu lực của di chúc. Thứ tư, phân tích, bình luận quy định BLDS năm 2015 và quy định pháp luật trước đó về các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Qua đó, NCS đánh giá được ưu điểm, nhược điểm của từng điều kiện đặt trong bối cảnh nghiên cứu khoa học về luật thực định và thực tiễn áp dụng. Thứ năm, tại mỗi điều kiện có hiệu lực của di chúc, NCS có lồng ghép, đồng thời phân tích so sánh với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới nhằm chỉ ra những điểm hợp lý hay chưa hợp lý để định hướng hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam. Thứ sáu, đưa ra một số lượng án thực tiễn nhất định qua đó chỉ ra điểm ưu và hạn chế trong hoạt động xét xử khi áp dụng các điều kiện có hiệu lực của di chúc để giải quyết tranh chấp về thừa kế. Thứ bảy, trên cơ sở bình luận, đánh giá lồng ghép trong mỗi quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc, NCS có chỉ ra bất cập, hạn chế còn tồn đọng, đồng thời đưa ra kiến nghị đề xuất của bản thân nhằm hoàn thiện từng quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc. 5. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án bao gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về điều kiện có hiệu lực của di chúc Chương 2. Thực trạng quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện có hiệu lực của di chúc Chương 3. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc 4 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Thừa kế là chế định pháp lý thu hút nhiều sự quan tâm, nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn. Các vấn đề khác nhau của chế định này đều đã được nghiên cứu ít nhiều. Tuy nhiên, đối với quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc chỉ mới được triển khai ở một vài khía cạnh nhỏ lẻ hoặc mức độ, quy mô chưa thực sự lớn. Cụ thể: Những công trình có thể kể tới như: Luận án tiến sĩ của Phạm Văn Tuyết, Trần Thị Huệ, luận văn thạc sĩ của Trịnh Hữu Toản…, đề tài khoa học của Lê Đình Nghị hay nhiều bài tạp chí của Vương Tất Đức, Nguyễn Tiến Lực, Trần Văn Tuân, Trà My, Nguyễn Phương Hoa, Thái Công Khanh… hay sách của Nguyễn Minh Tuấn, Phùng Trung Tập, Tưởng Duy Lượng… Một số sách, công trình của nước ngoài như: Nakagawa jun và Ogawa tomiyuki, Bernard BEIGNIER, Sarah TORRICELLI-CHRIFI, Christian Jubault. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều nghiên cứu một cách nhỏ lẻ từng điều kiện có hiệu lực của di chúc. Có luận án Tiến sĩ luật học của Phạm Văn Tuyết có đề cập tới hầu hết các điều kiện có hiệu lực của di chúc nhưng không tập trung vào nội dung này mà tác giả dàn trải vấn đề nghiên cứu cho cả quá trình thừa kế theo di chúc. Luận văn Thạc sĩ luật học của Trịnh Hữu Toản cũng phân tích các điều kiện này một cách chi tiết nhưng dung lượng trang viết và thời gian nghiên cứu quá ít nên các vấn đề chưa đạt ở mức độ chuyên sâu. Hơn nữa chưa thể hiện được việc bình xét các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo một lộ trình thời gian từ khi cá nhân lập di chúc cho tới khi chết và bản di chúc được thực thi. Các vấn đề nghiên cứu của luận án, từng công trình khoa học đã công bố chưa đảm bảo được sự sâu sắc về khía cạnh nghiên cứu, bình xét về quy định của pháp luật và triệt để về giải pháp hoàn thiện, cụ thể: • Góc độ lý luận: - Về bản chất điều kiện có hiệu lực của di chúc: Chưa được công trình nào công bố. - Về khái niệm và đặc điểm điều kiện có hiệu lực của di chúc: Một vài công trình đưa ra khái niệm nhưng chưa chỉ ra dấu hiệu riêng biệt của điều kiện có hiệu lực của di chúc như: Luận văn thạc sĩ luật học của Trịnh Hữu Toản, hay luận văn thạc sĩ luật học của Lương Thị Hợp… - Về học thuyết, cơ sở cho việc ghi nhận các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Về học thuyết, chưa có công trình nào đề cập. Về cơ sở lý luận, thực tiễn, trong luận văn thạc sĩ của mình, Trịnh Hữu Toản có đề cập. Tuy nhiên, những gì tác giả này đề cập còn rất sơ sài, đơn giản chưa lột tả được bản chất của việc ghi nhận các điều kiện có hiệu 5 lực của di chúc trong quy định của pháp luật. - Khái niệm, đặc điểm các điều kiện có hiệu lực của di chúc: Một vài công trình có đề cập tới từng điều kiện riêng lẻ như: Cuốn sách của tác giả Phạm Văn Tuyết viết về người lập di chúc, nội dung của di chúc, yếu tố tự nguyện trong di chúc, hình thức của di chúc và các sự kiện gây mất hiệu lực của di chúc. Cuốn sách của tác giả Trịnh Khánh Phong viết về các điều kiện để di chúc hợp pháp nói chung. Cuốn sách của tác giả Phùng Trung Tập đề cập tới các yếu tố như ai, như thế nào, ngoại lệ ra sao đối với người lập di chúc. Hay luận văn thạc sĩ luật học của Lương Thị Hợp viết về nội dung của di chúc. Luận án Tiến sĩ luật học của Trần Thị Huệ đề cập một cách rất sâu sắc các vấn đề về di sản, cách xác định di sản thừa kế… Nhưng hầu hết các công trình không tập trung vào nghiên cứu cơ sở lý luận đối với việc ghi nhận từng điều kiện để di chúc có hiệu lực pháp luật. • Góc độ luật thực định: Nhiều công trình phân tích quy định của pháp luật qua các thời kì về điều kiện có hiệu lực của di chúc nhưng chưa có công trình nào khái quát được 03 nhóm điều kiện có hiệu lực của di chúc. Đồng thời, phân tích, bình luận, đánh giá 03 nhóm điều kiện này. • Góc độ thực tiễn áp dụng: Chưa có công trình nào nêu và đánh giá đầy đủ các nhóm điều kiện có hiệu lực của di chúc bằng các vụ án thực tiễn trên phạm vi toàn quốc. Từ thực trạng các vấn đề nêu trên, NCS tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống từ lý luận tới thực tiễn quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc. Từ đó, NCS đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc. Tình hình nghiên cứu này giúp NCS khẳng định, luận án của NCS có điểm mới so với các công trình đã nghiên cứu trước đó. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU CỦA DI CHÚC 1.1. Một số vấn đề lý luận về di chúc 1.1.1. Khái niệm về di chúc Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân thông qua văn bản hoặc lời nói để chuyển giao quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản; các quyền khác đối với tài sản cho người được thụ hưởng (bao gồm người thừa kế, người được di tặng, người hưởng quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt) cũng như thực hiện các quyền khác trước khi chết. 1.1.2. Các dấu hiệu đặc trưng của di chúc Thứ nhất, di chúc được xác lập thông qua hành vi pháp lý đơn phương. Thứ hai, di chúc thể hiện ý chí của cá nhân về việc chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Thứ ba, hiệu lực của di chúc chỉ có thể phát sinh khi chính người xác lập ra nó đã chết. Thứ tư, di chúc là một loại giao dịch trọng hình thức. 6 Thứ năm, di chúc hợp pháp có thể vẫn không có hiệu lực thi hành. 1.2. Khái niệm và đặc điểm điều kiện có hiệu lực của di chúc 1.2.1. Khái niệm điều kiện có hiệu lực của di chúc NCS cho rằng nói đến hiệu lực pháp luật của di chúc phải nói đến cả hai loại giá trị, trong đó giá trị pháp lý chính là sự thể hiện tính hợp pháp của một di chúc; giá trị thi hành là sự thể hiện khả năng thực hiện của di chúc trong thực tế. Vì vậy, có thể kết luận rằng: Hiệu lực pháp luật của di chúc là giá trị pháp lý ghi nhận quyền, nghĩa vụ của những người thừa kế theo di chúc và các chủ thể khác có liên quan, theo đó các chủ thể hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ theo ý chí của người để lại di sản đã được thể hiện trong di chúc. Theo khái niệm này, điều kiện có hiệu lực của di chúc là sự tổng hợp bởi ba nhóm điều kiện: Một là, điều kiện để di chúc hợp pháp. Hai là, điều kiện để di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật. Ba là, điều kiện để di chúc được thi hành. Bởi vì: - Muốn được bảo đảm và thực thi theo nguyện vọng của người để lại di sản, di chúc trước hết phải được pháp luật ghi nhận. Việc ghi nhận bản di chúc hợp pháp là điều kiện đầu tiên công nhận hiệu lực của bản di chúc. Theo đó, di chúc phải dựa trên thành quả của sự kết giao các yếu tố cấu thành bản di chúc bao gồm: Người lập di chúc có năng lực pháp luật, năng lực hành vi; nội dung di chúc không vi phạm điều cấm; người lập di chúc phải tự nguyện và hình thức tuân thủ quy định của luật. Do đó, NCS xác định điều kiện đầu tiên là điều kiện để di chúc hợp pháp và đây là những điều kiện pháp luật đặt ra nhằm xem xét tính đúng đắn, phù hợp, qua đó ghi nhận giá trị pháp lý của bản di chúc. - Để có được cơ sở ghi nhận quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ thừa kế theo di chúc, ngoài điều kiện về người lập di chúc chết, vấn đề về người thừa kế được chỉ định trong di chúc và di sản được định đoạt trong di chúc cũng phải xác định để đảm bảo việc phát sinh hiệu lực của bản di chúc. Do đó, chúng ta cần đặt ra loại điều kiện để di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật và đây là những yêu cầu khách quan mà pháp luật buộc một di chúc hợp pháp phải tuân thủ để qua đó tạo cơ sở pháp lý ghi nhận quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ thừa kế theo di chúc. - Việc góp phần xây dựng điều kiện có hiệu lực của di chúc ngoài điều kiện về tính hợp pháp của di chúc, phát sinh hiệu lực pháp luật, pháp luật cần phải ghi nhận điều kiện để đảm bảo các chủ thể hưởng quyền, thực hiện nghĩa vụ theo đúng ý chí của người để lại di sản đã thể hiện trong di chúc. Điều kiện này được xác định là yêu cầu được đặt ra để di chúc được thi hành trên thực tế. Bằng việc chỉ ra bản chất của thuật ngữ “hiệu lực pháp luật của di chúc” và ba nhóm điều kiện đã phân tích ở trên, NCS khẳng định: Việc ghi nhận điều kiện có hiệu lực của di chúc phải được xem xét dựa trên lộ trình về mặt thời gian từ thời điểm lập di chúc cho tới thời điểm phân chia di sản. Lộ trình này gắn liền với ba mốc thời điểm cùng các sự kiện cần thiết phải xem xét tại các thời điểm đó bao gồm: Một là, thời điểm lập 7 di chúc. Ghi nhận việc lập di chúc của cá nhân phải thoả mãn các điều kiện để di chúc hợp pháp. Hai là, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật. Ghi nhận các điều kiện để di chúc được phát sinh hiệu lực. Ba là, di chúc được thi hành. Ghi nhận các điều kiện để di chúc được thực hiện theo ý nguyện của người lập di chúc. Theo đó, điều kiện có hiệu lực của di chúc cần được hiểu là những quy định mà pháp luật đặt ra nhằm xem xét tính đúng đắn, phù hợp đối với mong muốn của cá nhân về việc dịch chuyển tài sản của mình sau khi chết, quá trình trình dịch chuyển khi sự kiện thừa kế diễn ra dựa trên cơ sở ghi nhận tính hợp pháp, hiệu lực phát sinh và hiệu lực thi hành của bản di chúc. 1.2.2. Đặc điểm điều kiện có hiệu lực của di chúc Đặc tính chung giống với điều kiện có hiệu lực của giao dịch bao gồm: (i) Là sự tác động của pháp luật tới ý chí của người để lại di sản khi họ lập di chúc. (ii) Bảo đảm di chúc luôn thể hiện ý chí tự nguyện của người để lại di sản. (iii) Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. (iv) Bảo đảm sự ổn định của các quan hệ dân sự. Đặc điểm riêng của điều kiện có hiệu lực của di chúc bao gồm: (i) Do pháp luật quy định tính từ thời điểm người để lại di sản lập di chúc cho đến khi di chúc được thi hành; (ii) Người lập di chúc chết là mốc thời điểm quan trọng khởi phát xác định các yêu cầu đối với bản di chúc; (iii) Điều kiện có hiệu lực của di chúc nghiêm ngặt hơn so với điều kiện có hiệu lực của giao dịch. 1.3. Cơ sở khoa học cho việc ghi nhận điều kiện có hiệu lực của di chúc Từng quy định mà pháp luật đã ghi nhận đều được xây dựng dựa trên cở sở khoa học về thực tiễn và lý luận mà nền tảng là các học thuyết khoa học, điều kiện có hiệu lực của di chúc cũng như vậy. • Cơ sở thực tiễn: Một là, nhu cầu và khả năng nhận thức của cá nhân. Hai là, sự dịch chuyển tài sản trong thừa kế. Ba là, sự điều tiết tất yếu của Nhà nước bằng pháp luật đối với những hành vi ứng xử nhất định của con người. Nhìn chung, xuất phát từ thực tiễn của quá trình lao động, sản xuất tạo ra của cải vật chất của con người. Sự tích luỹ, dư thừa kèm theo nhu cầu, nhận thức về quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản trước quy luật sinh tử tạo ra hành vi lập di chúc nhằm thoả mãn lợi ích của việc dịch chuyển di sản sau khi chết đi. Đứng trước việc thiết lập cơ chế để thực hiện nhu cầu này của cá nhân và sự hài hoà lợi ích của các chủ thể khác trong quan hệ thừa kế, pháp luật buộc phải điều tiết hành vi lập di chúc bằng việc đặt ra các yêu cầu đối với bản di chúc để qua đó ghi nhận hiệu lực của di chúc. Tất cả đều là cở sở thực tiễn cho việc ghi nhận điều kiện có hiệu lực của di chúc. • Cơ sở lý luận: (i) Học thuyết về quyền tự nhiên của con người: Với việc xác định, mong muốn định đoạt tài sản của cá nhân như thế nào sau khi chết là một trong những giá trị lợi ích tinh 8 thần mang yếu tố tự nhiên thuần túy gắn với chính cá nhân đó. Quan điểm lập pháp của Việt Nam qua các thời kì ghi nhận quyền lập di chúc cho cá nhân như một loại quyền tự nhiên cần thiết phải tôn trọng và bảo đảm thực hiện. (ii) Học thuyết về tự do ý chí của cá nhân: Học thuyết này được xây dựng trên cơ sở sự ghi nhận khả năng của một người trong việc hành động với những kế hoạch mà bản thân đã đề ra, không bị can thiệp bởi bất cứ yếu tố nào khác. Góc nhìn này cho thấy rõ, pháp luật được xây dựng và hoàn thiện luôn dựa vào các học thuyết cụ thể. Sự tự do về ý chí của con người là những mong muốn bên trong không giới hạn, khi được thể hiện ra bên ngoài luôn kèm theo mục đích của sự hiện thực hoá. Sẽ trở nên vô nghĩa nếu pháp luật không được xây dựng để bảo vệ những mong muốn đó của con người. Học thuyết này chi phối cho việc ghi nhận các điều kiện có hiệu lực của di chúc phải đảm bảo là một lộ trình về mặt thời gian từ khi xác lập di chúc, ghi nhận hiệu lực và hiện thực hoá mong muốn cuối cùng của người để lại di sản. (iii) Dựa trên học thuyết về nhà nước và pháp luật: Học thuyết khoa học về Nhà nước và pháp luật cho thấy vai trò của Nhà nước trong việc điều chỉnh và quản lý xã hội, theo đó, bằng pháp luật, Nhà nước ghi nhận và bảo đảm các quyền, lợi ích của từng cá nhân trên cơ sở cân bằng hài hòa giữa lợi ích riêng của cá nhân với trật tự, lợi ích chung của cộng đồng và lợi ích của chủ thể khác có liên quan. Sự “can thiệp” của Nhà nước vào việc lập di chúc của cá nhân nhằm bảo đảm: Hiện thực hoá lợi ích tinh thần, mong muốn chuyển dịch tài sản của cá nhân sau khi chết; hài hòa giữa quyền lợi tư với trật tự, lợi ích công. Điều này thể hiện ở chỗ, Nhà nước ghi nhận quyền lập di chúc, sự tự do về mặt ý chí khi xác lập di chúc và các điều kiện phát luật đặt ra để đảm bảo trật tự, ổn định xã hội khi thực hiện quá trình lập di chúc và phân định di sản thừa kế theo di chúc. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Thứ nhất, dựa vào việc đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, kinh nghiệm của việc nghiên cứu các quan hệ xã hội, các quan điểm khoa học trong hệ thống lý luận của các nhà lý luận, tác giả đã chỉ ra những vấn đề lý luận về di chúc, các dấu hiệu đặc trưng của di chúc. Thứ hai, NCS chỉ ra vấn đề lý luận về điều kiện có hiệu lực của di chúc thông qua việc giúp: (i) nhận diện các điều kiện có hiệu lực của di chúc, căn nguyên của việc ghi nhận các nhóm điều kiện có hiệu lực của di chúc; (ii) xác định tính phổ quát và riêng biệt đối với các điều kiện có hiệu lực của di chúc. Thứ ba, bằng việc nghiên cứu các học thuyết khác nhau khi xây dựng từng quy định của pháp luật, NCS đã xác định cơ sở khoa học cho việc ghi nhận các điều kiện có hiệu lực của di chúc; Chương 2 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC 2.1. Điều kiện để di chúc hợp pháp 2.1.1. Quy định của pháp luật về người lập di chúc 9 Theo quy định tại khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015, hai nhóm cá nhân được luật cho phép thực hiện quyền lập di chúc bao gồm: (i) Người thành niên minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”; (ii) Người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Rõ ràng theo sự ghi nhận này, người lập di chúc và người xác lập giao dịch nói chung đã được khoanh vùng và xác định theo phạm vi khác nhau. Sự cụ thể hoá quy định về người lập di chúc theo quy định pháp luật hiện hành được xem xét dựa trên một số khía cạnh sau: 2.1.1.1. Về độ tuổi - Người thành niên được xác định là người từ đủ mười tám tuổi trở lên: Pháp luật Việt Nam từ thời kì phong kiến cũng đã ghi nhận rằng “người làm cha, mẹ phải liệu tuổi già mà lập sẵn chúc thư…” hay Pháp luật thời kì Pháp đô hộ cũng quy định: “Người nào đã thành niên hoặc đã thoát quyền mà có đủ trí khôn thì đều có tư cách được di chúc và lập ra di chúc để xử trí về tất cả tài sản của mình”. Cho tới thời kì độc lập, quy định về độ tuổi của người lập di chúc càng được thể hiện rõ nét trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng điểm chung của tất cả các văn bản này đều giống nhau ở chỗ ghi nhận độ tuổi để một cá nhân được quyền lập di chúc là mười tám tuổi. Về vấn đề này, NCS nhận thấy điểm tương đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia trên thế giới trong việc ghi nhận cá nhân được thực hiện quyền lập di chúc trên thực tế khi đạt độ tuổi nhất định. Đơn cử như Điều 903 BLDS Pháp quy định: “Người chưa thành niên dưới mười sáu tuổi không có quyền định đoạt”. Hay Điều 961 BLDS Nhật Bản quy định: “Bất kì người nào tròn mười lăm tuổi đều có thể lập di chúc”… Hay Điều 467 BLDS Thụy Sĩ quy định: “Bất kì người nào có khả năng nhận thức và đủ mười tám tuổi có quyền lập di chúc định đoạt tài sản của mình phù hợp với giới hạn và hình thức theo quy định của pháp luật”. - Ngoài việc ghi nhận cho cá nhân đủ mười tám tuổi trở lên được lập di chúc, BLDS năm 2015 cũng quy định cho phép người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi thực hiện quyền lập di chúc nhưng phải có sự đồng ý cho lập di chúc của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Cơ sở để ghi nhận vấn đề này là: (i) Độ tuổi bắt đầu được ghi nhận khả năng lao động và tạo ra thu nhập; (ii) Sự phát triển về thể chất, nhận thức và khả năng điều khiển hành vi cơ bản giống như người đã thành niên; (iii) Việc uỷ quyền định đoạt trong di chúc là không thể vì không có ý nghĩa. 2.1.1.2. Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi Với góc nhìn trên về nhận thức, cá nhân muốn đạt được những suy nghĩ sâu sắc của mình khi gắn kết chính lợi ích của mình thông qua các hoạt động cụ thể. Hoặc đặt ra các quyền lợi và nghĩa vụ cho các chủ thể khác thông qua các hoạt động định đoạt tài sản của bản thân mình phải trải qua khoảng thời gian nhất định. Điều này cho thấy, khi gắn kết thời gian với con người, độ tuổi là thuật ngữ phù hợp để mô tả sự việc này. Do đó, 10 việc lập di chúc luôn cần phải đảm bảo được yếu tố độ tuổi để khẳng định bước đầu có sự trưởng thành về nhận thức. Cũng từ đó, việc thực hiện các hành vi trên cơ sở nhận thức sẽ được đảm bảo được tính đúng đắn, trung thực, khách quan. Thực tế cho thấy, việc một người đạt độ tuổi trưởng thành chưa hẳn đã là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Hơn nữa, di chúc là loại giao dịch đặc thù chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc chết. Cho nên, ngoài điều kiện độ tuổi, người lập di chúc phải đảm bảo sự minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, cưỡng ép, đe doạ trong khi lập di chúc. Theo quy định này, điều kiện đặt ra cho từng đối tượng lập di chúc như sau: Thứ nhất, đối với người thành niên được quyền lập di chúc nhưng phải thỏa mãn điều kiện minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, cưỡng ép và đe dọa. Thứ hai, đối với người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi. Sự hình thành bản di chúc của chủ thể này trên thực tế hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của cha, mẹ hoặc người giám hộ có đồng ý cho họ lập di chúc hay không. Ở quy định này, chúng ta có thể hiểu rằng trách nhiệm của người làm cha, mẹ hoặc giám hộ cũng được xác định gián tiếp trong việc đánh giá khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con họ hay người được giám hộ. Thứ ba, đối với người mất năng lực hành vi dân sự không được lập di chúc, người hạn chế năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi vẫn được quyền lập di chúc. Bên cạnh những ưu điểm mang lại cho nhà nước, người lập di chúc, người thừa kế khác, quy định về người lập di chúc còn tồn tại một số bất cập sau: Một là, chưa ghi nhận một cách cụ thể năng lực pháp luật của người lập di chúc; Hai là, quy định về sự đồng ý cho lập di chúc của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với di chúc của người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi chưa thực sự rõ ràng; Ba là, chưa quy định cụ thể về quyền lập di chúc của người dưới 15 tuổi; Bốn là, cách đặt điều kiện minh mẫn, sáng suốt cho người lập di chúc chưa thực sự logic và khoa học; Năm là, cách thức sử dụng từ ngữ thiếu tính thống nhất dẫn tới nhầm lẫn hoặc mâu thuẫn trong hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật. 2.1.2. Quy định của pháp luật về nội dung của di chúc Nội dung của di chúc được hiểu là tổng hợp các điều khoản thể hiện ý chí của cá nhân để lại di sản. Do đó, di chúc muốn hợp pháp phải tuân thủ quy định của pháp luật về nội dung của di chúc. Điều kiện về nội dung của di chúc được cụ thể ở hai vấn đề sau: 2.1.2.1. Điều kiện để nội dung của di chúc được coi là hợp pháp • Có nội dung không vi phạm điều cấm của luật Điều kiện nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật cần hiểu theo hướng các điều khoản tổng hợp ý chí của người lập di chúc không rơi vào các trường hợp cấm được liệt kê trong các văn bản luật cụ thể. • Có nội dung không trái đạo đức xã hội Xét về bản chất, đạo đức xã hội là yếu tố khó định lượng, nó không tồn tại giống quy định của pháp luật. Trong khoa học pháp lý và khoa học ứng dụng pháp lý chưa cho thấy 11 sự độc lập trong việc xác định nội dung của di chúc trái đạo đức xã hội mà không vi phạm quy định của pháp luật. Điều này được giải thích rằng, quy định pháp luật của một quốc gia luôn phản ánh rõ nét kinh tế, chịnh trị, văn hóa, truyền thống... của quốc gia đó. Cho nên, các quy định của pháp luật Việt Nam hầu hết phản ánh được sự phù hợp về đạo đức xã hội của người Việt. Do vậy, khi tuyên một bản di chúc có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật nó cũng sẽ trái đạo đức xã hội. 2.1.2.2. Nội dung cụ thể của di chúc Theo quy định tại Điều 631 BLDS năm 2015, các điều khoản nội dung của di chúc có thể kể đến như: • Các điều khoản chủ yếu của di chúc Thứ nhất, ngày, tháng, năm lập di chúc; thứ hai, họ, tên của người lập di chúc; thứ ba, nơi cư trú của người lập di chúc; thứ tư, họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; thứ năm, di sản để lại và nơi có di sản; thứ sáu, phân định di sản thừa kế trong di chúc. • Điều khoản mở rộng Khoản 2 Điều 631 BLDS năm 2015 quy định: “Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác”. Đây là điều khoản thể hiện rõ việc tự do lựa chọn các nội dung khác quy định bắt buộc từ pháp luật của người lập di chúc. • • Điều khoản sử dụng từ viết tắt, viết kí hiệu, đánh dấu số trang trong di chúc Nội dung của di chúc có đặt điều kiện Về nội dung di chúc có điều kiện. chúng ta phải đặt ra các yêu cầu sau đây cho chính điều kiện của di chúc: (i) Điều kiện trước tiên phải không vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội; (ii) điều kiện trong di chúc phải rõ ràng không gây nhầm lẫn; (iii) điều kiện đặt ra trong di chúc phải đảm bảo sự hài hoà giữa lợi ích mang lại và nghĩa vụ gắn liền với điều kiện áp dụng cho người thừa kế, trừ trường hợp người thừa kế tự nguyện. Điều quan trọng hơn cả, BLDS năm 2015 cần phải điều chỉnh mục di chúc có điều kiện để từ đó xây dựng hậu quả pháp lý rõ ràng cho nội dung này. 2.1.3. Quy định của pháp luật về yếu tố tự nguyện trong di chúc Điểm b khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015 quy định: “chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện” và điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 quy định: “người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”. Theo quy định này, yếu tố tự nguyện khi lập di chúc được xem xét bởi hai khía cạnh: Thứ nhất, di chúc được hình thành trong tình trạng người lập minh mẫn, sáng suốt: Thực tế, một cá nhân đạt độ tuổi thành niên theo quy định của mỗi quốc gia cũng chưa hẳn đã có được khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Theo logic này, ngay cả khi vừa đạt độ tuổi, vừa có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi cũng chưa chắc đảm bảo được việc, cá nhân đó tham gia vào quá trình lập di chúc có hoàn toàn minh mẫn và sáng suốt hay không. Chính vì vậy, pháp luật quy định điều kiện người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt để loại trừ các khả năng trên của cá nhân. 12 Thứ hai, di chúc được lập theo ý chí đích thực của người lập di chúc: Sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí là nét đặc thù làm nên yếu tố tự nguyện trong giao dịch. Việc xác lập di chúc cũng như vậy, ý chí của người lập là mong muốn của chính họ về việc định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi chết đi. Pháp luật tôn trọng quyền định đoạt đoạt của người lập di chúc và đảm bảo thực hiện ý nguyện này nếu được bày tỏ ra bên ngoài một cách đích thực. Với lý thuyết này, pháp luật quy định một trong các điều kiện để di chúc hợp pháp là: Người lập di chúc không bị lừa dối – tức việc nhận thức, điều khiển hành vi không bị xâm phạm bởi hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó. Hay không bị cưỡng ép, đe doạ - tức việc nhận thức, điều khiển hành vi không bị xâm phạm bởi hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình. 2.1.4. Quy định của pháp luật về hình thức di chúc 2.1.4.1. Di chúc miệng Di chúc miệng được hiểu là sự thể hiện ý chí của cá nhân thông qua lời nói phát tín hiệu âm thanh. Theo quy định tại Điều 629 BLDS năm 2015, việc một cá nhân muốn di chúc miệng phải thỏa mãn các điều kiện sau: Một là, tính mạng bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản. Hai là, sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ. Ba là, người lập di chúc miệng phải là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Ngoài ra, khi lập di chúc miệng muốn hợp pháp phải đảm bảo thêm các yêu cầu sau: (i) người di chúc miệng phải thể hiện ý chí cuối cùng trước mặt ít nhất hai người làm chứng; (ii) người làm chứng phải ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng; (iii) trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng. 2.1.4.2. Di chúc văn bản • Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: BLDS năm 2015 quy định đây là loại di chúc mà người lập phải tự tay viết, ký vào bản di chúc và nội dung vẫn phải đảm bảo đầy đủ quy định tại Điều 631 BLDS này. • Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: BLDS năm 2015 ghi nhận trường hợp cá nhân muốn ứng dụng phần mềm khoa học kĩ thuật không muốn viết mà đánh máy hoặc không tự mình viết, đánh máy mà muốn nhờ người khác viết, đánh máy thì điều kiện đặt ra có phần nghiêm ngặt hơn. Cụ thể: Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc 13 phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Và nội dung của bản di chúc vẫn phải đảm bảo quy định tại Điều 631 BLDS năm 2015. • Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực Việc công chứng hay chứng thực thuộc về quyền tự do lựa chọn của người lập di chúc. Đây là loại di chúc do công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực thực hiện. Ngoài các loại di chúc kể trên, BLDS năm 2015 còn quy định loại di chúc có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực tại Điều 638 như: Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó… Bên cạnh những ưu điểm đã mang lại, quy định về hình thức của di chúc vẫn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục, cụ thể: • Đối với di chúc miệng: Một là, khoảng thời gian sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ không có căn cứ. Hai là, điều kiện để di chúc miệng được coi là hợp pháp không thuyết phục. Cụ thể: Điều kiện về người làm chứng, việc ghi chép, điểm chỉ và công chứng, chứng thực chữ kí không phù hợp với thực tế. • Đối với di chúc bằng văn bản: Một là, thiếu loại di chúc trong sự liệt kê. Cụ thể: Thiếu loại di chúc có giá trị như công chứng, chứng thực và di chúc được lập vi bằng bởi Văn phòng Thừa phát lại. Hai là, di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 là quy định cứng nhắc. Ba là, quy định về di chúc bằng văn bản có người làm chứng chưa thực sự rõ ràng, có thể gây nhầm lẫn trong áp dụng, thực hiện. Bốn là, còn nhiều điểm chưa phù hợp về thủ tục lập di chúc bởi công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực. Năm là, thiếu cơ sở để thuyết phục việc ghi nhận các loại di chúc có giá trị như công chứng, chứng thực. Sáu là, cứng nhắc khi quy định việc sử dụng từ viết tắt hoặc kí hiệu trong di chúc. 2.2. Điều kiện để di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật 2.2.1. Quy định của pháp luật về người lập di chúc chết Đây là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế nói chung và hiệu lực của di chúc nói riêng. 2.2.1.1. Đối với di chúc do một người lập Di chúc do một người lập được hiểu là giao dịch hoàn toàn được xác lập dựa trên ý chí đơn phương của một cá nhân nhằm định đoạt tài sản của riêng mình cho người khác sau khi chết. Theo quy định khoản 1 Điều 611 và khoản 2 Điều 71 BLDS năm 2015, thời điểm di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật đối với di chúc do một cá nhân lập được xác định thông qua một trong hai trường hợp: Thứ nhất, thời điểm người có tài sản chết – cái chết tự nhiên; Thứ hai, thời điểm Toà án tuyên bố một người đã chết. 2.2.1.2. Đối với di chúc chung 14 Di chúc chung được hiểu là di chúc do hai người trở lên cùng nhau thể hiện ý chí chung, thống nhất với nhau định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi chết. BLDS năm 2015 bỏ nội dung di chúc chung của vợ chồng. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc cấm di chúc chung. Nếu thực tế có việc lập di chúc chung, hiệu lực của loại di chúc này được xác định theo 02 trường hợp như sau: (i) Trong số những người lập di chúc chung, có người chết trước và người chết sau thì phần nội dung di chúc định đoạt tài sản của người chết sẽ có hiệu lực pháp luật tại thời điểm họ chết; (ii) Khi tất cả những người lập di chúc cùng chết, toàn bộ di chúc sẽ có hiệu lực pháp luật. 2.2.2. Quy định của pháp luật về người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc còn sống, còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế Đây là một trong các điều kiện ảnh hưởng tới việc ghi nhận hiệu lực của bản di chúc. Người thừa kế được hiểu là chủ thể của quan hệ pháp luật về thừa kế, họ là người được chỉ định hưởng thừa kế trong di chúc hoặc thuộc các hàng thừa kế theo pháp luật của người chết. Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm dịch chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Cho nên, phạm vi người thừa kế theo di chúc được xác định có thể là chủ thể cá nhân hoặc không phải cá nhân. Theo đó, điều kiện cụ thể là: Đối với cá nhân được chỉ định hưởng di sản trong di chúc: Phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế; không được từ chối nhận di sản; không bị tước quyền hưởng di sản; Đối với cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng di sản trong di chúc: Phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Bên cạnh những điểm đã đạt được, quy định này vẫn còn tồn tại một số bất cập: Một là, chưa quy định một cách rõ ràng về điều kiện cá nhân phải sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế. Hai là, thiếu thống nhất trong việc ghi nhận chủ thể hưởng thừa kế không phải là cá nhân (khi thì sử dụng là cơ quan, tổ chức khi lại sử dụng chủ thể không phải cá nhân). Ba là, chưa có quy định pháp luật rõ ràng để giải quyết hậu quả pháp lý đối với trường hợp tổ chức lại, giải thể, phá sản, cải tổ pháp nhân. Bốn là, thiếu quy định về quyền từ chối và việc tước bỏ quyền thừa kế đối với chủ thể không phải là cá nhân. 2.2.3. Quy định của pháp luật về di sản thừa kế được định đoạt trong di chúc còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế Đối với phần di sản được định đoạt trong di chúc, khoản 3 Điều 643 BLDS năm 2015 đã quy định rất rõ ràng về giá trị hiệu lực của di chúc như sau: “Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực”. Theo quy định này, điều kiện đặt ra đối với di sản được định đoạt trong di chúc phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế mới góp phần tạo ra hiệu lực pháp luật của di chúc. Cụm từ “không còn” được hiểu là không có sự xuất hiện, không hiện hữu. Tức là, tài sản có thể rơi vào tình trạng như: Tiêu dùng hết, tiêu hủy, hủy hoại, đã được chuyển cho người khác hoặc chuyển đổi thành loại tài sản khác… Nếu tài sản ở thời điểm lập di chúc còn nhưng đến thời điểm người lập di chúc chết, tài sản rơi vào một trong các tình trạng nói 15 trên, hiệu lực của di chúc hoặc phần di chúc có liên quan sẽ bị mất hiệu lực. Do đó, để di chúc đảm bảo phát sinh hiệu lực pháp luật, một trong các điều kiện phải được xem xét đó là di sản phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Cơ sở để xác định di sản thừa kế là: (i) phải là tài sản; (ii) phải thuộc sở hữu của cá nhân đó tính tới thời điểm người này chết. Xoay quanh yêu cầu về sự tồn tại của pháp luật đối với di sản thừa kế được định đoạt trong di chúc, NCS còn nhận thấy chưa có quy định của pháp luật về sự thay đổi trạng thái của các loại di sản đã được định đoạt trong di chúc. Điều này có thể dẫn tới những thiếu sót, lúng túng khi áp dụng trong hoạt động thực tiễn cần phải hoàn thiện bổ sung. 2.3. Điều kiện để di chúc được thi hành 2.3.1. Quy định của pháp luật về điều kiện liên quan tới người thừa kế được chỉ định hưởng trong di chúc Điểm c Khoản 2 Điều 650 BLDS năm 2015 quy định các trường hợp chia thừa kế theo pháp luật xác định: “Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”. Theo quy định này, để di chúc được thực thi, điều kiện về người thừa kế phải thoả mãn: 2.3.1.1. Người thừa kế được chỉ định trong di chúc phải còn sống, còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế Điều kiện về người thừa kế vừa thuộc nhóm điều kiện để di chúc phát sinh hiệu lực vừa thuộc nhóm điều kiện để di chúc được thi hành. Như trên đã phân tích, để di phát sinh hiệu lực pháp luật, người thừa kế được chỉ định trong di chúc buộc phải còn sống, còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Đây cũng là điều kiện để di chúc được thi hành vì điểm c khoản 1 Điều 650 BLDS năm 2015 liệt kê trường hợp chia thừa kế theo pháp luật như sau: “Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”. 2.3.1.2. Người thừa kế không được từ chối quyền hưởng di sản thừa kế Tại điểm d, khoản 1 Điều 650 BLDS năm 2015 quy định một trong các trường hợp chia thừa kế theo luật được áp dụng khi: “Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”. Theo đó, người thừa kế trong di chúc được chỉ định hưởng nhưng sau đó lại từ chối quyền hưởng di sản thì phần di sản này sẽ phân chia theo pháp luật. Việc nhận hay từ chối nhận di sản là quyền của người thừa kế. Nên khi người thừa kế được chỉ định hưởng trong di chúc nhưng họ từ chối quyền hưởng di sản. Nội dung di chúc đó sẽ không phát sinh hiệu lực pháp luật. 2.3.1.3. Người thừa kế không bị tước quyền hưởng di sản thừa kế Đây là những trường hợp, người thừa kế thuộc diện thừa kế nhưng rơi vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 bị pháp luật tước quyền thừa kế. Như 16 điểm d, khoản 1 Điều 650 BLDS năm 2015 nêu trên đã quy định, người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng, phần nội dung di chúc này sẽ không có hiệu lực pháp luật. 2.3.2. Quy định của pháp luật về điều kiện liên quan tới di sản được định đoạt trong di chúc Quy định của pháp luật đã thể hiện rõ, để di phát sinh hiệu lực pháp luật, di sản được định đoạt trong di chúc phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Cụ thể khoản 3 Điều 643 BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực”. Đồng thời, điểm b Khoản 2 Điều 650 BLDS năm 2015 quy định: “Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật” sẽ được chia theo pháp luật. Theo đó khẳng định, di chúc hợp pháp, người lập di chúc đã chết cũng chưa thể đảm bảo giá trị thực thi nếu di sản được định đoạt trong di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. 2.3.3. Quy định của pháp luật về bản di chúc Như đã đề cập, điều kiện có hiệu lực của di chúc là yêu cầu của pháp luật mà một di chúc muốn hợp pháp cần phải đáp ứng, đồng thời là những yêu cầu thực tế mà chỉ khi đáp ứng được yêu cầu thực tế đó, di chúc mới có thể thi hành. Do đó, khi đề cập tới điều kiện có hiệu lực của di chúc người ta không chỉ đề cập tới yêu cầu để di chúc hợp pháp, yêu cầu để di chúc phát sinh hiệu lực thi hành mà còn phải đề cập cả tới các yêu cầu đối với bản di chúc để đảm bảo tính thực thi trên thực tế. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp có di chúc, di chúc đảm bảo được các điều kiện để hợp pháp, để phát sinh hiệu lực nhưng không thể xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ thừa kế đó. Lý do có thể xuất phát từ nguyên nhân khác nhau, cụ thể: 2.3.3.1. Di chúc không bị thất lạc, không bị hư hại Thất lạc được hiểu là không tìm thấy, không xác định được đang ở đâu tại một thời điểm nhất định. Còn hư hại được hiểu là hỏng, bị hư tổn, thiệt hại không còn nguyên giá trị ban đầu. Khoản 1 Điều 642 BLDS năm 2015 quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật. Theo quy định này, bản di chúc có thể được lập hợp pháp, thoả mãn điều kiện để phát sinh hiệu lực pháp luật nhưng không tìm thấy vào thời điểm mở thừa kế, bị hư hỏng, thiệt hại đến mức không thể xác định được nội dung, ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có bản di chúc. Tức là, nội dung của di chúc sẽ không thể thực hiện được. Vì hiệu lực thi hành của bản di chúc bị ảnh hưởng khi di chúc bị thất lạc, hư hại cho nên, khi nghiên cứu quy định của pháp luật về vấn đề này, NCS nhận thấy vấn đề quản 17 lý, gửi giữ di chúc là rất quan trọng. Thực tế cho thấy, người giữ, quản lý di chúc thực sự có vai trò rất quan trọng, trong nhiều trường hợp tinh thần, thái độ của họ ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của những người thừa kế. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam gần như không xem xét tới hậu quả pháp lý của vấn đề gửi giữ di chúc. Đây là một bất cập cần phải xem xét, bổ sung, hoàn thiện. 2.3.3.2. Di chúc có nội dung rõ ràng Liên quan tới vấn đề này, BLDS qua các thời kì ở Việt Nam đều ghi nhận nguyên tắc về việc giải thích nội dung của giao dịch nói chung và di chúc nói riêng. Việc làm này được thực hiện khi: Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Với quy định này, bản di chúc sẽ không thể thực hiện được khi có nội dung không thể giải thích. Tóm lại, điều kiện có hiệu lực của di chúc luôn được xác định là yêu cầu của pháp luật đặt ra một cách xuyên suốt trong lộ trình về mặt thời gian được tính từ khi cá nhân lập di chúc, cá nhân chết và di chúc được thi hành trên thực tế. Theo đó, pháp luật đặt ra yêu cầu hợp pháp đối với di chúc vào thời điểm xác lập, yêu cầu phát sinh hiệu lực pháp luật vào thời điểm cá nhân chết và phát sinh hiệu lực thực thi vào thời điểm phân chia di sản được định đoạt trong di chúc. Ở mỗi giai đoạn đều có những nhóm điều điều kiện tương thích và phù hợp để đảm bảo các điều kiện có hiệu lực của di chúc. KẾT LLUẬN CHƯƠNG 2 Tại chương này, luận án được tập trung nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện có hiệu lực của di chúc. Trong đó, NCS phân thành ba nhóm điều kiện cơ bản: Một là, điều kiện để di chúc hợp pháp; Hai là, điều kiện để di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật; Ba là, điều kiện để di chúc được thi hành. Ở mỗi điều kiện, tác giả đều chỉ ra: (i) Quy định của pháp luật hiện hành; (ii) Sự khác biệt quy định pháp luật hiện hành với quy định pháp luật thời kì trước; (iii) Điểm tương đồng hoặc khác biết với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới; (iv) Đánh giá ưu điểm và nhược điểm còn tồn đọng đối với quy định của pháp luật về mỗi điều kiện. Chương 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC 3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc 3.1.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về điều kiện di chúc hợp pháp 3.1.1.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về người lập di chúc NCS đưa ra phân tích, bình luận 05 vụ án, trong đó: 02 vụ án điển hình về người
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất