Báo cáo tốt nghiệp
“Dịch vụ tư vấn thuế tại công ty TNHH Deloitte
Việt Nam”
MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ TƯ VẤN THUẾ ........................................ 7
1.1. QUẢN LÝ THUẾ THEO CƠ CHẾ TỰ KHAI-TỰ NỘP .................................... 7
1.1.1. Giới thiệu mô hình tự kê khai-tự nộp thuế................................................ 7
1.1.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 7
1.1.1.2. Trách nhiệm của đối tượng nộp thuế ................................................... 8
1.1.1.3. Trách nhiệm của cơ quan quản lý ........................................................ 9
1.1.1.4. Các điều kiện thực hiện cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế ....................... 9
1.1.1.5. Lợi ích của việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế: ..................... 10
1.1.2.Quản lý thuế theo mô hình tự kê khai-tự nộp thuế ở Việt Nam. ............. 11
1.2. DỊCH VỤ TƯ VẤN THUẾ ................................................................................. 14
1.2.1. Khái niệm tư vấn thuế ................................................................................. 14
1.2.2. Vai trò của dịch vụ tư vấn thuế trong nền kinh tế thị trường .................... 18
1.2.2.1. Sự cần thiết của dịch vụ tư vấn thuế trong nền kinh tế thị trường ........ 18
1.2.2.2. Vai trò của dịch vụ tư vấn thuế trong công tác quản lý thuế.................. 21
1.2.2.3. Vai trò của dịch vụ tư vấn thuế với đối tượng nộp thuế ......................... 24
1.2.3.Nội dung dịch vụ tư vấn thuế........................................................................ 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ TƯ VẤN THUẾ TẠI CÔNG TY TNHH
DELOITTE VIỆT NAM ............................................................................................... 28
2.1. GIỚI THIỆU CÔNG TY TNHH DELOITTE VIỆT NAM .............................. 28
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển ............................................................. 28
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty .......................................................................... 30
2.1.3 Giới thiệu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty............................... 32
2.1.3.1. Những dịch vụ cung cấp ........................................................................ 32
2.1.3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh ............................................................... 36
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TƯ VÂN THUẾ TẠI VIỆT NAM. 40
2.3. THỰC TRẠNG CUNG CẤP DỊCH VỤ TƯ VẤN THUẾ CỦA CÔNG TY
TNHH DELOITTE VIỆT NAM ............................................................................... 42
2.3.1.
Khái quát về khách hàng của công ty ................................................... 42
2.3.2.
Các nội dung dịch vụ tư vấn thuế cung cấp cho khách hàng................ 43
2.3.2.1.Hỗ trợ nhà đầu tư tham gia thị trường.................................................... 43
2.3.2.2.Hoạch định chiến lược thuế .................................................................... 44
2.3.2.3.Soát xét tính tuân thủ luật thuế của doanh nghiệp ................................. 45
2.2.2.4.Tính và lập tờ khai thuế .......................................................................... 55
2.3.2.5.Tư vấn thuế cho nghiệp vụ mua bán doanh nghiệp ................................ 55
2.3.2.6.Tư vấn hỗ trợ lập hồ sơ chuyển giá ......................................................... 56
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ DỊCH VỤ TƯ VẤN THUẾ TẠI CÔNG TY TNHH
DELOITTE VIỆT NAM ........................................................................................... 56
2.4.1.
Những kết quả đạt được......................................................................... 56
2.4.2.
Những hạn chế........................................................................................ 60
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TƯ VẤN THUẾ TẠI CÔNG TY
TNHH DELOITTE VIỆT NAM ................................................................................... 63
3.1. HƯỚNG PHẤT TRIỂN CỦA HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN THUẾ VÀ CÁC DỊCH
VỤ VỀ THUẾ TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ................................... 63
3.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY .............................................. 66
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TƯ VẤN THUẾ CỦA CÔNG
TY............................................................................................................................... 69
3.3.1. Chiến lược phát triển khách hàng ............................................................... 69
3.3.2. Triển khai các dịch vụ tư vấn mới .............................................................. 70
3.3.3. Hoàn thiện qui trình thực hiện tư vấn......................................................... 72
3.3.4. Đảy mạnh hoạt động marketing giới thiệu về dịch vụ của công ty ............ 72
3.3.5. Phát triển đội ngũ nhân lực ......................................................................... 73
3.3.6. Kết hợp phát triển dịch vụ tư vấn thuế với các dịch vụ tư vấn khác ......... 75
3.4. CÁC KIẾN NGHỊ ............................................................................................... 76
3.4.1. Kiến nghị với các cơ quan chức năng .......................................................... 76
3.4.2. Kiến nghị với Hội tư vấn thuế Việt Nam ..................................................... 78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
TNCN
: Thu nhập cá nhân
TNDN
: Thu nhập doanh nghiệp
GTGT
: Giá trị gia tăng
TTĐB
: Tiêu thụ đặc biệt
TSCĐ
: Tài sản cố định
BHXH
: Bảo hiểm xã hội
BHYT
: Bảo hiểm y tế
DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Doanh thu qua các năm............................................................. 36
Bảng 2.2: Tỉ trọng doanh thu theo loại hình dịch vụ ................................ 37
Bảng 2.3: Kết quả phát triển khách hàng qua các năm ........................... 40
Bảng 2.4: Soát xét tuân thủ thuế ............................................................... 45
Bảng 2.5: Doanh thu từ dịch vụ tư vấn thuế trong tổng doanh thu......... 56
Bảng 2.6 : Tỉ trọng doanh thu dịch vụ tư vấn thuế trong tổng doanh thu
..................................................................................................................... 58
Biểu đồ 2.1: Doanh thu qua các năm ......................................................... 36
Biểu đồ 2.2 :Doanh thu qua các năm của dịch vụ tư vấn thuế ................. 57
Biểu đồ 2.3 :Tỉ lệ cơ cấu doanh thu .......................................................... 58
Biểu đồ 2.4 : Tỉ lệ doanh thu từng dịch vụ tư vấn thuế 2007 ................... 60
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức công ty TNHH Deloitte Việt Nam .................. 30
LỜI MỞ ĐẦU
Dịch vụ tư vấn thuế đã hình thành và phát triển từ lâu tại các quốc gia
phát triển trên thế giới, tuy nhiên hẵng còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Hiện
nay Việt Nam đã trở thành một thành viên chính thức của WTO, theo cam kết
thì chúng ta sẽ phải mở cửa thị trường đối với các hoạt động thương mại và
dịch vụ với các quốc gia thành viên khác. Điều này có nghĩa là sự cạnh tranh
đối với doanh nghiệp sẽ ngày một lớn hơn, doanh nghiệp cần tận dụng mọi ưu
thế để có thể có được lợi thế cạnh tranh tốt nhất với các đối thủ khác, trong đó
chú trọng đến nghĩa vụ thuế để tạo nên sự khác biệt cũng sẽ là cần thiết khi
mà các yếu tố khác đều đã được cân nhắc.
Với sự phát triển không ngừng của các doanh nghiệp về số lượng, hình
thức và qui mô hoạt động, đồng thời, trước đòi hỏi về sự minh bạch, lành
mạnh tài chính của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế thế giới thì sự trợ giúp của dịch vụ tư vấn thuế cho các doanh nghiệp
trong việc tuân thủ pháp luật về thuế là rất cần thiết. Các doanh nghiệp đều
muốn đảm bảo rằng mình tuân thủ theo đúng các chuẩn mực qui định nên
việc kiểm tra tình hình thực hiện thuế là một nhu cầu tất yếu qua đó doanh
nghiệp nắm được việc nộp thuế của mình cũng như tìm cho mình một lợi thế
trong kinh doanh từ việc tiết kiệm thuế trên cơ sở tuân thủ các qui định.
Từ cơ sở trên, có thể thấy được hoạt động tư vấn thuế tại Việt Nam
trong thời gian tới sẽ vô cùng phong phú và sôi động, nhất là đến tháng 11
năm 2008, theo cam kết mở cửa dịch vụ tài chính với WTO, dịch vụ tư vấn
thuế sẽ có thêm sự tham gia của các doanh nghiệp tổ chức nước ngoài, báo
hiệu một sự cạnh trạnh thật sự trên thị trường dịch vụ chuyên nghiệp này.
Chuyên đề tốt nghiệp: “Dịch vụ tư vấn thuế tại công ty TNHH Deloitte Việt
Nam” được lựa chọn với mong muốn cung cấp một cái nhìn toàn diện và cụ
thể hơn về hoạt động mới này đến với mọi người.
Nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về dịch vụ tư vấn thuế
Chương II: Thực trạng cung cấp dịch vụ tư vấn thuế tại công ty TNHH
Deloitte Việt Nam
Chương III: Giải pháp phát triển dịch vụ tư vấn thuế tại công ty TNHH
Deloitte Việt Nam
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ TƯ VẤN THUẾ
1.1. QUẢN LÝ THUẾ THEO CƠ CHẾ TỰ KHAI-TỰ NỘP
1.1.1. Giới thiệu mô hình tự kê khai-tự nộp thuế
1.1.1.1. Khái niệm
- Tự khai – tự nộp (Self assessment): là tự xác định (lượng giá) cơ sở
thuế nhằm mục đích tính thuế
- Tự khai – tự nộp: theo nghĩa hẹp, được hiểu là đối tượng nộp thuế tự
xác định cơ sở thuế, tự tính thuế, tự xác định số thuế phải nộp và tự nộp thuế
theo đúng thời hạn qui định.
- Tự khai – tự nộp thuế: hiểu theo nghĩa rộng, cách hiểu đang được sử
dụng hiện nay: đây là một phương thức quản lý thuế được xây dựng trên nền
tảng sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế được cụ thể bằng việc đối tượng nộp
thuế tự thực hiện các nghĩa vụ mà Luật qui định, cơ quan thuế được tổ chức
và thực hiện các biện pháp quản lý thuế phù hợp với nguyên tắc đó.
Quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế là phương thức quản lý
thu thuế văn minh, hiện đại, phù hợp với hệ thống thuế của nền kinh tế thị
trường. Hiện nay, hầu hết cơ quan thuế các nước tiên tiến trên thế giới đã và
đang thực hiện thành công quản lý thuế theo phương thức này. Chỉ còn một số
quốc gia là áp dụng phương pháp chuyên thu kiểu cũ.
1.1.1.2. Trách nhiệm của đối tượng nộp thuế
Theo cơ chế này thì các tổ chức, cá nhận nộp thuế căn cứ vào kết quả
sản xuất kinh doanh trong kỳ kê khai của mình và căn cứ vào các quy định
của pháp luật về nghiã vụ thuế tự tính ra số thuế phải nộp ngân sách Nhà
nước, từ đó tự kê khai và tự thực hiện nghĩa vụ nộp số thuế đã kê khai vào
Ngân sách Nhà nước theo đúng thời hạn qui định của pháp luật.
Cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế đòi hỏi tổ chức, cá nhận nộp thuế phải
nâng cao trách nhiệm vì tờ khai là do tổ chức, cá nhận nộp thuế tự lập trên cơ
sở kết quả sản xuất kinh doanh của mình và chính sách chế độ về thuế mà
không cần có sự xác nhận của cơ quan thuế. Tổ chức, cá nhận nộp thuế chịu
trách nhiệm về kết quả của việc tính thuế, kê khai thuế của mình trước pháp
luật
Tổ chức, cá nhận nộp thuế sẽ được cơ quan thuế hướng dẫn, giúp đỡ
bằng nhiều hình thức hỗ trợ và cung cấp thông tin để có thể tự tính thuế, khai
thuế và nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật thuế. Trường hợp cố tình
vi phạm pháp luật thuế trong việc tính thuế, khai thuế và nộp thuế với Ngân
sách Nhà nước và các hành vi vi phạm pháp luật thuế khác thì sẽ bị xử lý
nghiêm theo các quy định của pháp luật.
1.1.1.3. Trách nhiệm của cơ quan quản lý
Để hỗ trợ các tổ chức, cá nhận nộp thuế hiểu và nắm vững các quy định
của pháp luật thuế từ đó thực hiện tốt nghĩa vụ kê khai nộp thuế, cơ quan thuế
phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến và giải đáp các vướng mắc
về chính sách chế độ thuế mà các tổ chức, cá nhận nộp thuế thường gặp phải
trong quá trình kê khai nộp thuế.
Cơ quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai, nộp thuế của tổ
chức, cá nhân kinh doanh, nhưng cơ quan thuế sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra
và áp dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế theo luật định đối với những
trường hợp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế như không kê khai, không
nộp thuế, trốn thuế, gian lậu về thuế...v v.
1.1.1.4. Các điều kiện thực hiện cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế
Việc thực hiện cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế đòi hỏi các điều kiện áp
dụng:
- Người dân phải có hiểu biết cơ bản về thuế, tổ chức, cá nhân kinh
doanh phải hiểu rõ chính sách thuế để thực hiện đúng nghĩa vụ thuế
- Các thủ tục (đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế ...) phải đơn
giản tạo điều kiện dễ dàng cho đối tượng nộp thuế khi thực hiện cụ thể các
nghĩa vụ.
- Hệ thống xử phạt phải nghiêm minh nhưng công bằng
- Các chương trình thanh tra thuế và cưỡng chế thuế phải có hiệu quả và
có hiệu lực.
Muốn vậy, cơ quan thuế phải tiến hành cải cách đồng bộ và toàn diện
trên các lĩnh vực quản lý.
1.1.1.5. Lợi ích của việc thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế:
Thực hiện cơ chế quản lý thu thuế này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả
cơ quan thuế lẫn các tổ chức, cá nhân nộp thuế, cụ thể là:
Đối với các tổ chức, cá nhân nộp thuế
- Thực hiện cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế, tổ chức, cá nhân nộp thuế sẽ
giảm bớt được nhiều thủ tục hành chính trong việc thực hiện nghĩa vụ kê khai
và nộp thuế của mình.
- Tổ chức, cá nhân nộp thuế được chủ động việc nộp ngân sách nên sẽ
chủ động được việc cân đối nguồn tài chính.
Đối với cơ quan thuế:
Thực hiện việc áp dụng cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế cơ quan thuế có
điều kiện để cải tiến cơ cấu tổ chức nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn
lực hiện có, công tác quản lý thu thuế được tổ chức theo hướng ngày càng
hiện đại và chuyên môn hoá. Cơ quan thuế có điều kiện tập trung nguồn lực
vào công tác phục vụ, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh tạo
điều kiện cho cơ sở kinh doanh hiểu và tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế
của mình, đối với Ngân sách Nhà nước và có điều kiện để tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra và cưỡng chế thuế có hiệu quả hơn đối với các cơ sở
kinh doanh có khả năng rủi ro cao trong việc không tuân thủ thực hiện nghĩa
vụ thuế. Triển khai thực hiện cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho ngành thuế đẩy
mạnh hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế mà cụ thể là đẩy mạnh việc áp
dụng công nghệ tin học trong công tác quản lý thu thuế.
1.1.2.Quản lý thuế theo mô hình tự kê khai-tự nộp thuế ở
Việt Nam.
Việc triển khai thực hiện mô hình tự kê khai – tự nộp thuế là một trong
những cải cách quan trọng trong chiến lược cải cách hệ thống thuế và nằm
trong chương trình Kế hoạch cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế giai đoạn
2005-2010 của Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 23 tháng 09 năm 2003 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định 197/2003/QĐ-TTg về việc thí điểm thực hiện cơ chế cơ sở sản xuất, kinh
doanh tự kê khai, tự nộp thuế. Ngoài việc thay đổi một số cơ sở pháp lý có
tính hiệu quả trong kỹ thuật quản lý, cái lớn nhất mang lại từ Quyết định 197
là “sự bắt đầu” (chứ không chỉ thuần túy là thí điểm) cho phương thức quản lý
thuế tự kê khai – tự nộp thuế ở Việt Nam (lộ trình cải cách 2003 – 2010) mà
nền tảng của nó khá khác biệt với nền tảng trước đó mà hệ thống quản lý
được dựng nên.
Quyết định 197/2003 đã xác định rõ việc áp dụng thí điểm như sau:
Mục tiêu của việc thực hiện thí điểm là nhằm nâng cao ý thức tự giác
thực hiện pháp luật thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghĩa vụ
nộp thuế của các cơ sở sản xuất, kinh doanh; thực hiện cải cách thủ tục hành
chính trong lĩnh vực thuế; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, ngăn chặn
và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về thuế; tạo điều kiện tổ chức,
sắp xếp bộ máy quản lý thuế hoạt động chuyên sâu, chặt chẽ và có hiệu quả;
từng bước hiện đại hoá công tác quản lý thuế.
Đối tượng thí điểm áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế là các cơ sở sản
xuất, kinh doanh kê khai nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ
thuế, thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định.
Phạm vi thí điểm áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế là thuế giá trị gia
tăng (trừ thuế giá trị gia tăng kê khai và nộp ở khâu nhập khẩu) và thuế thu
nhập doanh nghiệp.
Cơ quan Thuế quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh thí điểm thực
hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế có nhiệm vụ tổ chức bộ máy chuyên sâu để
thực hiện:
- Tuyên truyền, hỗ trợ cơ sở sản xuất, kinh doanh hiểu và thực hiện
đúng các quy định của pháp luật về thuế và cơ chế tự khai, tự nộp thuế theo
- Theo dõi việc kê khai, nộp thuế của cơ sở sản xuất, kinh doanh; thông
báo, nhắc nhở hoặc xử lý theo quy định của pháp luật đối với các trường hợp
kê khai, nộp thuế chậm.
- Thanh tra, kiểm tra và xử lý kịp thời theo thẩm quyền các hành vi vi
phạm pháp luật về thuế.
- Áp dụng các biện pháp thu nợ và thực hiện cưỡng chế về thuế theo
quy định của pháp luật đối với các trường hợp không nộp thuế, nộp phạt.
- Đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ tin học trong công tác quản lý thu
thuế.
Như vậy việc áp dụng thí điểm cơ chế tự khai – tự nộp thuế đã được bắt
đầu từ 1/1/2004 đối với một số cơ sở sản xuất kinh doanh tại TP Hồ Chí Minh
và Quảng Ninh. Bộ tài chính cũng ban hành Thông tư 127/2003/TT-BTC
hướng dẫn các đối tượng nộp thuế thực hiện Quyết định 197/2003/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ.
Đến 1/1/2005 có thêm 3 cục thuế áp dụng mô hình này là Cục thuế Hà
Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu và Đồng Nai.
Tháng 6/2005 đánh dấu sự mở rộng của cơ chế tự khai – tự nộp thuế
với Quyết định 161/2005/QĐ-TTg về việc mở rộng thí điểm cơ sở sản xuất
kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế đối với thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản
xuất trong nước; thuế tài nguyên; thuế nhà, đất; thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao và thuế môn bài. Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư 82
/2005/TT-BTC hướng dẫn tự kê khai với thuế tiêu thụ đặc biệt cùng với
Thông tư 41/2006/TT-BTC hướng dẫn thực hiện tự kê khai đối với thuế nhà
đất, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và thuế môn bài.
Cùng với việc mở rộng áp dụng đối với các sắc thuế như trên là việc
tăng thêm các cục thuế áp dụng thí điểm. Từ 1/2006, các Cục thuế sẽ áp dụng
cơ chế tự kê khai – tự nộp thuế bổ sung thêm là: Thừa - Thiên Huế, Khánh
Hòa, Bình Thuận, An Giang
Như vậy qua 2 năm thực hiện thí điểm cơ chế tự khai – tự nộp từ 2004
đến 2006 đã có các sắc thuế được thực hiện là thuế giá trị gia tăng, thu nhập
doanh nghiệp, tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên; thuế nhà, đất; thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao và thuế môn bài (năm 2004 chỉ có thuế giá trị
gia tăng, thuế Thu nhập doanh nghiệp). Đối với cơ quan thuế cũng đã có 9 địa
phương thực hiện, trong đó có 4 cục thuế thực hiện cơ chế tự khai – tự nộp
theo quy mô 1 phòng quản lý Doanh nghiệp thuộc cơ quan cục thuế là: Hà
Nội, TP.HCM, Đồng Nai, Vũng Tàu và 5 cục thuế: Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa, Bình Thuận, An Giang thực hiện theo mô hình cấp
cục.
Việc Luật Quản lý thuế được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ
1/7/2007 chính thức đánh dấu việc triển khai mô hình tự kê khai – tự nộp thuế
trên toàn quốc với tất cả các sắc thuế. Cụ thể, Luật quy định rất rõ các loại
giấy tờ cho từng loại hồ sơ thuế để người nộp thuế tự xác định nghĩa vụ thuế
của mình đối với Nhà nước. Luật cũng thống nhất về thời hạn nộp hồ sơ khai
thuế, hồ sơ quyết toán thuế và thời hạn nộp tiền thuế phù hợp với từng loại
thuế phải kê khai và nộp thuế theo tháng, quý hoặc năm, hay theo từng lần
phát sinh nghĩa vụ thuế, để người nộp thuế dễ dàng hơn trong kê khai nộp
thuế (không như trước đó, cũng là hồ sơ khai thuế theo tháng nhưng mỗi luật
thuế được quy định một thời hạn nộp hồ sơ khác nhau).
Bên cạnh việc cải cách về thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, rõ
ràng, minh bạch, Luật còn quy định rõ quyền và nghĩa vụ của cả người nộp
thuế lẫn cơ quan thuế. Có thể nói sự ra đời của Luật Quản lý thuế đã tạo cơ sở
pháp lý thống nhất, thiết lập nền tảng cho việc áp dụng một cơ chế quản lý
thuế tiên tiến, hiện đại theo hướng tự tính, tự khai, tự nộp thuế, phù hợp với
thông lệ quản lý thuế quốc tế.
1.2. DỊCH VỤ TƯ VẤN THUẾ
1.2.1. Khái niệm tư vấn thuế
Khái niệm tư vấn
Theo từ điển tiếng Việt “Tư vấn là góp ý kiến về những vấn đề được
hỏi đến, nhưng không có quyền quyết định” (Từ điển tiếng Việt - Viện Ngôn
ngữ học, NXB Đà Nẵng).
"Tư Vấn" theo nghĩa gốc là xử lý câu hỏi. Chữ "Tư" ở đây có nghĩa là
xử lý, còn chữ "Vấn" có nghĩa là câu hỏi. Trong tiếng Anh người ta dùng chữ
Consultancy để chỉ việc tư vấn. Chữ Consultancy được hình thành từ từ gốc
La Tinh "Consultus" có nghĩa là "Chuyên gia luật pháp", nghĩa hẹp hơn nghĩa
của từ Consultancy hiện đại. Thuật ngữ "Consultancy" có thể có rất nhiều
nghĩa, tựu chung lại một ý tưởng chính là đưa ra các lời khuyên về nghiệp vụ.
Nghề tư vấn
Tư vấn có mặt khắp nơi. Trong công việc và cuộc sống mọi người đều
có nhu cầu tư vấn giúp tìm giải pháp cho một vấn đề khó khăn gặp phải. Hầu
hết mọi người đều đã từng là “nhà tư vấn” khi đưa ra lời tư vấn cho những
người xung quanh giúp họ tìm giải pháp cho một tình huống khó khăn.
Chính vì tư vấn là ở khắp nơi nên nó khó trở thành một nghề, một dịch
vụ chuyên nghiệp trong xã hội. Tuy nhiên, xã hội càng phát triển thì tư vấn
càng được chuyên nghiệp hóa. Nghĩa là, ngày nay bên cạnh khái niệm tư vấn
như là một sinh hoạt xã hội rộng rãi mà ai cũng cần và ai cũng có thể làm thì
đã hình thành một nghề tư vấn chuyên nghiệp, phục vụ xã hội như một loại
hình dịch vụ cao cấp, thuộc khu vực kinh tế tri thức.
Tư vấn (consulting) là một ngành dịch vụ không có một định nghĩa cố
định nào cả. Thị trường cho dịch vụ này cũng hết sức linh hoạt. Dịch vụ tư
vấn là hoạt động trong đó các chuyên gia tiến hành chọn lọc và cung cấp các
thông tin, tri thức, giải pháp hoặc phương án hành động để giúp cho khách
hàng có quyết định đúng đắn. Tư vấn được chia làm nhiều loại: tư vấn quản
lý, tư vấn thương mại, tư vấn pháp lý, tư vấn kỹ thuật – công nghệ, tư vấn
chính sách, v.v…Trong từng trường hợp cụ thể, nhà tư vấn thường phải thực
hiện nhiều vai trò: vai trò người đảm bảo thông tin, tri thức; vai trò người hỗ
trợ quản lý (chẳng hạn lập kế hoạch, giúp kiểm soát đối với một dự án); vai
trò người hỗ trợ nghiên cứu (khảo sát, thu thập, xử lý thông tin, giúp đề xuất
giải pháp...); vai trò người gợi ý, phản biện khách quan; vai trò người đào tạo
bổ sung, giúp hoàn thiện kỹ năng; vai trò người dàn xếp trong các mối quan
hệ hợp tác, liên kết, liên doanh, v.v…
Người tư vấn và khách hàng cần tư vấn
Người tư vấn (consultant) là người đưa ra những lời chỉ dẫn về một lĩnh
vực chuyên môn cụ thể như: kế toán, luật, nhân sự, marketing, tài chính hay
quản trị doanh nghiệp … Nhà tư vấn thường là một chuyên gia hoặc người có
kinh nghiệm chuyên môn trong một lĩnh vực cụ thể nào đó và họ có kiến thức
cũng như kinh nghiệm rộng rãi và sâu sắc về lĩnh vực đó. Ví dụ như nhà tư
vấn luật thì thường là một luật sư, nhà tư vấn tài chính hoặc marketing thì
thường là những chuyên gia được đào tạo chuyên môn về tài chính hoặc
marketing … Người tư vấn có thể hành nghề độc lập hoặc làm cho một tổ
chức nào đó, khi đó chúng ta có nhà tư vấn độc lập và công ty tư vấn.
Khách hàng cần tư vấn có thể là một cá nhân hay một tổ chức. Đối với
một cá nhân là khi họ có nhu cầu tư vấn về một lĩnh vực nào đó đòi hỏi phải
có một kiến thức chuyên môn và sự hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực đó để có
thể giúp họ đưa ra những phương án giải quyết hiệu quả nhất. Ví dụ một
người có những vấn để giải quyết liên quan tới pháp luật họ sẽ cần sự tư vấn
của một luật sư, hoặc một người muốn sử dụng tiền để đầu tư hiệu quả nhất,
họ sẽ tìm đến với những nhà tư vấn tài chính… Đối với một tổ chức mà cụ thể
là một doanh nghiệp, trong hoạt động kinh doanh doanh nghiệp có thể gặp
những vấn đề trong nhiều lĩnh vực khác nhau như quản lý, nhân sự, pháp luật
… mà doanh nghiệp không thể giải quyết hiệu quả bằng năng lực của mình,
lúc này doanh nghiệp cần sự tư vấn của một nhà tư vấn chuyên nghiệp. Công
ty tư vấn sẽ "tư vấn" một doanh nghiệp theo đúng cách mà một người đưa ra
lời khuyên cho bạn bè hay người thân lúc cấp thiết. Công ty tư vấn sẽ không
chỉ nghiên cứu tìm hiểu doanh nghiệp để phát hiện những hiện trạng vướng
mắc của họ mà còn cần đưa ra những giải pháp thích hợp để giải quyết những
khó khăn đó. Đưa ra các các giải pháp là một vấn đề hóc búa, không phải vì
"nguồn cung cấp" giải pháp quá hạn hẹp. Các nhà tư vấn chuyên nghiệp
không bao giờ thiếu các giải pháp, song áp dụng một giải pháp thích hợp cho
từng điều kiện cụ thể của doanh nghiệp không phải là dễ dàng. Hơn nữa môi
trường doanh nghiệp có thể là một vấn đề lớn với các trở ngại về chính trị
cũng như chính sách hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, cốt lõi của tư vấn là
phải vượt qua được các rào cản bên trong doanh nghiệp, xóa bỏ nó để rồi
thâm nhập hoàn toàn vào doanh nghiệp, qua đó thực hiện các giải pháp tư vấn
một cách hiệu quả nhất.
Tư vấn thuế
Hoạt động tư vấn thuế là một phần trong rất nhiều những loại hình dịch
vụ tư vấn chuyên nghiệp.
Thuế là một lĩnh vực có tầm ảnh hưởng rất rộng đối với cuộc sống xã
hội. Hầu hết các hoạt động trong xã hội đều chịu tác động của thuế, từ các
giao dịch nhỏ như mua bán tiêu dùng cho đến những hoạt động kinh doanh
lớn. Là một thành viên của xã hội, dù là cá nhân hay một tổ chức đều phải
tuân thủ luật pháp về thuế, với cá nhân thì đó là trách nhiệm thuế thu nhập cá
nhân, với các tổ chức thì đó là thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính vì sự xuất
hiện của thuế trong mọi mặt của đời sống xã hội nên những vấn đề liên quan
đến thuế cũng vô cùng đa dạng và phong phú, thuế lại là một lĩnh vực rất rộng
và phức tạp mà một người bình thường không thể nắm được toàn bộ một cách
chi tiết, vì thế những đối tượng nộp thuế sẽ có nhu cầu cần tư vấn về thuế.
Những chuyên gia tư vấn thuế bằng kiến thức và hiểu biết sâu sắc về luật thuế
của mình sẽ cung cấp những ý kiến tư vấn cũng như giải pháp chuyên nghiệp
nhất cho những vấn đề về thuế của khách hàng. Họ đưa ra định hướng và giải
thích đúng đắn về pháp luật thuế để các đối tượng nộp thuế sử dụng hiệu quả
nhất, làm giảm thiểu tối đa số thuế phải nộp mà vẫn bảo đảm tuân thủ pháp
luật. Các chuyên gia sẽ xem xét tất cả các khía cạnh về thuế để đảm bảo cung
cấp một chiến lược thuế tốt nhất cho những hoạt động tài chính trong tương
lai của khách hàng cũng như thay mặt khách hàng thực hiện những nghĩa vụ
thuế với nhà nước.
Là một ngành nghề đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn về thuế
nhưng chuyên gia tư vấn thuế không nhất thiết phải là một cán bộ làm việc
trong ngành thuế. Người làm tư vấn thuế có thể là một chuyên gia luật pháp
hay một chuyên gia tài chính có kinh nghiệm am hiểu về thuế và các vấn đề
kinh tế xã hội khác. Những vấn đề về thuế của khách hàng nhiều khi không
chỉ liên quan đến luật thuế mà còn liên quan đến nhiều luật khác như luật
doanh nghiệp, luật thương mại, pháp lệnh về hợp đồng kinh tế, thậm chí cả
luật dân sự, hình sự... là các nội dung không thuộc trách nhiệm tư vấn thuế.
Điều này đòi hỏi sự hiểu biết rộng trên nhiều mặt của chuyên gia tư vấn, có
thể coi là việc khá khó khăn. Chính vì vậy mà những chuyên gia tư vấn thuế
chuyên nghiệp sẽ tư vấn đối với từng mảng thuế khác nhau, việc đó giúp họ
sẽ có thể có được kiến thức chuyên môn tập trung hơn cho những vấn đề liên
quan đến mảng thuế mà họ tư vấn.
Ở những nước phát triển, hoạt động tư vấn thuế chuyên nghiệp là một
ngành nghề cần chứng chỉ và được qui định rất chặt chẽ bởi luật pháp về
những điều kiện hành nghề, các nguyên tắc làm việc cũng như trách nhiệm
đối với khách hàng. Đó cũng là mô hình Việt Nam hướng tới trong tương lai.
1.2.2. Vai trò của dịch vụ tư vấn thuế trong nền kinh tế thị trường
1.2.2.1. Sự cần thiết của dịch vụ tư vấn thuế trong nền kinh tế thị
trường
Hoạt động tư vấn thuế là một dịch vụ ra đời cùng với sự phát triển của
hệ thống thuế của các quốc gia trên thế giới. Ở các nước tiên tiến ngày nay,
dịch vụ về thuế (tax services) hay nhà tư vấn thuế (tax consultant) là một khái
niệm phổ biến và là một trong những ngành nghề rất phát triển mang lại thu
nhập cao trong xã hội.
Việc xây dựng một bộ máy quản lý thu thuế hiệu quả và sự tách biệt
trong hoạt động của quản lý thu thuế của các cơ quan thuế với việc tự kê khai
nộp thuế của các đối tượng nộp thuế đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát
triển của dịch vụ tư vấn thuế. Các văn bản luật thuế ngày càng được ban hành
nhiều lên, cùng với sự gia tăng về số lượng là tính phức tạp của các điều
khoản trong luật thuế khiến cho việc hiểu cặn kẽ và kê khai đúng, đủ thuế là
một việc không dễ dàng đối với các đối tượng nộp thuế. Trong khi đó các cơ
quan thuế lại không đủ khả năng để giải thích một cách chi tiết từng luật thuế
cho vô số các đối tượng khác nhau. Dịch vụ tư vấn thuế ra đời đóng vai trò
như một cầu nối liên kết giữa cơ quan thu thuế của chính phủ với đối tượng
nộp thuế, giúp cho việc thu thuế được tiến hành nhanh chóng, đầy đủ, chính
xác. Dù tại các nước phát triển có các phần mềm hỗ trợ khai thuế nhưng theo
thống kê thì có đến 55% đối tượng nộp thuế phải sử dụng đến sự giúp đỡ của
các dịch vụ về thuế.
Tại Việt Nam, thực hiện lộ trình cải cách hiện đại hoá hệ thống thuế
giai đoạn 2005- 2010, ngành Thuế đã có kế hoạch mở rộng thực hiện cơ chế
tự kê khai tự nộp thuế. Cơ chế tự kê khai, tự nộp là một cơ chế mở, thông
thoáng, giúp cho đối tượng nộp thuế tự chủ hơn trong nghĩa vụ đóng góp
Ngân sách nhà nước. Tuy nhiên khi chức năng chuyên quản không còn tồn tại
thì tần suất tiếp xúc của đối tượng nộp thuế đối với cơ quan Thuế ít đi nên
chắc chắn sẽ nảy sinh những vuớng mắc khi thực thi pháp luật thuế của các
đơn vị. Khi thực hiện cơ chế này ngưòi nộp thuế được chủ động và tự chịu
trách nhiệm trong việc tính thuế, kê khai thuế, nộp thuế, cơ quan thuế sẽ
không can thiệp vào quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế
(nếu người nộp thuế không vi phạm pháp luật thuế). Do đó cũng đòi hỏi ở
người nộp thuế việc hiểu rõ và tự giác chấp hành các quy định của pháp luật
thuế, thực hiện tốt chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ,… Đây là điều không hề
đơn giản và trong thực tiễn không phải đối tượng nộp thuế nào cũng có thể
hiểu biết, nắm rõ và thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình với Nhà nước.
Để tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện tốt nghĩa
vụ với Ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính đã triển khai thành lập bộ phận
tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế ở cơ quan thuế các cấp, nhằm tuyên
truyền, hướng dẫn về chính sách thuế, các thủ tục về thuế; tổ chức đối thoại
trực tiếp với doanh nghiệp để tiếp thu vướng mắc, nghiên cứu tháo gỡ khó
khăn cho các cơ sở kinh doanh trong quá trình thực hiện pháp luật thuế. Việc
hỗ trợ đối tượng nộp thuế do cơ quan thuế thực hiện dưới các hình thức như
trả lời điện thoại, trả lời bằng văn bản, tư vấn tại cơ quan thuế, tư vấn tại cơ
sở đối tượng nộp thuế, tổ chức hội nghị, hội thảo. Trong đó, hình thức trả lời
bằng điện thoại có tần suất nhiều nhất, thứ đến là tư vấn tại cơ quan thuế, rồi
đến hội nghị hội thảo. Ngoài ra việc cung cấp thông tin cho người nộp thuế
còn được thể hiện bằng việc tổ chức tuyên truyền về thuế qua các phương tiện
thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương, in ấn tờ rơi để cung cấp
miễn phí cho người nộp thuế...
Mô hình dịch vụ tư vấn thuế công do các Cục thuế thực hiện từ trước
tới giờ đã đạt được những kết quả khả quan, góp phần tăng cường ý thức tự
giác, tự nguyện chấp hành nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế, đảm bảo
thực hiện nhiệm vụ thu đúng, thu đủ, thu kịp thời cho ngân sách Nhà nước và
đã nhận được sự ủng hộ cao của các đối tượng nộp thuế. Trong thời gian tới
với nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của các đối tượng nộp thuế, hoạt động
tư vấn thuế công của Nhà nước sẽ không thể đáp ứng đủ trước nhu cầu cần
được thông tin về thuế ngày càng cao, do số lượng tổ chức, cá nhân SXKD
tăng rất nhanh. Tính đến cuối năm 2005, tổng số tổ chức, cá nhân đăng ký
nộp thuế đã là 1.830.524. Theo dự báo thì trong giai đoạn 2006-2010, mỗi
năm có khoảng 35.000 doanh nghiệp và hơn 150.000 hộ kinh doanh được
thành lập mới; vào năm 2010, Việt Nam có khoảng 450.000 doanh nghiệp và
khoảng 3,5 triệu hộ kinh doanh.
Bên cạnh đó, Luật thuế thu nhập cá nhân được Quốc hội ban hành vào
năm 2007 và dự kiến áp dụng vào năm 2009 thì sẽ phát sinh thêm vô cùng
nhiều người phải kê khai thuế, quyết toán thuế với 100% số tổ chức, cá nhân
- Xem thêm -