Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dịch vụ công tác xã hội với nữ bệnh nhân ung thư từ thực tiễn bệnh viện phụ sản ...

Tài liệu Dịch vụ công tác xã hội với nữ bệnh nhân ung thư từ thực tiễn bệnh viện phụ sản trung ương

.DOC
152
120
81

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ MAI HƯƠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NỮ BỆNH NHÂN UNG THƯ TỪ THỰC TIỄN BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI Hà Nội, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐẶNG THỊ MAI HƯƠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NỮ BỆNH NHÂN UNG THƯ TỪ THỰC TIỄN BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG Ngành: Công tác Xã hội Mã số: 8.76.01.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. HÀ THỊ THƯ Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những thông tin tôi cung cấp trong luận văn là hoàn toàn trung thực không sao chép, cùng dưới sự hướng dẫn của TS. Hà Thị Thư. Nếu phát hiện có sao chép tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm Hà Nội, ngày 30 tháng 01 năm 2019 Người thực hiện: Đặng Thị Mai Hương LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành Luận văn này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của quý thầy cô giáo, gia đình và bạn bè. Trước hết, tác giả xin cảm ơn Ban Giám hiệu, các Khoa - Phòng, cùng quý thầy cô giáo và cán bộ Học viện Khoa học Xã hội đã nhiệt tình giảng dạy, quan tâm, giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập. Tác giả xin trân trọng cảm ơn TS Hà Thị Thư đã tận tâm góp nhiều ý kiến, hướng dẫn, hỗ trợ em hoàn thành luận văn này. Tác giả xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo và cán bộ bệnh viện Phụ sản Trung ương, Phòng công tác xã hội Bệnh viện đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Tác giả xin cảm ơn các nữ bệnh nhân ung thư điều trị nội trú tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương đã nhiệt tình tham gia, giúp đỡ tôi trong khi triển khai nghiên cứu. Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị, bạn bè trong lớp Cao học Công tác xã hội đã giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm cho tôi trong quá trình học tập. Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia đình, những người bạn thân thiết đã động viên, khuyến khích tôi, cùng tôi chia sẻ những khó khăn và dành cho tôi những tình cảm, sự chăm sóc quý báu trong suốt thời gian qua. Trân trọng! Hà Nội, ngày 30 tháng 01 năm 2019 Người thực hiện: Đặng Thị Mai Hương MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI CHO NỮ BỆNH NHÂN UNG THƯ TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG ................................................................................................. 18 1.1.Nữ bệnh nhân ung thư: Khái niệm và đặc điểm............................................ 18 1.2.Dịch vụ công tác xã hội với nữ bệnh nhân ung thư: Khái niệm và một số dịch vụ ................................................................................................................. 20 1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội với nữ bệnh nhân ung thư................................................................................................................. 23 1.4.Cơ sở pháp lý về dịch vụ công tác xã hội cho nữ bệnh nhân ung thư ................ 24 Chương 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NỮ BỆNH NHÂN UNG THƯ TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG.. 30 2.1.Khái quát về địa bàn và khách thể nghiên cứu ............................................. 30 2.2.Thực trạng dịch vụ công tác xã hội cho nữbệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương .................................................................................. 41 2.3. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội cho nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương ............................ 51 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NỮ BỆNH NHÂN UNG THƯ TỪ THỰC TIỄN BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG .............. 64 3.1. Định hướng tăng cường chất lượng dịch vụ công tác xã hội với nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương ................................................ 64 3.2. Giải pháp tăng cường chất lượng dịch vụ công tác xã hội với nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương ................................................ 67 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 72 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 75 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Đặc điểm nhóm tuổi, tôn giáo, nơi ở, trình trạng hôn nhân của nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương. .............................. 36 Bảng 2.2. Đặc điểm trình độ học vấn, nghề nghiệp, mức sống, trụ cột kinh tế của nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương.................... 37 Bảng 2.3. Đặc điểm thông tin điều trị của nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương .................................................................................... 38 Bảng 2.4. Đặc điểm trạng thái tâm lý của các nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương ............................................................................ 40 DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1.Chức năng, nhiệm vụ Phòng Công tác xã hội, bệnh viện Phụ sản Trung ương (khái quát) ............................................................................... 34 Biểu đồ 2.1. Thực trạng dịch vụ chỉ dẫn, tư vấn thông tin chung về khám chữa bệnh cho nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương .......... 42 Biểu đồ 2.2. Thực trạng dịch vụ truyền thông, quan hệ công chúng, tổ chức sự kiện cho nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương ........... 44 Biểu đồ 2.3.Thực trạng dịch vụ hỗ trợ tâm lý – xã hội cho nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ương ........................................................ 47 Biểu đồ 2.4. Thực trạng cung cấp dịch vụ kết nối các nguồn lực và hỗ trợ từ thiện cho nữ bệnh nhân ung thư tại bệnh viện Phụ sản Trung ươngError! Bookmark DANH MỤC TỪ VIẾT TĂT TỪ VIẾT TẮT GIẢI NGHĨA BN Bệnh nhân CTXH Công tác xã hội ĐDT Điều dưỡng trưởng KCB Khám chữa bệnh LĐKĐT Lãnh đạo Khoa điều trị LĐPCTXH Lãnh đạo Phòng công tác xã hội NNNB Người nhà người bệnh PSTW Phụ sản Trung ương MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, ở bất cứ thời kỳ nào, với bất cứ trình độ phát triển ra sao bao giờ cũng nảy sinh các vấn đề xã hội cùng với các nhóm xã hội yếu thế cần phải được quan tâm giúp đỡ. Các vấn đề xã hội là hậu quả trực tiếp cuả quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Các vấn đề nảy sinh cũng giống như những căn bệnh của một thực thể xã hội. Cũng như vậy bệnh viện là một xã hội thu nhỏ với những vấn đề phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến bệnh nhân và bác sĩ. Công tác xã hội sẽ góp phần vào việc giải quyết các vấn đề đó bằng tri thức và phương pháp khoa học của nghề. Sứ mệnh của nghề công tác xã hội đã được hiệp hội nhân viên công tác xã hội quốc tế xác định vào tháng 7/2000: “…Nghề công tác thúc đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người, tăng năng lực và giải phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái dễ chịu…” Công tác xã hội trong bệnh viện có vai trò quan trọng trọng trong xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa thể chất và tinh thần người bệnh, giữa bệnh nhân với người thân, giữa bệnh nhân với thầy thuốc, với cơ sở y tế và với cộng đồng. Công tác xã hội trong bệnh viện phát huy hiệu quả sẽ góp phần thay đổi nhận thức và thúc đẩy hành vi tích cực, ngăn ngừa, giảm thiểu những tác động tiêu cực ảnh hưởng tới các mối quan hệ, tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao hiệu quả trong hoạt động khám chữa bệnh cho nhân dân. Công tác xã hội trong bệnh viện không chỉ có vai trò hỗ trợ cho bệnh nhân mà còn hỗ trợ tích cực cho thầy thuốc giảm bớt áp lực công việc cũng như nâng cao hiệu quả điều trị. Vai trò của công tác xã hội trong bệnh viện được đối với bệnh nhân ung thư đặc biệt hơn, nhân viên công tác xã hội được coi như là một bác sĩ xã hội, hỗ trợ bệnh nhân tiếp cận các dịch vụ tuyên truyền, nâng cao nhận thức; hỗ trợ tâm lý; tư vấn; kết nối, vận động nguồn lực… và đặc biệt là chăm sóc bệnh nhân ở khía cạnh mối quan hệ xã hội. Các nhân viên công tác xã hội trong bệnh viện đã đóng góp vai trò nhất định trong việc giảm bớt gánh nặng, áp lực công việc cho 1 đội ngũ nhân viên y tế; cũng như hỗ trợ, tư vấn cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân tuân thủ theo phác đồ điều trị của bác sĩ, giảm bớt hoang mang, lo lắng, tạo niềm tin cho bệnh nhân và gia đình họ. Tại Việt Nam, hiện đã có hệ thống khung pháp lý cơ bản để tiến hành tổ chức các hoạt động công tác xã hội trong các bệnh viện. Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát Nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020; Quyết định số 2514/QĐ-BYT ngày 15/7/2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt Đề án “Phát triển Nghề công tác xã hội trong ngành Y tế giai đoạn 2011-2020”; Thông tư số 43/2015/TT-BYT ban hành ngày 26/11/2015 của Bộ y tế quy định về nhiệm vụ và hình thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội của bệnh viện là các căn cứ quan trọng để thành lập phòng công tác xã hội, phát triển cung cấp dịch vụ công tác xã hội trong bệnh viện, góp phần đổi mới phong cách, thái độ phục vụ hướng tới sự hài lòng của người bệnh, đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân. Đến nay, trên cả nước có trên 80% bệnh viện tuyến Trung ương và nhiều bệnh viện tuyến tỉnh đã thành lập phòng công tác xã hội hoặc có bộ phận làm chức năng công tác xã hội. Nhiều phòng công tác xã hội đã triển khai hoạt động tích cực và hiệu quả như: Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, Bệnh viện Nội tiết Trung ương, Bệnh viện phổi Trung ương, Bệnh viện Chợ Rẫy, Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương, Bệnh viện Nhân dân 115, Bệnh viện Tim Hà Nội, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, bệnh viện K... Tại Bệnh viện phụ sản Trung ương - Bệnh viện chuyên khoa đầu ngành của cả nước, theo báo cáo tổng kết của bệnh viện năm 2017, mỗi năm bệnh viện có khoảng 415,935lượt bệnh nhân khám và khoảng 323,935 lượt bệnh nhân điều trị ngoại trú, điều trị nội trú là 69,951 lượt người, vì thế nhu cầu cần hỗ trợ dịch vụ công tác xã hội là rất lớn. Trước nhu cầu bức thiết đó, Phòng Công tác xã hội được thành lập vào tháng 8/2014. Hoạt động của Phòng công tác xã hội bước 2 đầu tạo thuận lợi cho bệnh nhân được tiếp cận các dịch vụ công tác xã hội nhằm giải quyết được các vấn đề gặp phải trong quá trình khám và điều trị. Hỗ trợ, 3 giải quyết các vấn đề tâm lý cho người bệnh: tổ chức tiếp đón, hướng dẫn cho bệnh nhân về quy trình thủ tục khám, chữa bệnh, giải thích, tư vấn về các chính sách đặc biệt là chính sách bảo hiểm y tế; vận động các nhà tài trợ hỗ trợ vật chất cho bệnh nhân có hoàn cảnh khó khăn; hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức.... Tuy nhiên do thời gian thành lập còn ngắn, lực lượng nhân sự mỏng, các hoạt động chủ yếu chỉ mới tập trung ở khu vực khám bệnh, hỗ trợ từ thiện, truyền thông, các hoạt động hỗ trợ tâm lý – xã hội chỉ mới dừng lại ở các hoạt động của một vài nhân viên công tác xã hội mà chưa có điều kiện cung cấp chuyên sâu theo nhu cầu bệnh nhân và theo quy trình, nguyên tắc, kỹ năng công tác xã hội chuyên nghiệp ...Việc xây dựng kế hoạch cung cấp dịch vụ chưa dựa trên thực trạng yêu cầu và khai thác các nguồn lực hiện có sát hợp với tình hình thực tiễn. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Dịch vụ công tác xã hội với nữ bệnh nhân ung thư từ thực tiễn Bệnh viện Phụ sản Trung ương” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài *Đề tài về nghiên cứu thực trạng nhu cầu cung cấp dịch vụ CTXH cho nữ bệnh nhân ung thư trong bệnh viện trên thế giới: Các tác giả Whitaker, Weismiller và Clark, Wilson (2006) nhận định rằng, công tác xã hội trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ giữ vai trò rất quan trọng giúp bệnh nhân vượt qua hoàn cảnh nhằm dễ dàng hòa nhập xã hội và phát triển. Trong đó, những yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân gồm có: hoàn cảnh sống (mức sống, vệ sinh, môi trường,…); đặc điểm cá nhân (học vấn,…), sự gia tăng dân số; sự phát triển của khoa học – công nghệ, kỹ thuật,… Cùng với những yếu tố ảnh hưởng, những giải pháp nhằm nâng cao sức khỏe của bệnh nhân bao gồm: Nâng cao hiểu biết của bệnh nhân về chăm sóc sức khoẻ; khuyến 4 khích cộng đồng tham gia vào các hoạt động phòng ngừa- chăm sóc sức khoẻ; phổ cập kiến thức về chăm sóc sức khoẻ tới toàn dân. Trong việc xây dựng mối 5 quan hệ giữa bệnh nhân nội trú với gia đình, cộng đồng với cơ sở y tế, công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa các bên nêu trên. Đặc biệt, công tác xã hội làm hài hoà giữa thể chất và tinh thần người bệnh. Tại Boston - Mỹ, năm 1905, công tác xã hội lần đầu tiên được đưa vào bệnh viện. Cho tới hiện nay, phần lớn phòng công tác xã hội đều đã có mặt tại các bệnh viện. Việc có phòng CTXH được coi là một trong các điều kiện để một bệnh viện được công nhận là thành viên của Hội các bệnh viện Mỹ[31]. Nhiều nghiên cứu đã được triển khai trên thế giới nhằm đánh giá nhu cầu cần được cung cấp các dịch vụ công tác xã hội ở bệnh nhân ung thư. Zabora, J., và cộng sự (2001), chỉ ra rằng bệnh nhân ung thư phần lớn mắc chứng rối loạn lo âu 1-49%[30]. Herschbach, P. và cộng sự (2004), nhận định bệnh nhân ung thư phần lớn mắc rối loạn trầm cảm của từ 0-46%[21]. Chandwani, Kavita D và các cộng sự (2012), cho biết rối loạn tâm thần là chứng bệnh thường gặp ở bệnh nhân ung thư (24- 59%)[23]. Ngoài ra, cũng theo nhóm tác giả này, tính trung bình sẽ có khoảng khoảng 1/3 bệnh nhân (điều trị nội trú) có các biểu hiện lo âu, căng thẳng và đau khổ về tâm lý. Tỷ lệ mắc các rối loạn tâm lý thay đổi theo từng loại bệnh ung thư và có khác biệt giữa các quốc gia; tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân ung thư vú trung bình là 50% trong khi ở bệnh nhân mắc ung thư phổi là 67%. Bên cạnh đó, L. E. Carlson và cộng sự (2010) nhấn mạnh trầm cảm ở bệnh nhân ung thư có mối liên quan với đặc điểm nhân khẩu học, xã hội, điều trị bệnh, các yếu tố về tâm lý, lối sống, sự hỗ trợ xã hội và chất lượng cuộc sống[27]. Chính vì vậy, các nghiên cứu phần lớn nhận định, một trong những dịch vụ được nhấn mạnh là trị liệu tâm lý cho các rối loạn tâm thần, đặc biệt là rối loạn lo âu và trầm cảm. Tổ chức Y tế thế giới (2013), quy định dịch vụ mà bệnh nhân (phần lớn là bệnh nhân điều trị nội trú) cần được cung cấp là trị liệu tâm lý và các hỗ trợ về mặt xã hội. Đây là các dịch vụ cần thiết đối với những bệnh nhân có biểu hiện 4 rối loạn tâm thần, lo âu, trầm cảm. Phần lớn, bệnh nhân đều có nhu cầu hỗ trợ tâm lý và cung cấp dịch vụ tư vấn càng sớm càng tốt. Các hỗ trợ về mặt xã hội là 5 yếu tố quan trọng để giúp bệnh nhân cải thiện đời sống và giảm mức độ các sang chấn tâm lý mà họ gặp phải trong quá trình khám và điều trị bệnh[33]. Tác giả Inken Padberg và cộng sự (2016) trong nghiên cứu về công tác xã hội sau đột quỵ đã xác định được bệnh nhân sẽ có rất nhiều nhu cầu, trong đó, sẽ có một số nhu cầu cấp thiết như sau: 95% muốn được cung cấp thông tin và thảo luận giải thích về khám và điều trị bệnh; 19,5% có nhu cầu cung cấp thiết bị và đồ đạc trong nhà; 22,2% bệnh nhân nội trú quan tâm đến việc trợ giúp tại gia (bao gồm các cuộc gọi khẩn cấp tại nhà và các viện trợ khác ở nhà); 15,6% bệnh nhân quan tâm đến thông tin về phục hồi chức năng ngoại trú; 14,4% bệnh nhân quan tâm đến thông tin phục hồi chức năng nội trú; 14% bệnh nhân quan tâm đến các dịch vụ liên quan đến chăm sóc nội trú dài hạn là 1,6% có mong muốn liên quan đến trợ cấp xã hội (ví dụ như tiền trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề) [22]. *Đề tài nghiên cứu về thực trạng dịch vụ CTXH cho nữ bệnh nhân ung thư trong bệnh viện trên thế giới: Nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội cho bệnh nhân ung thư nói chung và nữ bệnh nhân ung thư trong bệnh viện trên thế giới hiện nay còn khá mới. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, nhân viên công tác xã hội chuyên ngành ung bướu là cần thiết, bởi đây sẽ là nhóm người đảm bảo quyền chăm sóc toàn diện của bệnh nhân ung thư trong các bệnh viện hoặc cơ sở điều trị chuyên biệt. Trong đó, Hiệp hội nhân viên CTXH trong lĩnh vực ung bướu (2001) nhận định nhân viên CTXH chuyên ngành ung bướu được hiểu là người được đào tạo chuyên nghiệp, được khuyến khích làm việc trong lĩnh vực thúc đẩy việc sử dụng tối đa các dịch vụ trong hệ thống chăm sóc sức khoẻ của người bệnh. Đây là nhóm người giúp xây dựng các chiến lược ứng phó tối ưu tại bệnh viện và huy động tốt nhất các nguồn lực hỗ trợ từ cộng đồng[19]. Mukherjee, S. (2010), nhận định, sau thế chiến thứ II (1945), ung thư đã trở thành một vấn nạn y tế hàng đầu ở nhiều nước phát triển trên thế giới. Các tiến bộ trong phòng chống, phát hiện sớm và điều trị ung thư được phát minh 6 nhằm giúp tăng cường hy vọng cho bệnh nhân trong quá trình điều trị và kiểm soát một trong tứ chứng nan y. Chỉ trong vòng hơn 75 năm, các tiến bộ này đã 7 có thể tăng cường tỷ lệ sống sót và chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân nhưng cũng đồng thời nảy sinh ra những thách thức mới trong điều trị[26]. Messner, C. (2015) cho biết, đến tận những năm 1970, CTXH chuyên ngành ung bướu mới nổi lên như là một chuyên ngành trong CTXH. Cùng với đó, trong hơn 40 năm phát triển, nhân viên CTXH chuyên ngành ung bướu đã dần nhận được nhiều sự quan tâm tại các bệnh viện ở cả các nước phát triển và đang phát triển[25]. Trong đó, vai trò quan trọng của nhân viên CTXH chuyên ngành ung bướu đã được chứng minh thông qua việc tăng tỷ lệ sống sót cũng như chất lượng cuộc sống cho các bệnh nhân ung thư. Trong khi đó, từ lâu, nhân viên CTXH chuyên ngành ung bướu là một trong những đội ngũ bắt buộc với nhiều bệnh viện ở các nước phát triển. Nhân viên CTXH chuyên ngành ung bướu phải có hiểu biết về hai vai trò hoàn toàn khác biệt: (1) kiến thức và thực hành về CTXH và (2) khoa học và nghệ thuật trong điều trị ung thư (theo Fobair, P. và các cộng sự năm 2009)[20]. Quỹ nghiên cứu ung thư thế giới quốc tế (WCRFI), năm 2012, với tỷ lệ mắc bệnh ung thư ngày càng tăng trên toàn cầu, nhu cầu về CSSK của bệnh nhân là rất cần thiết. Điều này đặc biệt đúng tại các quốc gia đang phát triển khi phần lớn các trường hợp ung thư trên thế giới (56,8%) và tử vong do ung thư (64,9%) xảy ra ở đây[32]. Tổ chức Y tế thế giới (WHO), năm 2015, nhận định, vẫn chưa có bất cứ thống kê chi tiết nào trên toàn cầu về số nhân viên công tác xã hội đang cung cấp dịch vụ liên quan đến bệnh ung thư. Trong khi đó, tại cơ sở điều trị ung thư (bệnh viện) ở hầu hết các nước đang phát triển đều đang phải đối mặt với các vấn đề về thiếu hụt nguồn nhân lực (đội ngũ nhân viên công tác xã hội nói chung và đội ngũ nhân viên công tác xã hội chuyên ngành ung bướu nói riêng) và tài chính để ngăn chặn, chẩn đoán, và điều trị ung thư, cũng như cung cấp dịch vụ CTXH, chăm sóc hỗ trợ và giảm nhẹ để giảm gánh nặng của căn bệnh này[34]. Thiếu hụt nhân viên công tác xã hội và việc tổ chức dịch vụ yếu kém là những nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ trong chẩn đoán hoặc chẩn đoán sai cũng như thiếu các dịch vụ chăm sóc và tư vấn hỗ trợ cho người bệnh. 8 Tổ chức Y tế thế giới (WHO), năm 2013, tại nhiều quốc gia đang phát triển, các cơ sở y tế vẫn tập trung vào việc phòng ngừa, phát hiện sớm và với những bệnh nhân giai đoạn cuối (chăm sóc liên tục và chăm sóc giảm nhẹ) thay vì phát triển, cung cấp các dịch vụ tư vấn và dịch vụ CTXH cho người bệnh. Bên cạnh đó, việc cung cấp các dịch vụ đặc thù như dịch vụ CTXH thường chỉ được thực hiện bởi nhân viên công tác xã hội được đào tạo chung để làm việc trong các hệ thống y tế công cộng thay vì những nhân viên công tác xã hội được đào tạo chuyên ngành ung thư[33]. Việc thiếu hụt nhân viên CTXH là một vấn đề đe dọa mang tính toàn cầu trong việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của các dịch vụ CTXH trong việc khám, điều trị và chăm sóc bệnh nhân ung thư ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Đây được coi là một trong những rào cản trong việc chăm sóc bệnh nhân ung thư hiện nay. Nhìn chung, trong vòng 10 năm trở lại đây, các nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội với bệnh nhân ung thư trên thế giới còn rất hạn chế và chưa có nghiên cứu nào về dịch vụ công tác xã hội với bệnh nhân nữ ung thư. 2.2. Một số nghiên cứu ở Việt Nam *Đề tài nghiên cứu về thực trạng nhu cầu cung cấp dịch vụ CTXH cho nữ bệnh nhân ung thư trong bệnh viện tại Việt Nam Tại Việt Nam, tổ chức mạng lưới các trung tâm (thuộc IARC) ghi nhận ung thư tại 9 tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Huế, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Kiên Giang, trong đó, trung tâm ghi nhận ung thư Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được Cơ quan nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) công nhận chất lượng. Kết quả ghi nhận ung thư đã giúp đưa ra số liệu các ca ung thư mắc mới (tối thiểu 126 000 ca mắc mới năm 2010, dự báo 189 300 ca mắc mới vào năm 2020) (theo Nguyễn Bá Đức, Bùi Diệu, Trần Văn Thuấn và cộng sự)[5]. Ngoài ra, trong giai đoạn từ 20082013, cả nước sàng lọc được khoảng trên 120.000 phụ nữ tuổi từ 40-54 để phát hiện sớm hai loại ung thư phổ biến là ung thư vú và ung thư cổ tử cung[14]. 7 Công tác chăm sóc, giảm nhẹ cho bệnh nhân chưa được quan tâm thỏa đáng và còn nhiều hạn chế. Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ là rất lớn do có tới trên 8 70% bệnh nhân đến khám, điều trị tại các cơ sở y tế ở giai đoạn muộn và phần lớn trong đó phải chịu đựng đau đớn và khó chịu do bệnh và do điều trị. Điều kiện để cung cấp dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ như đào tạo, các đơn vị chuyên khoa chăm sóc giảm nhẹ, cũng như hoạt động giám sát nhìn chung chỉ mới có sẵn ở tuyến trung ương chứ chưa có ở tuyến huyện, xã. Phần lớn bệnh nhân được chăm sóc cuối đời tại nhà, không có sự hướng dẫn của nhân viên y tế. Trong số những người được chăm sóc, hầu hết không nhận được các tư vấn về tâm lý, các lời khuyên hoặc các biện pháp chăm sóc cho các triệu chứng khác ngoài triệu chứng đau. Hiện nay, mô hình chăm sóc tại nhà theo hướng dẫn của nhân viên y tế được đào tạo chưa được phát triển[1]. Nguyễn Hà My (2016), tương tự như các bệnh nhân trên thế giới, hầu hết các bệnh nhân ung thư trong các nghiên cứu tại Việt Nam đều gặp các vấn đề về tâm lý và có nhu cầu được tư vấn tâm lý. 50%bệnh nhân cảm thấy suy sụp và bất lực khi biết mình mắc bệnh. Ngoài ra, họ cũng có các nhu cầu được cung cấp thông tin về các mạng lưới, hỗ trợ tài chính, tư vấn chăm sóc con cái và tư vấn sức khỏe tình dục[9]. Với nghiên cứu trên 418 bệnh nhân ung thư và khả năng cung cấp dịch vụ CTXH tại bệnh viện K năm 2017, tác giả Phạm Tiến Nam đã nghiên cứu được: 79,6% bệnh nhân có mong muốn được cung cấp bữa ăn miễn phí; 74,3% muốn được hỗ trợ chỗ ở cho người nhà; 66,4% muốn được tặng đồ dùng cá nhân. Ngoài ra, 68,4% bệnh nhân có nhu cầu tư vấn tâm lý (tập trung ở 02 nhu cầu chính là nhu cầu trị liệu tâm lý và nhu cầu giao tiếp xã hội). Nhu cầu của bệnh nhân về quy tắc ứng xử trong bệnh viện, hòm thư góp ý trong bệnh viện, quy định về khám chữa bệnh trong bệnh viện lần lượt là: 58,1%; 52,6% và 69,2%[10]. *Đề tài nghiên cứu về thực trạng dịch vụ CTXH cho nữ bệnh nhân ung thư trong bệnh viện tại Việt Nam 9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan