Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ địa vị pháp lý của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật...

Tài liệu địa vị pháp lý của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

.DOCX
208
88
118

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH LONG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH LONG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 9.38.01.04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Xin cám ơn các Thầy, Cô Học viện Khoa học Xã hội đã cho tôi cơ hội học tập, nghiên cứu, đặc biệt xin cám ơn Thầy Nguyễn Văn Huyên đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận án này. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung và số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN NGUYỄN THANH LONG MỤC LỤC MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU..................................................7 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài..........................................................................................7 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước......................................................................12 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu và giải quyết................................................................................................23 1.4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu......................................................................25 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SỰ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ.....................................................28 2.1. Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự..............................................................................................................................................28 2.2. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.......................................................................................................................................43 Chương 3: THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.......76 3.1.Thực trạng các yếu tố tác động đến địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh......................................................76 3.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.......82 Chương 4: YÊU CẦU, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ.................................................................................................................................................117 4.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự....................................................................................................................................117 4.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.........................................................................................123 4.3. Các giải pháp khác nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư...........................................144 KẾT LUẬN............................................................................................................................................149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.....................................................................................................151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................152 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ Luật tố tụng hình sự CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV Điều tra viên HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên NBBT Người bị buộc tội NBC Người bào chữa PLTTHS Pháp luật tố tụng hình sự QBC Quyền bào chữa QCN Quyền con người TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao THTT Tiến hành tố tụng TNHS Trách nhiệm hình sự TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao Bảng 3.1: Bảng 3.2: Bảng 3.3: Bảng 3.4: Bảng 3.5:: Bảng 3.6:: Bảng 3.7:: Biểu đồ 3.1: Biểu đồ 3.2: Biểu đồ 3.3: Biểu đồ 3.4: Biểu đồ 3.5:: Biểu đồ 3.6:: Bảng 4.1: MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Để bảo đảm quyền con người, quyền công dân và quyền bào chữa của người bị buộc tội (NBBT), Nước ta đã ký hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người trong đó có quyền bào chữa cho NBBT theo pháp luật tố tụng hình sự (PLTTHS). Cùng với đó, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 [4], Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 2405-2005 [5], Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 [6] đã định hướng chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống PLTTHS về cải cách tư pháp trong đó coi trọng việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Hiến pháp 2013 ghi nhận những quy định mới bảo đảm quyền con người, quyền công dân và quyền bào chữa của người bị buộc tội. Chủ trương đảm bảo quyền bào chữa cho NBBT, nâng cao vị thế, vai trò của người bào chữa, cơ chế bảo đảm các quyền của người bào chữa (NBC) là nền tảng cho việc bảo đảm dân chủ hóa hoạt động tố tụng hình sự (TTHS), tạo thế độc lập, bình đẳng với các chủ thể có chức năng buộc tội. Điều này có nghĩa ở đâu có việc buộc tội thì ở đó quyền bào chữa phải được thực hiện và tôn trọng; bảo đảm Tòa án thực sự là hiện thân của công lý, khách quan, vô tư trong quá trình xét xử để con người thực sự được sống trong sự “bảo hộ công dân” của pháp luật [34]. Mặt khác, Hiến pháp đã có những quy định chặt chẽ, cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBBT, về những nguyên tắc áp dụng nhằm bảo vệ con người trước “vòng xoáy” TTHS mà cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Một trong những quyền đó là: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa” [84, tr 24]. Quyền bào chữa (QBC) là cơ sở pháp lý cần thiết để NBC bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBBT. Bảo đảm quyền bào chữa của NBBT không những là một nguyên tắc quan trọng của PLTTHS mà còn là một quy định được ghi nhận trong 5 bản Hiến pháp từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 đến 2013. Một trong các chủ thể có thể thực hiện quyền bào chữa cho NBBT, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự theo BLTTHS, đó là Luật sư. Giai đoạn điều tra, giai đoạn có tính quyết định của quá trình tiến hành tố tụng, vì người bị tạm giữ, bị can chỉ là đối tượng bị “tình nghi phạm tội”, nếu thiếu thận trọng thì khoảng cách giữa không phạm tội và phạm tội hoặc giữa lỗi và tội dễ bị xóa nhòa [137]. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn điều tra là i) người có thẩm quyền THTT (Điều tra viên) là người nắm quyền chủ động; họ có xu hướng “quy, kết tội”; ii) người bị tình nghi phạm tội, là người yếu thế, bị động, thường có tâm lý hoang mang, dao động, không ổn định trong lời khai (dễ có lời khai khác nhau); iii) Luật sư trong giai đoạn này 1 chính là “bác sĩ pháp lý”, tiếp cận người bị buộc tội với tư cách người bào chữa cho NBBT, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự; có trách nhiệm giải thích cho NBBT về những quyền được pháp luật bảo đảm, chuẩn bị tâm lý để từ đó giúp cho người bị “tình nghi phạm tội” bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình khai báo; xem xét sự việc một cách trung thực, khách quan tránh oan sai cho người bị “tình nghi phạm tội”, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Thực trạng đó đòi hỏi sự tham gia của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS là rất quan trọng, nhằm tìm kiếm chứng cứ gỡ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự trong việc đưa ra đề nghị hình phạt, thu thập tài liệu, chứng cứ đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất, tinh thần, tài sản bị xâm phạm…; đồng thời góp phần hạn chế vi phạm tố tụng trong hoạt động điều tra như bức cung, nhục hình, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra được nhanh chóng, chính xác, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của BLTTHS và thực tiễn hoạt động tố tụng cho thấy quy định pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS còn mang tính hình thức, thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện việc tham gia tố tụng của Luật sư. Nhiều trường hợp Luật sư bị cản trở, làm khó, chậm trễ trong việc cấp văn bản thông báo người bào chữa, không được gặp gỡ NBBT, không được tham gia hỏi cung và tham gia các hoạt động điều tra khác dẫn đến hệ quả Luật sư dường như bị gạt ra khỏi hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra VAHS; không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự. Nhiều cơ quan, người có thẩm quyền THTT chưa nhận thức được vai trò của Luật sư, tôn trọng Luật sư, coi thường các quy định của PL TTHS dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm và sự thật của VAHS chưa được làm sáng tỏ. Việc xác định đúng đắn địa vị pháp lý của Luật sư trong TTHS góp phần quan trọng hiệu quả hoạt động TTHS của cải cách tư pháp. Khi Luật sư tham gia tố tụng thì pháp luật TTHS phải “luật hóa” về quyền và nghĩa vụ; những quy định này tạo thành địa vị pháp lý của Luật sư trong TTHS. Mặt khác việc Luật sư tham gia sớm vào giai đoạn điều tra VAHS “…vai trò của Luật sư trong các vụ án oan, sai đều ở thời điểm mà người bị oan đang phải “chấp hành án”, có nghĩa những giai đoạn đầu của tố tụng, Luật sư chưa thực sự được nhìn nhận và tôn trọng tương xứng với vai trò là “người chiến sĩ dấn thân vì công lý” cũng như trong việc phòng, chống án oan, sai”[167] sẽ góp phần cùng với các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách quan của VAHS, góp phần khắc phục oan, sai. Là thành phố lớn nhất Việt Nam đồng thời cũng là đầu tàu kinh tế, với những điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh hiện là nơi thu hút lao động trên 2 khắp mọi miền đất nước, trong đó lao động hoạt động trong lĩnh vực pháp lý nói chung và Luật sư nói riêng chiếm số lượng đông đảo nhất cả nước (Theo số liệu thống kê của Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh: tính đến tháng 11-2018, Thành phố Hồ Chí Minh có tổng số 8.066 Luật sư, trong đó có 5.527 Luật sư chính thức và 2.539 tập sự hành nghề Luật sư; nữ chiếm tỷ lệ 40%. Là thành phố có dân số đông nhất 8.611.100 người tính đến năm 2017 [132, tr 24] như vậy 1 Luật sư/1.558 người dân. Việc gia tăng tội phạm hình sự, trong đó số lượng các VAHS tại Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết hằng năm luôn chiếm tỷ lệ cao so với các địa phương khác [104] những năm gần đây, khiến người tham gia tố tụng ngày càng đông, dẫn đến nhu cầu nhờ Luật sư tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng lớn. Thời gian qua, có nhiều công trình liên quan đến việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của Luật sư trong các giai đoạn tố tụng nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tách bạch, từng khía cạnh, riêng lẻ về chủ thể mang tính chuyên nghiệp thực hiện quyền bào chữa như Luật sư; tách bạch riêng trong giai đoạn điều tra VAHS trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề về cơ sở lý luận; thực trạng pháp luật quy định; thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam hiện nay nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam hiện nay có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận, thực tiễn mà còn góp phần hoàn thiện PLTTHS Việt Nam; thay đổi nhận thức cơ quan, người có thẩm quyền THTT về vai trò, vị trí của Luật sư. Đây là lý do mà nghiên cứu sinh chọn đề tài “Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện nghiên cứu. 2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là xác lập luận cứ khoa học; khảo sát thực trạng về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS (từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh) nhằm hoàn thiện chế định về Luật sư trong tố tụng hình sự, nâng cao hiệu quả hoạt động của Luật sư trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhằm bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, phân tích, luận giải các vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam, làm rõ khái niệm, bản chất, chủ thể, quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam; các cơ chế đảm bảo thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư, các yếu tố tác động 3 đến việc thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam. Thứ hai, phân tích quy định của PLTTHS Việt Nam về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS. Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng về thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh xác định nguyên nhân những hạn chế, bất cập làm cơ sở cho việc đề ra những giải pháp thực hiện. Thứ tư, xây dựng và thực hiện hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam. 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật, thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận án nghiên cứu “Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” dưới khía cạnh quyền gắn liền với nghĩa vụ của NBC trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam, tập trung vào nhóm chủ thể duy nhất là Luật sư vì Luật sư gắn bó mật thiết, chuyên nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp, đạt hiệu quả cao nhất so với người bào chữa khác. - Phạm vi không gian: Nghiên cứu địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (trừ các vụ án xâm phạm môi trường và an ninh quốc gia) thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra 24 Quận, Huyện, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh; Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an C01, C03; Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Luận án tập trung nghiên cứu chủ yếu địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra với tư cách là người bào chữa và một số vấn đề có liên quan đến địa vị pháp lý của Luật sư với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự. - Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của Luật sư tại Thành phố Hồ Chí Minh trong 10 năm từ năm 2009 đến năm 2018 (gồm BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015). 4 4.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án tiến hành nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các nhiệm vụ của luận án, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: - Phương pháp điều tra xã hội học: Để làm rõ tình hình, thực trạng quy định địa vị pháp lý của Luật sư cũng như các nội dung khác liên quan đến địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS, tác giả tiến hành điều tra, khảo sát tại Thành phố Hồ Chí Minh để đánh giá thực trạng thông qua các câu hỏi điều tra xã hội học bằng các bảng hỏi. - Phương pháp thống kê hình sự: Thông qua khảo sát thực tiễn, tác giả có những số liệu và để đánh giá được thực trạng cần thiết phải sử dụng thống kê hình sự để phân tích địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Kinh nghiệm, lịch sử, quá trình thực hiện quy định địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS là nguồn tư liệu quan trọng cho việc giải quyết nhiệm vụ của luận án. Việc sử dụng phương pháp tổng kết kinh nghiệm góp phần làm cho luận án gắn kết với thực tiễn và có giá trị khoa học. - Phương pháp tọa đàm trao đổi với các chuyên gia: Trong quá trình thực hiện luận án, góp phần đưa ra những nhận xét, đánh giá khoa học, toàn diện và các giải pháp có giá trị, cần thiết phải có sự tham khảo kiến thức, kinh nghiệm của các chuyên gia lý luận và thực tiễn về TTHS. Tác giả đã sử dụng phương pháp tọa đàm, trao đổi với các chuyên gia TTHS cũng như các Luật sư, Luật gia, nhằm củng cố thêm các căn cứ cho các luận giải trong luận án. - Phương pháp lựa chọn án điển hình: Trong luận án có những nội dung tác giả không có điều kiện điều tra, khảo sát trong phạm vi toàn quốc, do đó tác giả đã sử dụng phương pháp chọn thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh để khảo sát, từ đó có thể phân tích, kết luận các nội dung liên quan. - Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh: Để có thể sử dụng được số liệu, tài liệu đã thu thập được, cần thiết phải sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh số liệu nhằm sử dụng kết quả đó chứng minh cho những luận giải, kết luận trong luận án. - Phương pháp lịch sử: phân tích lịch sử, nguyên nhân hình thành các quy định pháp luật và các vụ việc trong lịch sử có liên quan đến các quy định pháp luật để từ đó có thể hiểu được nội dung và mục đích hình thành các quy định đó. 5 5:.Những điểm mới của luận án Làm sáng tỏ cơ sở lý luận địa vị pháp lý của Luật sư, như xây dựng khái niệm địa vị pháp lý của Luật sư, chỉ ra đặc điểm và ý nghĩa, nội dung địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Làm rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật về Luật sư ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của Luật sư. Làm rõ thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc thi hành các quy định của PLTTHS về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Đề xuất các giải pháp thực hiện PLTTHS theo hướng mở rộng cho Luật sư nhiều quyền và cơ hội tham gia vào quá trình tố tụng trong sự bình đẳng với người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo đảm thực hiện, nâng cao chất lượng bào chữa của Luật sư nói chung và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói riêng, đặc biệt tác giả mong muốn kiến nghị đến cơ quan thẩm quyền văn bản hướng dẫn luật quy định tại khoản 1 điều 79 BLTTHS năm 2015: “phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa” [86, tr83] để thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước. 6:.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận án có thể bổ sung cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của người bào chữa, của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS nói riêng. Với những trình bày, phân tích cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của Luật sư; những cơ chế bảo đảm thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam, luận án sẽ là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các nhà làm luật tham khảo, nghiên cứu, xem xét hoàn thiện BLTTHS 2015, Luật Luật sư hiện hành; kiến nghị các giải pháp bao gồm ban hành những văn bản dưới luật về pháp luật tố tụng hình sự. Luận án cũng là tài liệu nghiên cứu, tham khảo hữu ích cho các nhà khoa học, các nhà làm luật, giảng viên, Luật sư, Luật gia, người bào chữa khác; hoặc sử dụng làm tài liệu giảng dạy tại cơ sở đào tạo các chức danh tư pháp. 7:.Kết cấu của luận án: Kết cấu nội dung chính của luận án bao gồm: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu. Chương 2. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Chương 3. Thực trạng địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 4. Yêu cầu, giải pháp bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật và nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài ở nước ngoài. 1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về người bào chữa, quyền có người bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự. - Cuốn sách“Brownlie’s document on the human rights” [184], tạm dịch Tài liệu của Brownlie’s về quyền con người của tác giả Ian Brownlie - Giáo sư người Anh viết năm 2010. Ian Brownlie cho rằng đây là văn kiện tổng hợp bao quát các nội dung cốt lõi, các nguyên tắc về quyền con người (QCN); cuốn sách có đề dẫn, chú thích và mục lục chi tiết, rõ ràng; nội dung về những văn kiện chuẩn xác và minh bạch, rất quan trọng về QCN, được thông qua bởi Liên Hợp Quốc và các bên liên quan, bởi những tổ chức trong khu vực và những người am hiểu về luật pháp là tài liệu không thể thiếu cho việc nghiên cứu, tham khảo về QCN. - Cuốn sách “Toward an international criminal procedure” [189], tạm dịch Hướng đến một thủ tục hình sự quốc tế của tác giả Christoph Saffeling năm 2003, Giáo sư người Đức viết với nội dung so sánh, phân tích những quy định bảo đảm các chuẩn mực quốc tế về QCN của NBBT nói chung và quyền bào chữa nói riêng, đặc biệt cuốn sách đề cập đến nội dung tạo hành lang pháp lý về xét xử công bằng và điều kiện cần thiết để Luật sư trợ giúp NBBT thực hiện quyền bào chữa của họ như việc kiểm tra chéo nhân chứng, giả định vô tội, nguyên tắc tìm lỗi của bị cáo và sự thương lượng các thủ tục tố tụng. - Bài viết “Evolution of U. S.Criminal Law” [183], tạm dịch Sự tiến hóa của Luật hình sự Hoa Kỳ của James B.Jacobs, Warren.E.Burger (Hoa Kỳ) – Giáo sư Trường Đại học Tổng hợp New York, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tội phạm và công lý tại Khoa luật, Đại học tổng hợp New York, đăng trên Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ số 1 tập 6, tháng 7/2001. Bài viết giải thích cấu trúc và cơ sở để xây dựng thủ tục TTHS là Hiến pháp Hoa Kỳ, bao gồm 10 điều bổ sung dựa trên bản Tuyên ngôn nhân quyền. Hiến pháp đảm bảo cho tất cả mọi công dân đang sinh sống tại Hoa Kỳ có quyền tự do và những quyền cơ bản. Với tinh thần chủ đạo đó, trong giới hạn của Luật hình sự Hoa Kỳ, các bị can được coi là không có tội. Các bị can không phải chứng minh sự vô tội của mình, Luật phải chứng minh được họ có tội; Quyền có Luật sư bắt đầu được thực hiện khi những người bị tình nghi trở thành bị cáo, có nghĩa là bắt đầu các thủ tục xét xử với mục đích bảo đảm cho tất cả các bị can đều có Luật sư bào chữa, 7 nếu bị can không có tiền thuê Luật sư, Tòa án sẽ chỉ định cho họ một Luật sư bảo vệ khi tiến hành phiên tòa đầu tiên; Hiến pháp bắt buộc rằng, trong nguyên tắc tìm lỗi của bị cáo, cơ quan điều tra (có thể là Bồi thẩm đoàn hoặc Thẩm phán) yêu cầu cơ quan khởi tố phải đưa ra được đầy đủ những chứng cứ đã được chứng minh rõ ràng chứ không chỉ ở mức nghi ngờ, điều này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc “bị can không bị coi là có tội”. Luật sư có quyền khai thác các nhân chứng của họ nhằm thẩm tra về những nhân chứng của phía bên kia để thẩm tra chéo (Exammination cross). Một số nghiên cứu được viết dưới góc độ so sánh và hầu hết mang tính mô tả pháp luật TTHS các nước; không ít các nghiên cứu có liên quan đến quyền tố tụng của người bị buộc tội được tiếp cận ở góc độ pháp luật quốc tế bảo đảm quyền con người. Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả một lượng kiến thức nền tảng về tố tụng công bằng; về QBC, quyền có NBC của NBBT trong TTHS quốc tế và một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Vì vậy, việc nghiên cứu toàn diện về QBC và quyền có NBC của NBBT cũng như các cơ chế pháp lý bảo đảm quyền trong sự so sánh và đối chiếu với pháp luật nước ngoài thực sự cần thiết và có ý nghĩa. 1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra; về hệ thống pháp luật các nước; về mô hình tố tụng - Liên quan đến vấn đề hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra, cuốn sách “Law and legal system of the Russian Federation” (tạm dịch “Luật pháp và hệ thống pháp luật Liên bang Nga”) [178] của Giáo sư William Burnham, xuất bản lần đầu vào năm 1999, tái bản lần thứ 5 năm 2012. Giáo sư có nhiều năm kinh nghiệm với hệ thống pháp luật Liên bang Nga, nội dung tập trung vào nhân quyền, thủ tục Tòa án, Luật hình sự và thủ tục tố tụng hình sự, Luật dân sự, thương mại và thuế. Các chương bao gồm các khía cạnh quan trọng của hệ thống pháp luật Liên bang Nga, bao gồm các nguồn luật, hệ thống tư pháp, Luật hiến pháp, quyền cá nhân, Luật dân sự và thương mại, thủ tục dân sự, Luật quốc tế tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài, thủ tục hình sự, Luật hành chính và luật thuế. Cuốn sách bao gồm những thay đổi lớn trong luật pháp Liên bang Nga kể từ ấn bản trước đó, bao gồm sự phụ thuộc nhiều vào tiền lệ tư pháp, tăng sự độc lập của các Điều tra viên hình sự từ các Công tố viên, xử lý việc lạm dụng hệ thống pháp luật của các quan chức tham nhũng và những sơ hở trong hệ thống thuế. Lần tái bản mới biên soạn cuộc đấu tranh liên tục của Tòa án Nhân quyền châu Âu và các Luật sư hoạt động của Nga nhằm thúc đẩy luật pháp Liên bang Nga hướng tới các tiêu chuẩn quốc tế. Theo đó, QBC được bắt đầu khi một người bị bắt giữ hoặc “khi có bất kỳ biện pháp tố tụng có tính cưỡng bức nào khác hoặc có hành vi tố tụng khác xảy ra xâm phạm các quyền tự do của một người bị tình nghi là phạm một tội”. Tác giả chỉ rõ “thời 8 điểm thực sự bị bắt” theo tố tụng hình sự Liên bang Nga là khi người đó “thực tế bị tước quyền tự do di chuyển”. Trong giai đoạn này, Luật sư được quyền tham gia vào hai hoạt động điều tra: i) khi xét hỏi người bị tình nghi hoặc bị can; ii) trong các hoạt động điều tra khác được thực hiện có sự tham gia của người bị tình nghi, bị can, hoạt động điều tra được thực hiện theo yêu cầu của người bị tình nghi, bị can. Cuốn sách đề cập đến vấn đề thu thập chứng cứ như việc điều tra độc lập của NBC là một trong những điểm mới nhất của Luật tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001. Cần tiếp thu và tiếp tục nghiên cứu. - “Basic principles on the role of lawyers” [149], tạm dịch Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư, được thông qua tại Đại hội lần thứ VIII của Liên Hợp Quốc về phòng chống tội phạm và đối xử với người phạm tội, tổ chức tại Havana (Cu Ba), từ 27-08 đến 07-09-1990. Các nguyên tắc trên chỉ rõ tất cả mọi người có quyền kêu gọi sự hỗ trợ của Luật sư mà họ chọn để bảo vệ quyền lợi cho họ trong suốt giai đoạn tố tụng hình sự; Chính phủ và Hiệp hội Luật sư thúc đẩy chương trình thông báo cho công chúng về các quyền và nghĩa vụ theo luật pháp và vai trò quan trọng của Luật sư trong việc bảo vệ các quyền tự do cơ bản cho họ; Chính phủ đảm bảo rằng tất cả mọi người được thông báo ngay lập tức bởi người có thẩm quyền tố tụng và họ có quyền lựa chọn Luật sư khi bị bắt giữ, tạm giam hoặc khi bị buộc tội; họ được cung cấp trợ giúp pháp lý, không trả tiền nếu họ không đủ tiền để trả cho dịch vụ này; Chính phủ đảm bảo rằng tất cả những người bị bắt giữ, giam giữ có hoặc hay không có tội sẽ được quyền mời Luật sư không trễ hơn 48 giờ kể từ thời điểm bắt giữ, giam giữ; tất cả những người bị bắt, giam giữ, cầm tù đều được cung cấp đầy đủ cơ hội, thời gian, giao tiếp và tham khảo Luật sư, không bị kiểm duyệt hoặc giám sát chỉ trong tầm nhìn. Những nội dung trên cần tiếp tục nghiên cứu. - Hội thảo quốc tế về BLTTHS năm 2003 và quyền của Luật sư bào chữa năm 2012, tác giả Tian Wen Chang - chuyên gia Trung Quốc công bố bài viết “Suy nghĩ và đánh giá tổng thể về bản dự thảo sửa đổi Luật tố tụng hình sự Trung Quốc”[185]. Bài viết đề cập đến những khó khăn trong công tác xây dựng Luật nhằm bảo đảm về mặt pháp lý và tạo bình diện mở rộng cho sự tham gia TTHS của Luật sư. Bởi lẽ, bào chữa trong VAHS là lĩnh vực hành nghề quan trọng, có những đóng góp đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bảo vệ sự công bằng trong tư pháp và thúc đẩy xây dựng hệ thống PLTTHS của Trung Quốc. Tác giả đề cập đến nội dung kiến nghị hoàn thiện TTHS của Trung Quốc. Trong đó thực hiện quy chế thẩm vấn chéo; tăng cường QBC, tạo sự cân bằng giữa cơ quan tố tụng và người bào chữa, đảm bảo cho người bào chữa tham gia xét xử một cách hiệu quả và thực chất; đề phòng trường hợp Cơ quan kiểm sát lạm dụng quyền truy tố, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của 9 người bào chữa; thực hiện tính trung lập của Tòa án, tăng quyền tham dự và quyền quyết định của cơ quan tố tụng và người bào chữa. - Sách “Outline of the U.S. Legal system, Congressional Quarterly, Inc, 2001” [186], tạm dịch Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ của tác giả Michael Jay Friedman (Hoa Kỳ) - là tài liệu đáng quan tâm nghiên cứu vì cuốn sách này đã phác họa bức tranh toàn cảnh hệ thống pháp luật Hoa Kỳ; về các Thẩm phán, Luật sư, Bồi thẩm đoàn; về thủ tục TTHS và dân sự; về Tòa án tối cao, các Tòa sơ thẩm và phúc thẩm cấp bang và liên bang. Đặc biệt, cuốn sách đề cập đến hoạt động và vai trò của Luật sư trong việc thương lượng lời khai (còn gọi là mặc cả thú tội), khi mà đổi lấy việc nhận tội, bị cáo được áp dụng pháp luật cả về nội dung và hình thức theo hướng có lợi hơn. Hoạt động này không có ở Việt Nam nhưng cũng có thể nghiên cứu để rõ hơn mức độ chủ động của Luật sư trong TTHS. - “Body of Principles for the protection of All Persons under Any Form of Detention or Imprisonment” [150], tạm dịch Khung nguyên tắc bảo hộ người bị giam giữ hoặc phạt tù dưới mọi hình thức. Đây là Nghị quyết số 43/173 ngày 09-12-1998 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc theo đó Liên Hợp Quốc đề ra các nguyên tắc nhằm bảo vệ con người chống lại sự bức cung, nhục hình, được thông báo về việc bị bắt giữ thể hiện tại: Nguyên tắc 10: Bất cứ ai bị bắt giữ sẽ được thông báo tại thời điểm bắt giữ lý do bắt giữ anh ta và sẽ được thông báo ngay lập tức về bất kỳ cáo buộc nào chống lại anh ta. Nguyên tắc 11: Một người không bị giam giữ mà không được cơ quan tư pháp hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết ngay một cơ hội hiệu quả. Người bị giam giữ có quyền tự bảo vệ hoặc được Luật sư hỗ trợ theo quy định của pháp luật; Một người bị giam giữ và Luật sư của anh ta, nếu có, sẽ nhận được thông tin liên lạc nhanh chóng và đầy đủ về bất kỳ lệnh giam giữ nào, cùng với những lý do đó; Một cơ quan tư pháp hoặc cơ quan khác sẽ được trao quyền xem xét khi thích hợp việc tiếp tục giam giữ. Nguyên tắc 21: Nghiêm cấm lợi dụng quá mức của tình trạng của một người bị giam giữ hoặc bị cầm tù vì mục đích buộc anh phải thú nhận, tự trách mình hoặc để làm chứng chống lại bất kỳ người nào khác; Không có người bị giam giữ trong khi bị thẩm vấn sẽ bị bạo lực, đe dọa hoặc phương pháp thẩm vấn làm suy giảm khả năng quyết định hoặc phán xét của mình. Một người sẽ không bị tạm giữ nếu không có cơ hội cho họ nghe quan tòa hoặc người có thẩm quyền thông báo về việc họ bị bắt giữ; Một người bị bắt, tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc được hỗ trợ bởi Luật sư theo quy định của pháp luật. - Sách “Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga” [151] do Liên hợp quốc thực hiện năm 2010 đã làm rõ cơ cấu tổ chức cơ quan tư pháp hình sự, quy định về QBC, tạo điều kiện để Luật sư tham gia bào chữa của 5 quốc gia chọn lọc. Trong đó, các vấn đề Luật sư được 10 phép sử dụng nhiều phương pháp đặc biệt để thu thập chứng cứ, cho phép Luật sư đề nghị Đoàn Luật sư địa phương yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu; hỏi cung không được ghi hình, ghi tiếng khi chưa có sự hiện diện của Luật sư được tập trung nghiên cứu. th Sách “Criminal Evidence: Principles and Cases (6 edition, 2006) [187], tạm dịch Chứng cứ hình sự của tác giả Thomas J. Gardner và Terry M. Anderson (Hoa Kỳ) - Thomas J. Gardner là Luật sư hành nghề được tôn trọng rãi với hơn 50 năm kinh nghiệm, bao gồm nhiều năm làm Luật sư phụ tá ở Milwaukee. Ông Gardner tốt nghiệp trường Luật Marquette, bang Wisconsin. Cuốn sách Criminal Evidence bao gồm các quy tắc chính của chứng cứ và khả năng áp dụng các quy tắc này trong các vấn đề hình sự. Các tác giả cung cấp cho sinh viên sự hiểu biết về các quy tắc này, tập trung vào việc đưa ra các quy tắc có thể truy cập cho các viên chức thực thi pháp luật. Cách sử dụng chứng cứ giả, chứng cứ không hợp pháp (use of false or perjured evidence) đối với những người phải áp dụng chúng vào công việc. Tác giả sẽ sử dụng nội dung trên trong phần cơ sở lý luận về quyền thu thập chứng cứ của Luật sư. - Sách “Comparative Criminal Justice Systems”, tạm dịch Hệ thống tư pháp hình sự so sánh [188] tái bản lần thứ 6, 2012 của Philip L.Reichel (Hoa Kỳ), Giáo sư trường Đại Học Kansas, Colorado, New Hampshire. Cách tiếp cận duy nhất của cuốn sách này là kiểm tra các hệ thống pháp luật, Cảnh sát, Tòa án và chỉnh sửa bằng cách sử dụng pháp luật hơn 30 quốc gia khác nhau để thể hiện sự đa dạng trong các hệ thống pháp luật trên toàn thế giới. Nội dung của cuốn sách giúp người đọc hiểu được cách thức khác nhau để quản lý và điều hành hệ thống pháp luật. Lần tái bản này có phạm vi đầy đủ hơn về truyền thống pháp lý Hồi giáo, thông tin về cải cách ở Nhật Bản, sử dụng nhiều nguồn tài liệu chính được cập nhật đầy đủ bao gồm thêm thông tin về: Đạo luật Patriot; Người Hồi giáo Sunni và Shia; Các thay đổi pháp luật và thủ tục rõ ràng cho Pháp, Đức và Nigeria; Hệ thống điều tra và phản đối; Thử nghiệm theo một thủ tục điều tra; Hệ thống tư pháp vị thành niên thay đổi ở Anh, xứ Wales và Trung Quốc. Quan tâm nhiều đến truyền thống pháp lý Hồi giáo bao gồm các mô tả chi tiết về các khía cạnh chính của nó. Phản ánh các sự kiện cập nhật trong công lý hình sự của Nhật Bản bao gồm các thay đổi đã được chính thức phê duyệt nhưng chưa được triển khai đầy đủ. Tham khảo luật thực định của nhiều quốc gia và cung cấp thông tin bổ sung cho cơ quan tư pháp hình sự của quốc gia đó và bất cứ ai quan tâm đến tư pháp hình sự trên toàn thế giới. Những nghiên cứu cho thấy mặc dù cùng chung mục đích là tìm ra sự thật, phát hiện và xử lý tội phạm nhưng truyền thống pháp luật sử dụng mô hình tố tụng khác nhau, đặt vấn đề là xem cách thức nào là tốt nhất để tìm ra sự thật. Sự khác nhau giữa 11 các mô hình tố tụng tất yếu dẫn đến sự khác nhau, trong đó có sự khác nhau về địa vị pháp lý của các chủ thể, cách thức vận hành các chức năng tố tụng, sự khác nhau về những quy định liên quan đến địa vị pháp lý của Luật sư. Mặt khác những nghiên cứu về mô hình tố tụng nói trên có những nội dung liên quan đến địa vị pháp lý của NBC, trong đó có Luật sư. Tham khảo các tài liệu trên giúp cho việc nghiên cứu của tác giả có những hiểu biết về các mô hình tố tụng và địa vị pháp lý của Luật sư trong các mô hình tố tụng đó. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện PLTTHS, địa vị pháp lý của Luật sư, phù hợp với mô hình tố tụng pha trộn và cải cách tư pháp mà Việt Nam đang hướng đến. 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước Thời gian qua, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quyền con người, QBC của NBBT, điạ vị pháp lý của Luật sư trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Các nội dung này được tiếp cận ở phạm vi rộng, hẹp khác nhau, trong đó đề cập đến địa vị pháp lý của Luật sư. Những cơ sở lý luận đó giúp cho tác giả có được cách tiếp cận đúng đắn về QBC và địa vị pháp lý của Luật sư, xác định hướng kiến nghị hoàn thiện PLTTHS trên nguyên tắc vừa bảo đảm QBC của NBBT, vừa bảo đảm lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của xã hội, bảo đảm lợi ích của cơ quan, tổ chức; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân cũng như đưa ra các giải pháp nâng cao vai trò, vị trí địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam. 1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về mô hình tố tụng, nguyên tắc tố tụng hình sự; chức năng TTHS liên quan đến địa vị pháp lý của người bào chữa, Luật sư; về quyền và địa vị pháp lý của các chủ thể trong TTHS; về quyền và địa vị pháp lý của người bào chữa, Luật sư nói chung và trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng. Tác giả chia thành 3 nhóm công trình nghiên cứu như sau: Nhóm các công trình nghiên cứu mô hình tố tụng, nguyên tắc TTHS; chức năng tố tụng hình sự có liên quan đến địa vị pháp lý của người bào chữa, Luật sư. + Luận án tiến sĩ luật học “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng” [100] của TS.Nguyễn Thị Thủy năm 2014 là công trình đầu tiên nêu lên yêu cầu đổi mới toàn diện mô hình TTHS Việt Nam theo hướng áp dụng phù hợp các yếu tố của tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên tác giả dừng lại trong việc hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam theo hướng xây dựng mô hình tố tụng pha trộn, duy trì phát huy những yếu tố tích cực của mô hình tố tụng thẩm vấn, tiếp thu những yếu tố tích cực của mô hình tố tụng tranh tụng phù hợp với điều kiện theo hướng cải cách tư pháp của Việt Nam. 12 + Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng 2012 “Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” [46]. Tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận về chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử trong tố tụng hình sự; nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện các chức năng này trong thực tiễn TTHS Việt Nam, đề xuất những giải pháp cần thiết để thực hiện có hiệu quả các chức năng của TTHS. Tuy nhiên tác giả dừng lại trong việc đánh giá chức năng từng mô hình tố tụng, các chủ thể thực hiện chức năng ấy trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân mà không đề cập đến quyền và nghĩa vụ của Luật sư. + Luận án tiến sĩ “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” [36] của tác giả Nguyễn Văn Hiển năm 2010. Luận án đã nghiên cứu toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh sự tồn tại khách quan của nguyên tắc tranh tụng trong các mô hình TTHS; khả năng xây dựng và áp dụng có hiệu quả nguyên tắc này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của PLTTHS Việt Nam mà không cần thay đổi mô hình tố tụng truyền thống. Từ đó khẳng định tầm quan trọng của chức năng gỡ tội và địa vị pháp lý của NBC theo PLTTHS Việt Nam. Tuy nhiên tác giả chỉ phân tích nguyên tắc tranh tụng trong TTHS mà không đánh giá được hiệu quả chất lượng tranh tụng ra sao nếu không có NBC tham gia tranh tụng ngay từ giai đoạn điều tra VAHS. + Mức độ đại cương có Giáo trình “Luật Tố tụng hình sự” [107] của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2006; Giáo trình “Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” [108] của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011; Giáo trình “Luật sư và nghề Luật sư” [109] của Trường Đào tạo các chức danh tư pháp năm 2001; Giáo trình “Kỹ năng giải quyết vụ án hình sự” [43] của Học viện Tư pháp (Nxb Lao động) năm 2014; Giáo trình “Kỹ năng hành nghề Luật sư” tập IV [42] của Học viện Tư pháp năm 2001. Nội dung trong các giáo trình này là những kiến thức đại cương, cơ bản về mặt pháp luật TTHS, những kỹ năng hành nghề của Luật sư, nội dung quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong VAHS. + Các bài viết có tính chất tham khảo về hoạt động tranh tụng trong TTHS như bài:“Bàn về tranh tụng trong tố tụng hình sự” của TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi [126]. + Công bố tại Hội thảo quốc tế về BLTTHS năm 2003 và quyền của Luật sư, năm 2012, TS. Lê Hữu Thể và Ths Nguyễn Thị Thủy, có bài viết “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” [96]. Bài viết phân tích chế định NBC trong TTHS Việt Nam, theo đó quá trình phát triển mô hình TTHS Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ mô hình tố tụng hình sự của Đức và Liên bang Nga. 13 Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng đã tổ chức những Hội thảo khoa học nghiên cứu về địa vị pháp lý của Luật sư như hội thảo khoa học “Cải cách tư pháp và phòng chống oan sai trong hoạt động tố tụng” [55] tổ chức tại Hà Nội ngày 2 & 3-11-2009; Trường Đại học Luật Hà Nội và UNDP cũng tổ chức hội thảo quốc tế “Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn tại Việt Nam” [130] tháng 52010. Tại các cuộc hội thảo này, nhiều Luật sư đã có những tham luận, những kiến nghị xác đáng được rút ra từ thực tiễn hành nghề, thể hiện những trăn trở, tâm huyết với hoạt động hành nghề Luật sư. +Công trình “Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015” do PGS.TS Nguyễn Hoà Bình (chủ biên) - NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016 [3]. Trong 18 công trình nghiên cứu trên, đã công bố 19 nội dung chuyên sâu; công bố 3 nội dung quan trọng i) Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo sửa đổi, bổ sung BLTTHS; ii) Những công việc triển khai xây dựng BLTTHS năm 2015; iii) Những nội dung lớn sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015. Yêu cầu đặt ra được quán triệt trong suốt quá trình soạn thảo là phải thể chế hóa đầy đủ, sâu sắc chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, Hiến pháp 2013, phải thật sự công tâm, khách quan vì cuộc sống, sự bình yên của nhân dân, vì những giá trị văn minh, tiến bộ của nền tư pháp. Trong phần tổng quan của công trình, PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình đã luận giải một số nội dung lớn sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015 như: Đổi mới chế định bảo đảm chứng cứ, chứng minh cho phù hợp với tình hình mới như thay đổi khái niệm chứng cứ theo hướng phá thế “độc quyền” trong việc thu thập chứng cứ (hiện đang chỉ giao cho cơ quan tiến hành tố tụng) theo đó bổ sung cho người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ, NBBT có quyền đưa ra chứng cứ; bổ sung nguyên tắc loại trừ chứng cứ nhằm khắc phục những biểu hiện tùy tiện, vi phạm quyền con người, quyền công dân có thể xảy ra trong quá trình chứng minh vụ án; bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, củng cố lòng tin của nhân dân vào công lý, vào sự công bằng của pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân; bảo đảm QBC của NBBT. Ngoài ra, trong công trình trên TS.LS Phan Trung Hoài bổ sung làm rõ nội dung “Về mở rộng các quyền có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa với tư cách chủ thể thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự” [3, tr 195]. Điểm lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển PLTTHS Việt Nam là đề cao địa vị pháp lý, vai trò và trách nhiệm của NBC trong TTHS. BLTTHS năm 2015 đã xây dựng chương V (gồm 13 điều), khắc phục sự không bình đẳng giữa NBC với người THTT; quyền của NBC phái sinh từ NBBT nhưng lại phụ thuộc hoàn toàn vào sự chấp nhận hay không của cơ quan THTT. Theo đó, phải đảm bảo khi nào và ở đâu có việc buộc tội thì ở đó QBC phải được thực hiện và tôn trọng. Sự buộc tội càng cao thì 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan