Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ địa vị pháp lý của hội thẩm nhân dân từ thực tiễn gia lai...

Tài liệu địa vị pháp lý của hội thẩm nhân dân từ thực tiễn gia lai

.PDF
84
91
57

Mô tả:

ĐỖ VĂN CƯỜNG VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐỖ VĂN CƯỜNG HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH KHÓA VIII HÀ NỘI - 2019 HÀ NỘI - năm VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ VĂN CƯỜNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết luận nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất lý công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tấc cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Học viên Đỗ Văn Cường LỜI CẢM ƠN Luận văn này được thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội, cơ sở tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh ĐăkLăk. Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự động viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Việt Hương đã hướng dẫn tôi thực hiện đề tài của mình. Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo, những người đã đem lại nhiều kiến thúc bổ trợ, cô vùng có ích cho tôi trong hai năm học qua. Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc, Phòng Đào tạo của Học viện cùng toàn thể cán bộ, giáo viên cơ sở Học viện tại phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân 7 1.2. Nội dung địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam 11 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân 20 1.4. Cơ chế đảm bảo địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân 25 Tiểu kết chương 1 28 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TẠI TỈNH GIA LAI 2.1. Các yếu tố đặc thù của tỉnh Gia Lai có ảnh hưởng tới địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân 29 2.2. Thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân tại tỉnh Gia Lai 33 2.3. Đánh giá chung về thực trạng địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân tại tỉnh Gia Lai 42 Tiểu kết chương 2 52 CHƯƠNG 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI 3.1. Quan điểm nâng cao địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân từ thực tiễn tỉnh Gia Lai 54 3.2. Giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân từ thực tiễn tỉnh Gia Lai 58 Tiểu kết chương 3 71 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HTND Hội thẩm nhân dân HĐXX Hội đồng xét xử MTTQ Mặt trận Tổ quốc TAND Tòa án nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp" [17]. Tòa án thực hiện chế độ xét xử sơ thẩm bắt buộc phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân (HTND). Hiến pháp 1992 quy định “việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật, khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán” [15, Điều 129]. Hiến pháp 2013 quy định “việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” [17, Điều 103]. Như vậy, HTND là những thành viên không thể thiếu trong hoạt động xét xử của mỗi vụ án. Sự tham gia của Hội thẩm thể hiện sự hiện diện của nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án. Thực tiễn công tác xét xử của Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện ở Gia Lai cho thấy, đội ngũ HTND còn bộc lộ những hạn chế, nhất là về năng lực pháp lý và kỹ năng xét xử khi tham gia phiên tòa. Hội thẩm cũng chưa thực sự độc lập với Thẩm phán khi tham gia xét xử, chủ yếu dựa vào ý kiến của Thẩm phán; Hội thẩm cũng chưa thực sự là người đại diện cho nhân dân, nói lên tiếng nói của người dân về công lý, công bằng và lẽ phải,… Những hạn chế nêu trên của đội ngũ HTND là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xét xử nói riêng và hoạt động tư pháp nói chung. Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [5], đã khẳng định Tòa án là trung tâm của cải cách tư pháp, trong đó hoạt động xét xử là trọng tâm và phải được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Như vậy, xu hướng cải cách tư pháp và những vấn đề liên quan đến chế định HTND là giải pháp vừa có tính cấp thiết, lâu dài, nhằm 1 đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, vừa giải quyết những vướng mắc bất cập hiện nay trong hoạt động xét xử. Việc nghiên cứu phải được tiến hành một cách nghiêm túc, có hệ thống nhằm làm rõ những yếu tố tích cực của chế định này, chỉ ra những vấn đề còn hạn chế trong các quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn hoạt động của HTND tỉnh Gia Lai. Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy tính cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu, vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân từ thực tiễn Gia Lai” để làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua ở nước ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân thể hiện dưới dạng đề tài khoa học, luận văn, sách chuyên khảo, bài đăng tạp chí chuyên ngành có thể kể như: Luận văn thạc sĩ của Hoàng Trí Lý (2015) “Chế định HTND trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Đại học Quốc gia Hà Nội; Trần Thị Kim Cúc (2015), "Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự", Đại học Quốc gia Hà Nội. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội. Các bài viết của Trương Hòa Bình (2012), “Một số vấn đề về chế định Hội thẩm nhân dân”, Báo Chính phủ điện tử; Trần Thị Thu Hằng (2018) “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật – Thực tiễn thực hiện và kiến nghị”, tạp chí tòa án điện tử; Trương Thị Hồng Hà – Trần Thị Bình (2017), “Quan điểm về cải cách tư pháp trong Văn kiện  Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam”, tạp chí Lý luận chính trị; Tòa phúc thẩm, Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội (2015), "Những điều kiện đảm bảo cho Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - Thực trạng và một số đề xuất kiến 2 nghị", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1, tr.36-40. Sách chuyên khảo của Vũ Hoài Nam (Chủ biên), (2017), Kỹ năng nghiệp vụ Hội thẩm dùng trong xét xử các vụ án hình sự, cẩm nang pháp luật và nghiệp vụ, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Đào Trí Úc - Vũ Công Giao (Đồng chủ biên) (2014), Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính, Sách chuyên khảo, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. Các công trình nghiên cứu kể trên là nguồn tài liệu tham khảo quý giá, đã cung cấp một khối lượng kiến thức lớn về địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân, giúp học viên hoàn thành luận văn này. Mặc dù vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu đã nêu đều chưa cập nhật đầy đủ thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp, những đổi mới trong pháp luật và thực tiễn về vai trò của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng trong thời gian gần đây. Vì vậy, việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân vẫn rất cần thiết, có giá trị về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của HTND tại tỉnh Gia Lai nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về vị trí, vai trò của HTND và địa vị pháp lý của HTND ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích, làm rõ thực trạng địa vị pháp lý của HTND tại tỉnh Gia Lai, chỉ ra các ưu điểm, phát hiện những vấn đề hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về HTND và trong thực tế hoạt động xét xử của TAND tỉnh Gia Lai, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó. 3 - Đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện địa vị pháp lý của HTND trong hoạt động xét xử tại tỉnh Gia Lai nói riêng, trên địa bàn cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu các quan điểm khoa học về HTND ; - Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về HTND và thực tiễn hoạt động của HTND trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Gia Lai; - Luận văn nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của HTND tại một số quốc gia trên thế giới. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu địa vị pháp lý của HTND qua các quy định của pháp luật và qua thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về HTND. - Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu địa vị pháp lý của HTND trên địa bàn tỉnh Gia Lai thông qua tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm TAND tỉnh Gia Lai. - Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu địa vị pháp lý của HTND trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong khoảng thời gian từ 2014- 6 tháng đầu năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học, vận dụng các quan điểm đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về nhà nước và pháp luật; công tác xây dựng 4 và hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm phải tuân theo Hiến pháp nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam và các quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Luận văn sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của HTND trong thực tiễn hoạt động xét xử của TAND ở nước ta hiện nay (chương 1); sử dụng phương pháp so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp để đánh giá khách quan, toàn diện về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về địạ vị của Hội thẩm trong thực tiễn xét xử tại tỉnh Gia Lai (chương 2); sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn đảm bảo tính thuyết phục trong các lập luận trong việc đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về HTND ở nước ta đáp ứng các yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế hiện nay (chương 3). 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về địa vị pháp lý của HTND từ thực tiễn tỉnh Gia Lai. Thông qua phân tích vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của HTND theo quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật về HTND và chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện địa vị pháp lý của HTND, luận văn đã góp phần bổ sung nhận thức lý luận về địa vị pháp lý của HTND, xây dựng hệ giải pháp toàn diện về hoàn thiện địa vị pháp lý của HTND ở Việt Nam. Luận văn cung cấp kiến thức và đề xuất có giá trị tham khảo trong nâng cao hiệu quả hoạt động của HTND tại tỉnh Gia Lai theo đúng tinh thần Chiến 5 lược cải cách tư pháp. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiếp tục hoàn thiện địa vị pháp lý của HTND ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu nội dung gồm ba chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân tại tỉnh Gia Lai Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân từ thực tiễn tỉnh Gia Lai CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân 6 1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân Nghiên cứu Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì “địa vị” là: “Vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt được coi trọng nhiều hay ít” [24, tr.321]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, địa vị pháp lý nói chung là "Tổng thể các điều kiện pháp lý mà pháp luật đòi hỏi để xác định cho một chủ thể có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập" [9,tr.150]. Trong cuốn Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp đã định nghĩa “địa vị pháp lý” của chủ thể pháp luật là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật, được thể hiện trong tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể đó, từ đó xác lập (hay giới hạn) khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình; thông qua địa vị pháp lý của chủ thể, ta có thể phân biệt được chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí, vai trò và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật [23]. Hội thẩm nhân dân là người được lựa chọn, được bầu, cử theo quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án. Với tư cách là chủ thể xét xử, Hội thẩm là người đại diện cho tiếng nói của nhân dân, và là người đưa pháp luật gần với thực tiễn hơn, làm cho các bản án, quyết định của tòa án “thấu tình, đạt lý”, vì thế cần có sự hiện diện của đại diện nhân dân trong hoạt động xét xử nhằm thu hẹp khoảng cách giữa pháp luật và cuộc sống trong hoạt động áp dụng pháp luật của tòa án khi xét xử. Trong chiến lược cải cách tư pháp tại Việt Nam đặt ra yêu cầu cải cách tổ chức hệ thống tòa án. Tòa án đóng vai trò là chủ thể trung tâm của hoạt động 7 xét xử, bảo vệ quan điểm và thực hiện quyền tự định đoạt việc sử dụng các khả năng tố tụng, tự do trình bày quan điểm, chứng cứ của các bên, bên buộc tội cũng như bên gỡ tội... đều có quyền ngang nhau thực hiện tự do trình bày chứng cứ và chứng minh vụ việc, không một chứng cứ nào có giá trị tiên quyết trong quá trình chứng minh; triệt để thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội [23,tr.130]. Như vậy, sự "vô tư", "khách quan" của Tòa án bao gồm sự "vô tư", "khách quan" của Hội đồng xét xử là Thẩm phán và các Hội thẩm. Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về địa vị pháp lý của Hội thẩm như sau: Địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của Hội thẩm được xác lập thông qua các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu tổ chức, cách thức thành lập, hoạt động của Hội thẩm và các cơ chế để đảm bảo thực hiện các quyền, nghĩa vụ của Hội thẩm khi tham gia hoạt động xét xử. 1.1.2. Đặc điểm địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân Địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân có những đặc điểm riêng có, đó là: Thứ nhất: Tại Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm ….”. Như vậy, quá trình xét xử bắt buộc phải có Hội thẩm nhân dân tham gia và Hội thẩm độc lập với Thẩm phán là những nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp, vì vậy nếu việc xét xử của Tòa án nhân dân mà không có Hội thẩm nhân dân tham gia sẽ vừa vi phạm Luật tố tụng vừa vi phạm Hiến pháp. 8 Thứ hai: Các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính đều ghi nhận nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia và Hội thẩm được xác định là một trong những người tiến hành tố tụng với vai trò đặc biệt quan trọng, là người đại diện cho quần chúng nhân dân tham gia vào trong quá trình xét xử. Với vị trí, vai trò là người tiến hành tố tụng, Hội thẩm nhân dân có một vị trí pháp lý rất quan trọng, về số lượng trong HĐXX thì số lượng Hội thẩm nhân dân luôn chiếm 2/3 trong thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm; đối với những vụ án phức tạp, tính chất nghiêm trọng, số lượng Hội thẩm nhân dân luôn là 3 người trong tổng số 5 thành viên của Hội đồng xét xử (2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm). Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán khi ra các phán quyết về vụ án, tức là Hội thẩm nhân dân cùng Thẩm phán quyết định giải quyết mọi vấn đề của vụ án từ việc nghiên cứu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, cho đến việc ra quyết định giải quyết vụ án. Như vậy, trong thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm, số lượng Hội thẩm nhân dân bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao hơn so với Thẩm phán. Đây là quy định làm cơ sở để các Hội thẩm nhân dân thể hiện nguyên tắc ngang quyền với Thẩm phán trên tinh thần dân chủ, khách quan. Thứ ba: Khi xét xử sơ thẩm bắt buộc phải có HTND, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; đối với những vụ án có liên quan đến chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo trong thành phần Hội đồng xét xử cần có Hội thẩm là những người trong dân tộc, trong tôn giáo. Khi xét xử các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên thì Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên [16, Điều 185], bởi vì họ có thể nắm bắt và am hiểu rõ nhấtvề tâm sinh lý của những người chưa thành niên – những người được pháp luật bảo vệ đặc biệt, giúp quá trình xét xử được công tâm, khách quan và đúng luật. 9 Thứ tư: Mặc dù Hội thẩm không phải là cán bộ trong biên chế Tòa án mà là người của cơ quan, tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bầu hoặc cử làm đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án, nhưng khi đã được bầu làm Hội thẩm thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi vi phạm và quyết định của mình tùy theo mức độ hậu quả mà phải chịu trách nhiệm hành chính, kỷ luật, hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hội thẩm cũng bị bãi nhiệm nếu vi phạm về phẩm chất đạo đức lối sống hoặc có hành vi vi phạm pháp luật không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của một Hội thẩm. [18, Điều 90]. Thứ năm: Hội thẩm do HĐND (cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên) bầu ra mà không phải là bất kỳ cơ quan nào khác. Điều này thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của HTND là những người được Ủy ban MTTQ lựa chọn từ những nhân tố ưu tú trong nhân dân, có uy tín và sự hiểu biết sâu rộng về phong tục tập quán ở địa phương; có cách nhìn nhận khách quan về sự kiện, vụ việc từ suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, từ đó HTND giúp tăng cường mối quan hệ giữa tòa án và nhân dân, đưa tiếng nói của nhân dân vào việc xét xử, thúc đấy việc phòng ngừa tội phạm, nâng cao công tác tuyên truyền pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân, đáp ứng được theo nguyện vọng chính đáng của nhân dân. 1.2. Nội dung địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam 1.2.1. Tiêu chuẩn của Hội thẩm nhân dân 10 Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 [18, Điều 78] quy định, tiêu chuẩn của HTND: Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực, chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, các chủ trương của Đảng, các chính sách của Nhà nước. Hội thẩm phải có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm,… nhằm giữ cho tinh thần và ý chí không bị lung lay, dao động trước những điều gây hại cho lợi ích của Nhà nước và Nhân dân. Pháp luật quy định Hội thẩm phải có kiến thức pháp luật: pháp luật quy định Thẩm phán phải có trình độ cử nhân luật trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật [18, Điều 67], đối với HTND chỉ cần có kiến thức pháp luật. Có quy định khác nhau như vậy vì Thẩm phán thể hiện tính chuyên môn, còn Hội thẩm thể hiện tính dân chủ trong Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, theo nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và “TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số” [14] nên để đảm bảo cho chất lượng xét xử, đòi hỏi Hội thẩm cũng phải có kiến thức pháp luật. Độ tuổi của Hội thẩm TAND từ 70 tuổi trở xuống đối với nam và từ 65 tuổi trở xuống đối với nữ; HTND phải đảm bảo sức khỏe về thể chất, không có dị tật, dị hình ảnh hưởng trực tiếp đến tư thế hoặc việc thực hiện nhiệm vụ của người Hội thẩm TAND; về sức khỏe tinh thần và phải là những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có tinh thần minh mẫn, không bị các bệnh về tâm thần. 1.2.2. Vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam 11 Vị trí, vai trò của HTND được thể hiện thông qua hầu hết các nội dung của chế định pháp luật về chức danh tư pháp này. Có thể xác định vị trí, vai trò nói chung của HTND theo pháp luật hiện hành của Việt Nam từ những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xét xử của TAND, trong đó bao gồm: a) Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp theo thủ tục rút gọn Nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi nhận và quy định tại Điều 65 Hiến pháp năm 1946, [12]. Điều 65 Hiến pháp năm 1980 [14]. Điều 129 Hiến pháp 1992, [15]. Theo khoản 1, 4 điều 103 Hiến pháp năm 2013, “việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” [17]. Hiến pháp năm 2013 cũng đã bỏ quy định “khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán” của điều 129 Hiến pháp năm 1992. Những sửa đổi nêu trên một mặt tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa của Hội thẩm trong hoạt động xét xử. b) Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Xét xử là hoạt động trọng tâm, đòi hỏi việc xét xử phải bảo đảm tính độc lập, vì vậy, nguyên tắc độc lập xét xử là bảo đảm quan trọng cho việc xét xử được bình đẳng, dân chủ, khách quan. Vần đề này được quy định tại Điều 100 Hiến pháp năm 1959 [13], Điều 131, Hiến pháp năm 1980 [14], Điều 130 Hiến pháp năm 1992 [15]. Tại khoản 2 điều 103 Hiến pháp năm 2013 [17] quy định: “Thẩm phán, HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Hiến pháp năm 2013 bổ sung quy định “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” [17, khoản 2, điều 103]. Quy định này thể hiện rõ ràng, dứt khoát quan điểm ngăn ngừa sự can thiệp của mọi tổ chức, cá nhân, kể cả cơ quan Đảng, Nhà nước. Sự độc lập trong xét xử của Tòa án là tất yếu khách quan trong xã hội tiến bộ, trong 12 nhà nước pháp quyền và trở thành nguyên tắc hiến định. Sự độc lập của Tòa án cũng như của Thẩm phán, Hội thẩm phải dựa trên cơ sở và trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước và xã hội tôn trọng và bảo đảm để tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập khi xét xử [7]. c) Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số quy định trong Hiến pháp năm 1980 quy định “TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số” [14, điều 132]; Hiến pháp năm 1992 quy định “TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số” [15, điều 131]. Hiến pháp năm 2013 quy định “TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”[17, khoản 4 điều 103]. Quyết định theo đa số được hiểu là trong quá trình giải quyết vụ án, khi quyết định các vấn đề của vụ án phải dựa trên kết quả biểu quyết của đa số các thành viên HĐXX cả trong trường hợp hoãn phiên tòa, tạm đình chỉ vụ án (đối với các loại án) hay trong trường hợp yêu cầu điều tra bổ sung (đối với vụ án hình sự). Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số thể hiện tính dân chủ trong quá trình giải quyết vụ án, tránh những yếu tố cá nhân, chủ quan trong, tình cảm riêng tư trong việc xét xử và đưa ra các quyết định giải quyết vụ án. 1.2.3. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý của Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam Theo quy định của pháp luật tố tụng, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND theo phân công của chánh án tòa án nơi được bầu làm Hội thẩm nhân dân. [18]. Hội thẩm có nhiệm vụ thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Với tư cách là người tiến hành tố tụng, có địa vị pháp lý là thành viên hội đồng xét xử, là chủ thể xét xử, Hội thẩm phải tuân thủ những quy định của pháp luật, tuân thủ các nguyên tắc hiến định: "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật..."[17]. 13 Hội thẩm phải có nhiệm vụ thường xuyên rèn luyện, phấn đấu để luôn đảm bảo những tiêu chuẩn mà luật pháp quy định đối với Hội thẩm: có đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, tinh thần dũng cảm kiên quyết bảo vệ công lý, có kiến thức pháp luật, có hiểu biết xã hội... Hội thẩm có nhiệm vụ tuyên truyền pháp luật, vận động, giải thích cho quần chúng nhân dân thực hiện pháp luật tại địa phương nơi mình lao động, công tác. Bên cạnh đó, Hội thẩm phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, giữ gìn bí mật công tác theo quy định của pháp luật, tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của quần chúng nhân dân. Hiến pháp năm 2013 quy định: Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nội hàm của điều này đã được quy định cụ thể hơn trong Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng hành chính và Luật tổ chức TAND. Pháp luật quy định Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán từ khi Hội thẩm được mời tham gia hội đồng xét xử sơ thẩm. Tất cả các giai đoạn và trong mọi thủ tục tố tụng giải quyết vụ án kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử , Hội thẩm độc lập và ngang quyền với Thẩm phán. Cụ thể là: Quyền nghiên cứu hồ sơ: Với địa vị pháp lý là thành viên của hội đồng xét xử, chủ thể xét xử, Hội thẩm có quyền nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa giúp Hội thẩm có quan điểm khách quan, vô tư và chuẩn bị tốt cho công tác xét xử công khai tại phiên tòa. Khi nghiên cứu hồ sơ, nếu phát hiện chưa đủ cơ sở pháp lý để quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc thấy chứng cứ chưa đủ giá trị để chứng minh hay chứng cứ thiếu tính chính xác, thì Hội thẩm có quyền đề nghị tòa án điều tra, thu thập thêm chứng cứ hoặc đề nghị hoãn phiên tòa, tạm đình chỉ hay đình chỉ xét xử vụ án. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất