VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU HÀ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. THÁI THỊ TUYẾT DUNG
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu trong luận văn “ Địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã từ thực
tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp với các đề tài
khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thu Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ ………………………....……....7
1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của đại biểu Hội đồng nhân dân và đặc điểm, vai
trò của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã……………………………………....7
1.2. Quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp xã……………………………………………………………………….11
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã…………………………………………………………………………...24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐẠI
BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN
BÀN, TỈNH QUẢNG NAM…………………………………….......….........…...29
2.1. Tình hình kinh tế xã hội Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam……………...29
2.2. Thực tiễn về địa vị pháp lý của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã trên địa
bàn Thị xã Điện Bàn……………………………………………………………32
2.3. Đánh giá chung về thực hiện địa vị pháp lý của đại biểu Hội đồng nhân dân
cấp xã từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam…………………………47
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ĐỂ TĂNG CƯỜNG ĐỊA
VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ…………….57
3.1. Quan điểm về việc bảm đảm tăng cường địa vị pháp lý của đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã giai đoạn hiện nay………………………………………57
3.2. Các kiến nghị hoàn thiện để bảo đảm tăng cường địa vị pháp lý của đại biểu
Hội đồng nhân dân cấp xã giai đoạn hiện nay từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam……………………………………………………………………..59
KẾT LUẬN………………………………………………………….........……....75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Nghĩa đầy đủ
1
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
2
HĐND
Hội đồng nhân dân
3
UBND
Ủy ban nhân dân
4
UBMTTQ
Ủy ban mặt trận tổ quốc
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
Trang
Cơ cấu quy mô đại biểu HĐND phường theo pháp luật
2.1
hiện hành12
13
Thống kê cơ cấu đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã ở thị
2.2
2.3
xã điện bàn nhiệm kỳ 2016-2021
Thống kê cơ cấu đại biểu hội đồng nhân dân cấp xã ở thị
xã điện bàn nhiệm kỳ 2016-2021
33
35
Thống kê cơ cấu đại biểu kiêm nhiệm hội đồng nhân dân
2.4
cấp xã ở thị xã điện bàn nhiệm kỳ 2016-2021
37
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Hội đồng nhân dân (HĐND) cùng với đội ngũ đại biểu HĐND ở nước ta
có vai trò rất lớn và quan trọng để đảm bảo phát huy dân chủ, góp phần đảm bảo
hoạt động của bộ máy Nhà nước hiệu lực và hiệu quả, đảm bảo quyền lực thuộc
về nhân dân. Theo đó, việc đảm bảo nâng cao địa vị chính trị, pháp lý của đại
biểu HĐND các cấp là một trong nhiều nhiệm vụ cốt lõi của Nhà nước ta ở giai
đoạn mới của bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đúng vậy, địa vị
pháp lý của Đại biểu HĐND được quy định tại Điều 115 Hiến pháp năm 2013:
“Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa
phương”.
Liên hệ đến tỉnh Quảng Nam nói chung và Thị xã Điện Bàn nói riêng,
thực hiện chủ trương của các ủy Đảng và chính quyền Nhà nước về đổi mới để
nâng cao địa vị chính trị, pháp lý của HĐND các cấp trên địa bàn thời gian qua
đã từng bước gia tăng về chất lượng và năng lực hoạt động của đại biểu
HĐND, góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực công tác HĐND ở địa
phương. Song nếu so với yêu cầu nhiệm vụ mới, hoạt động của đại biểu HĐND
trên địa bàn Thị xã vẫn còn có không ít vấn đề đặt ra như: (1) Vai trò đại diện
nhân dân của phần nhiều đại biểu HĐND cấp xã trên địa bàn Thị xã trên thực
tế bị hạn chế và hiệu quả có giới hạn, chưa tổ chức động viên các tầng lớp nhân
dân phát huy thế mạnh của địa phương phát triển kinh tế - xã hội, nên về tổng
thể là chưa thực sự phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền theo luật
định; (2) HĐND cấp xã cùng với đội ngũ đại biểu của mình hoạt động còn
mang tính hình thức, thiếu thực quyền và yếu về khả năng đại diện thay mặt
nhân dân trong việc bàn và quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương, nên
về thực chất còn chưa ngang tầm với địa vị vốn có của nó trong hệ thống cơ
quan quyền lực nhà nước ở cơ sở, cũng như với yêu cầu nhiệm vụ mà nhân
dân giao phó… Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến của những bất cập này có
1
nguyên nhân do thiếu các căn cứ lý luận và thực tiễn về nội dung và cách thức
thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan dân cử các cấp nói chung và
cấp xã nói riêng cũng như thiếu cơ sở pháp lý về thẩm quyền trên thực tế của
HĐND cấp xã. Chính vì thế, việc đảm bảo địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp
xã để thuận lợi trong hoạt động vừa là yêu cầu khách quan vừa là nhu cầu cấp
thiết.
Với những lý do nêu trên, tác giả đăng ký lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam” để thực hiện luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Bàn về địa vị hoạt động của cơ quan dân cử các cấp nói chung và nói riêng
với địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã là các vấn đề mà các nhà lãnh đạo
- quản lý, hoạch định chính sách, nhà khoa học và cả người dân luôn dành sự
quan tâm lớn. Do đó, trên thực tế có khá nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu
về nó ở nhiều khía cạnh, góc nhìn đa dạng. Điển hình, các công trình nghiên cứu
xoay quanh vấn đề này có thể nêu ra dưới đây:
Nguyễn Đăng Dung (1998). "Hội đồng nhân dân trong hệ thống cơ
quan quyền lực Nhà nước", Nxb Pháp lý. Công trình này đề cập một cách khái
quát về vị thế, chức năng, quyền hạn của HĐND nói chung.
Hoàng Huy Việt (2014), “Địa vị pháp lý và hoạt động của Đoàn đại biểu
Quốc hội – qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang”, Luận văn thạc sỹ ngành luật học,
Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội. Đây là công trình tập trung nghiên cứu về
địa vị pháp lý của Đoàn đại biểu Quốc hội và đề xuất một số phương hướng, giải
pháp để hoàn thiện hình thức tổ chức của Đoàn đại biểu Quốc hội nhằm đóng góp
vào việc nâng chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Nguyễn Phú Bình (2016), “Giám sát của Hội đồng nhân dân phường từ
thực tiễn quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội”, luận văn Thạc sỹ Luật học, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội. Công trình này nghiên cứu một số lý luận về hoạt
2
động giám sát của HĐND và thực trạng về hoạt động giám sát của HĐND cấp
phường ở quận Đống Đa từ năm 2011-2016, trình bày thực trạng về cơ chế giám
sát của HĐND hiện nay, qua đó nêu ra một số mặt tồn tại/ bất cập trong hoạt
động giám sát của HĐND cấp phường. Từ đó đề xuất một số quan điểm, giải
pháp nhằm tăng cường hoạt động giám sát của HĐND cấp phường ở quận Đống
Đa.
Lê Minh Thông (1999), "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp", đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 6/1999. Bài viết này nghiên cứu việc đổi mới cả hệ thống chính quyền
địa phương ở các cấp nói chung.
TS Văn Tất Thu (2008), "Chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước
về tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở nước ta", đăng Tạp chí Tổ chức Nhà
nước số 12/2008; Nguyễn Ký, Nguyễn Hữu Đức, Đinh Xuân Hà (Đồng chủ
biên) (2006), Đổi mới nội dung hoạt động các cấp chính quyền địa phương trong
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, Sách chuyên khảo, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội; Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Chính
quyền địa phương trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Tài liệu Hội
thảo khoa học, Tổ chức tại Hà Nội ngày 20/12.
Mai Thị Chung (2001), Nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu
HĐND, trong sách 55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Cơ quan đại
diện Bộ Nội vụ tại Đà Nẵng (2011), Các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân xã các tỉnh khu vực Tây Nguyên, Đà Nẵng.
ThS. Nguyễn Quốc Tuấn: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, đăng trên Tạp chí
Tổ chức nhà nước, số 4/2004. Bài viết này nghiên cứu giải pháp chung về hệ
thống chính quyền địa phương các cấp.
Trần Nho Thìn (2000), Đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy
3
ban nhân dân cấp xã, Luận án tiến sĩ; ThS. Nguyễn Hoàng Anh (2003), Tổ chức
và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã trong giai đoạn hiện nay, đăng
trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 5/2003; Vũ Đức Đán (2005), "Vấn đề bồi
dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân", Tạp chí
Quản lý nhà nước; Nguyễn Thúy Nga (2015), Những vấn đề lý luận và thực tiễn
về Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam, Luận án tiến sĩ
chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. v.v… Và nhiều công trình tài liệu khác có liên
quan.
Những công trình nêu trên phản ánh sự đầu tư nghiên cứu tương đối sâu
sắc và phong phú của giới lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa học và giới nghiên
cứu ở nước ta xoay quanh chủ đề đang đặt ra và chúng có giá trị kế thừa tham
khảo tốt. Tuy vậy, việc nghiên cứu chủ đề này trên địa bàn Thị xã Điện Bàn cho
đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu trùng lặp. Hơn nữa, vấn đề địa vị
pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã từ thực tiễn cấp huyện đang là chủ đề cần tiếp
tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, nên nó có ý nghĩa thời sự cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các kiến nghị giải pháp hoàn thiện việc bảo đảm tăng cường địa
vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã giai đoạn hiện nay, từ thực tiễn Thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã.
- Phân tích đánh giá thực trạng về địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp
xã từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ở thời gian qua.
- Đề xuất các kiến nghị giải pháp hoàn thiện việc bảo đảm tăng cường địa
4
vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã giai đoạn hiện nay, từ thực tiễn Thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã từ thực tiễn Thị xã Điện Bàn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung:
Địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã.
- Phạm vi không gian:
Trên địa bàn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi thời gian:
Từ năm 2011 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài luận văn được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước ta về xây d ựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về địa vị pháp lý của đại biểu
HĐND. Đồng thời, luận văn sử dụng cách tiếp cận liên ngành, tiếp cận thực tiến
để nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong trong khoa học xã
hội – nhân văn, cụ thể: phương pháp phân tích quy phạm pháp luật, phương pháp
phân tích văn bản, thu thập thông tin; phương pháp cấu trúc hệ thống; phân tích
logic tổng hợp, thống kê so sánh; phương pháp chuyên gia; phương pháp diễn
giải và quy nạp...
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần hệ thống hóa làm rõ hơn cơ sở lý
luận về địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã. Đồng thời, đề xuất một số
định hướng để bảo đảm nâng cao địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã giai
đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ tình hình thực tiễn và thực trạng về địa vị pháp lý của đại biểu HĐND
cấp xã cấp xã trên địa bàn Thị xã Điện Bàn, luận văn cung cấp luận cứ khoa
học nhằm đề xuất các kiến nghị giải pháp hoàn thiện việc bảo đảm tăng cường
địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã giai đoạn hiện nay, từ thực tiễn Thị xã
Điện Bàn.
Ngoài ra, đóng góp của kết quả luận văn nhằm cung cấp tài liệu tham
khảo cho các cấp chính quyền địa phương và cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở lĩnh vực
liên quan đến cơ quan quyền lực địa phương, HĐND các cấp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung của
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và pháp lý về địa vị pháp lý của đại biểu HĐND
cấp xã
Chương 2. Thực trạng về địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã từ
thực tiễn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện địa vị pháp lý của đại biểu HĐND
cấp xã
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐẠI BIỂU
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của đại biểu Hội đồng nhân dân và đặc
điểm, vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý đại biểu Hội đồng nhân dân
Thuật ngữ địa vị pháp lý được hiểu là vị trí của chủ thể pháp luật trong
mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định pháp luật.
Theo đó, địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật được thể hiện thành một tổng thể
các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật, mà qua đó xác lập cũng như giới hạn thẩm quyền của chủ thể trong các hoạt
động của mình.
HĐND gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên (Khoản 1, Điều 6, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015). Nên vấn đề mấu chốt của HĐND là phải bao gồm những con người ưu tú
do cử tri ở địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân
phải luôn là đầy tớ trung thành của Nhân dân. đại biểu HĐND là người đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri
địa phương và trước HĐND về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của
mình (Khoản 2, Điều 6 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015).
Do đó, đại biểu HĐND được hiểu là đội ngũ những con người ưu tú do cử
tri ở địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân địa
phương, chịu trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước HĐND về việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình.
Với đại biểu HĐND cấp xã, đó chính là đội ngũ những con người ưu tú do
7
cử tri ở địa phương cấp xã bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước HĐND cấp xã
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình.
Như vậy, địa vị pháp lý của đại biểu HĐND được hiểu là tổng hợp các
quy định của pháp luật về vị trí, chức năng và quyền hạn của đại biểu HĐND,
mà qua đó xác lập cũng như giới hạn thẩm quyền của đại biểu HĐND trong các
hoạt động của mình.
1.1.2. Đặc điểm của đại biểu HĐND cấp xã
Đại biểu HĐND cấp xã có những đặc điểm sau:
Một là, đại biểu HĐND cấp xã có đặc điểm là những công dân ưu tú sinh
sống tại địa phương là chủ yếu, xuất thân từ các hiệp hội, doanh nghiệp, những
cán bộ hưu trí, những cán bộ, công chức ở cấp xã; nhưng cũng có thể là những
người dân bình thường có uy tín của cộng đồng. Đặc điểm này không chỉ thể
hiện họ có sự gắn bó mật thiết với nhân dân, mà còn có mối quan hệ trực tiếp với
gia đình, người thân, họ tộc ở địa phương (phản ánh mối quan hệ của họ vừa có
tính thống nhất vừa có tính mâu thuẫn).
Hai là, đại biểu HĐND cấp xã được nhân dân tín nhiệm bầu ra thông qua
bầu cử (được nhân dân ở địa phương cấp xã ủy quyền và được Hiến pháp, luật
ghi nhận sự ủy quyền này), nên hoạt động của họ vừa mang tính nhà nước, vừa
mang tính xã hội bởi tính đại diện và địa vị pháp lý của đại biểu dân cử mà Hiến
pháp và pháp luật quy định. Song đại bộ phận đại biểu HĐND cấp xã ở nước ta
không phải là đại biểu chuyên trách (duy chỉ có Phó Chủ tịch HĐND cấp xã là
đại biểu chuyên trách). Đặc điểm này đặt ra nhiều thách thức không nhỏ đối với
nhiệm vụ đại biểu dân cử.
Ba là, đại biểu HĐND cấp xã có phạm vi hoạt động bao quát các lĩnh vực
kinh tế - văn hóa - xã hội ở địa phương với khối lượng công việc nhiều. Bởi cấp
xã là đầu mối giải quyết trực tiếp nhiều vấn đề của người dân sinh sống tại địa
8
bàn cơ sở (khác với cấp huyện, cấp tỉnh). Quy mô quản lý cấp xã tuy nhỏ hơn,
song lại có nhiều vấn đề phát sinh đột xuất mà nếu chậm giải quyết sẽ trở thành
vấn đề phức tạp hơn. Nên đòi hỏi phương thức hoạt động của đại biểu HĐND
cấp xã là đa dạng để đáp ứng nhiệm vụ đại biểu dân cử. Hơn nữa, các hoạt động
của đại biểu HĐND cấp xã luôn là tâm điểm của sự quan tâm từ nhân dân và
chính quyền, nên yêu cầu khách quan họ bên cạnh phải am hiểu sâu thực tiễn, đề
cao phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết, cống hiến thì phải có đủ bản
lĩnh, năng lực và các kỹ năng phù hợp với đặc thù hoạt động của cơ quan dân cử
(như: kỹ năng giao tiếp, thu thập thông tin và phân tích vấn đề; kỹ năng phản
biện, chính kiến độc lập trong phát biểu, biểu quyết, quyết định trong HĐND) để
thực hiện các chức năng của HĐND cấp xã.
Bốn là, tính nhân dân, tính quyền lực nhà nước và tính chính trị XHCN
luôn thống nhất trong hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã. Đặc điểm này đòi
hỏi phương thức hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã phải phù hợp. Bởi đại
biểu HĐND cấp xã vừa là người đại diện thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước ở địa phương, vừa phản ánh trực tiếp bản chất của Nhà nước. Song
song với đó, hoạt động của họ mang tính định hướng chính trị XHCN thông qua
các hoạt động cụ thể của mình để thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng
thành chính sách pháp luật. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN hiện nay, việc thể chế hóa đường lối của Đảng thành pháp luật XHCN
càng trở thành một trong những phương thức lãnh đạo có ý nghĩa và tầm quan
trọng đặc biệt.
1.1.3. Vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
Nhân tố quyết định trực tiếp đối với chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND thì tuỳ thuộc rất lớn vào hoạt động của đại biểu HĐND. Trong khi quyền
năng, phạm vi và kết quả hoạt động của đại biểu HĐND luôn gắn liền với địa vị
pháp lý của đại biểu HĐND xác định. Cho nên địa vị pháp lý của đại biểu
HĐND có vai trò quan trọng và trực tiếp quyết định hiệu lực, hiệu quả trong việc
9
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ hoạt động của HĐND. Hơn nữa, xuất phát vị
thế đại biểu HĐND các cấp (trong đó gồm cả cấp xã) là chủ thể trung tâm, là hạt
nhân giữ vai trò then chốt trong mọi hoạt động của HĐND, nên hoạt động của
đại biểu HĐND cấp xã có ý nghĩa quan trọng có thể tác động trực tiếp, toàn diện
đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với vai trò của đại biểu HĐND cấp
xã được thể hiện như sau:
Một là, đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân
dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân địa phương. Do đó, đại biểu
HĐND phải có liên hệ gắn bó chặt chẽ và mật thiết với cử tri để thu thập và phản
ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng của cử tri và nhân dân; là cầu nối kết chặt
mối quan hệ bền vững giữa chính quyền nhà nước với ý chí, nguyện vọng của
nhân dân và tập hợp ý kiến của cử tri và nhân dân đến được với cơ quan quyền
lực Nhà nước trở thành chính sách, pháp luật mở đường cho sự phát triển bền
vững kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh cũng như đáp ứng được ý chí,
nguyện vọng của nhân dân.
Hai là, đại biểu HĐND cấp xã thực hiện quyền chất vấn/ đề nghị giải
trình, tham gia thảo luận những vấn đề quan trọng của địa phương (như: thu chi
ngân sách, đầu tư, các công trình trọng điểm ở địa phương,...) để đi tới đồng
thuận và quyết định theo đa số về các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND cấp xã. Mặt khác, đại biểu HĐND cấp xã thực hiện chế độ tiếp xúc cử
tri, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, trả lời những yêu
cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc và giúp việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo của nhân dân. Ngoài ra, đại biểu HĐND có trách nhiệm phổ biến và vận
động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị
quyết của HĐND, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
Tóm lại, vai trò quan trọng của đại biểu HĐND cấp xã chính là trực tiếp
thực thi quyền lực nhà nước tại cơ sở và tạo cầu nối bền chặt giữa Nhà nước và
nhân dân địa phương. V.I. Lênin đã từng chỉ ra, đó là những người “Tự mình
10
công tác, tự mình áp dụng những luật pháp của mình, tự mình kiểm tra lấy
những tác dụng của luật pháp ấy, tự mình chịu trách nhiệm trước cử tri của
mình” [11; tr.375]. Có như vậy, mới có thể phòng tránh các khuyết điểm ví như
Gi.X. Min, một triết gia ở thế kỷ XIX từng nói: “Một Quốc hội có thể làm được
gì tốt đẹp, nếu các đại biểu Quốc hội của nó bị mua chuộc, hay tính dễ bị kích
động của họ không được điều chỉnh bởi kỷ luật công cộng hoặc tính tự kiềm chế
khiến họ không có khả năng thận trọng và bình tĩnh và phải dùng đến bạo lực
tay chân trên sàn nhà Quốc hội”.[13]
1.2. Quy định pháp luật hiện hành về địa vị pháp lý của đại biểu Hội
đồng nhân dân cấp xã
Hiến pháp năm 2013 đã quy định về địa vị pháp lý của HĐND, đó là: cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND
quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND (Điều
113).
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (có hiệu lực từ ngày
01/01/2016) đã góp phần thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 về địa vị pháp lý của
HĐND. Với đại biểu HĐND, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 đã quy
định rõ tiêu chuẩn chung, đó là: “Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến
pháp, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có bản lĩnh, kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền
và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ
năng lực, sức khỏe, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại
biểu; có điều kiện tham gia các hoạt động của HĐND. Liên hệ chặt chẽ với Nhân
11
dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, được Nhân dân tín nhiệm” (Điều 7).
Về quy mô đại biểu HĐND cấp xã mới đây được Quốc hội quy định tại
Điểm 1, Khoản 10 Điều 2 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ
chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019:
HĐND xã gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở xã bầu ra. Việc xác định tổng số
đại biểu HĐND xã được thực hiện theo nguyên tắc sau đây: a) Xã miền núi,
vùng cao và hải đảo có từ 2000 dân trở xuống được bầu 15 đại biểu; b) Xã miền
núi, vùng cao và hải đảo có trên 2000 dân đến dưới 3000 dân được bầu 19 đại
biểu; c) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ 3000 dân đến 4000 dân được
bầu 21 đại biểu; có trên 4000 dân thì cứ thêm 1000 dân được bầu thêm một đại
biểu, nhưng tổng số không quá 30 đại biểu; d) Xã không thuộc trường hợp quy
định tại các điểm a, b và c khoản này có từ 5000 dân trở xuống được bầu 25 đại
biểu; có trên 5000 dân thì cứ thêm 2500 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng
tổng số không quá 30 đại biểu.
Đối với HĐND phường thì quy mô đại biểu theo pháp luật hiện hành,
HĐND phường gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở phường bầu ra. Việc xác
định tổng số đại biểu HĐND phường được thực hiện theo nguyên tắc sau: a)
Phường có từ 10000 dân trở xuống được bầu 21 đại biểu; b) Phường có trên
10000 dân thì cứ thêm 5000 dân được bầu thêm 01 đại biểu, nhưng tổng số
không quá 30 đại biểu (Điểm 1, Khoản 18 Điều 58 của Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa
phương ngày 22/11/2019).
12
Bảng 2.1: Cơ cấu quy mô đại biểu HĐND phường theo pháp luật
hiện hành
Tổng số đại biểu HĐND
Luật số 47/2019/QH14
Đơn vị hành chính
Luật Tổ chức
Luật sửa đổi, bổ sung
chính quyền
một số điều của Luật
địa phương
Tổ chức Chính phủ và
2015
Luật Tổ chức chính
quyền địa phương
Phường từ 8000 dân
25
trở xuống:
Phường trên 8000
dân:
Phường
Phường
từ
Không quá 35
10000
21
dân trở xuống:
Phường trên 10000
Không quá 30
dân:
Với quy định này và bốn tiêu chuẩn căn bản đối với đại biểu HĐND cấp
xã đặt ra yêu cầu trách nhiệm cao trong ứng cử, đề cử, hiệp thương, giới thiệu.
Đây là tiền đề pháp lý để cử tri lựa chọn bầu cử đại biểu tương xứng để đảm bảo
địa vị pháp lý của đại biểu dân cử và HĐND ở giai đoạn mới.
Địa vị pháp lý của đại biểu HĐND cấp xã gắn liền với tham gia triển khai
nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã, được quy định tại Điều 61 Luật tổ chức
chính quyền địa phương 2015: (1) Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã; (2) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ
tịch HĐND và Phó Chủ tịch HĐND cấp xã, Trưởng ban và Phó ban của HĐND
cấp xã; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và
các Uỷ viên UBND cấp xã; (3) Quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên
13
địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách phường; điều chỉnh dự toán ngân sách cấp xã
trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách cấp xã. Quyết định
chủ trương đầu tư chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã theo quy định của
pháp luật; (4) Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc
thực hiện nghị quyết của HĐND cấp xã; giám sát hoạt động của Thường trực
HĐND cấp xã, UBND cùng cấp, Ban của HĐND cấp xã; giám sát văn bản quy
phạm pháp luật của UBND cùng cấp; (5) Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND cấp xã bầu theo quy định tại điều 88
và điều 89 của luật này; (6) Bãi nhiệm đại biểu HĐND cấp xã và chấp nhận việc
đại biểu HĐND cấp xã xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu; (7) Bãi bỏ một phần hoặc
toàn bộ văn bản trái pháp luật của UBND, Chủ tịch HĐND cấp xã.
Mặt khác, Luật số 47/2019/QH14 ngày 22/11/2019 của Quốc hội về Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính
quyền địa phương) đã tăng cường địa vị pháp lý của Phó Chủ tịch HĐND xã là
đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách (tại điểm 2, khoản 10 thuộc Điều 2 của
Luật số 47/2019/QH14).
Sự cụ thể hóa quyền hạn, trách nhiệm đại biểu HĐND cấp xã như sau:
1.2.1. Quyền hạn của đại biểu HĐND cấp xã
Với tư cách là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa
phương, đại biểu HĐND cấp xã có các quyền hạn:
- Quyền chất vấn:
Cụ thể hóa quy định tại khoản 2, Điều 115 của Hiến pháp 2013, Điều 96
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định:
“Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch
UBND, Ủy viên UBND, Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp. Người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu
HĐND chất vấn.
Trong thời gian HĐND họp, đại biểu HĐND gửi chất vấn đến Thường
14
- Xem thêm -