VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------
NGUYỄN VĂN ĐÁP
DI TÍCH CHÙA DẠM TRONG HỆ THỐNG
CÁC CHÙA THỜI LÝ
Ngành: KHẢO CỔ HỌC
Mã số: 9 22 90 17
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC
HÀ NỘI, 2019
Công trình được hoàn thành tại
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. TỐNG TRUNG TÍN
2. TS. TRỊNH HOÀNG HIỆP
Phản biện 1: GS.TS. NGUYỄN QUANG NGỌC
Phản biện 2: PGS.TS. BÙI VĂN TIẾN
Phản biện 3: TS. LÊ THỊ LIÊN
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp
Học viện tại Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam.
Vào hồi:
giờ , ngày
tháng
năm 201.
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện, Học viện Khoa học Xã hội.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1 PHẠM VĂN TRIỆU, ĐỖ ĐỨC TUỆ, NGUYỄN VĂN ĐÁP (2013), Khai
quật tháp Lý ở chùa Phật Tích, Tạp chí Khảo cổ học (4), tr.28-36.
2 TRỊNH HOÀNG HIỆP, NGUYỄN VĂN ĐÁP, ĐỖ TUẤN KHOA,
NGUYỄN VĂN PHONG, LƯU XUÂN THUYẾT (2015), Kết quả
khai quật chùa Đám Trì (Bắc Giang) năm 2014, Tạp chí Khảo cổ
học (6), tr.46-55.
3 NGUYỄN VĂN ĐÁP (2016), Giá trị văn hóa khảo cổ học Tây Yên Tử
và một vài định hướng bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị, Tạp chí
Khảo cổ học (1), tr.82-92.
4. NGUYỄN VĂN ĐÁP (2017), Di tích thành Xương Giang (Bắc Giang qua
tư liệu khai quật khảo cổ học, Tạp chí Khảo cổ học (4), tr.43-59.
5. NGUYỄN VĂN ĐÁP (2017), Kết quả khai quật khảo cổ khu di tích
chùa Dạm (Bắc Ninh), Tạp chí Khảo cổ học (6), tr.48-62.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
Tham gia biên soạn sách
Các Vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh, Nxb Văn hóa Dân tộc năm 2003.
Các di tích lịch sử văn hóa Bắc Ninh, Nxb Văn hóa Dân tộc năm 2004.
Văn miếu Bắc Ninh, tại Xưởng in Báo Bắc Ninh năm 2006.
Di sản văn hóa thời Lý ở Bắc Ninh, tại Xưởng in Báo Bắc Ninh năm 2008.
Các di tích tiêu biểu tỉnh Bắc Ninh, tại Công ty in Minh Đạt năm 2009.
Một số tài liệu và hiện vật di tích tiêu biểu tỉnh Bắc Ninh, tại Công ty Cổ
phần Văn hóa Hà Nội năm 2010.
Làng nghề truyền thống tỉnh Bắc Ninh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
năm 2014
Khu di tích Luy Lâu - Giá trị lịch sử văn hóa và vấn đề bảo tồn, Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch năm 2016.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chùa Dạm có tên chữ “Đại Lãm tự” nằm trên núi Dạm thuộc thôn
Tự, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Chùa do Nguyên Phi
Ỷ Lan cho xây dựng từ năm 1086 đến năm 1094 nhiều công trình nguy nga
đồ sộ theo lối đại danh lam kiêm hành cung.
Kết quả khai quật khảo cổ học chùa Dạm đã phát hiện một mặt
bằng kiến trúc chùa tháp hoàn chỉnh thời Lý - Trần, đây là trường hợp chùa
tháp thời Lý đầu tiên và duy nhất tính đến thời điểm hiện tại được tiến hành
khai quật toàn bộ mặt bằng kiến trúc.
Hệ thống di vật, hiện vật khảo cổ chùa Dạm được phát hiện trong quá
trình khai quật tương đối phong phú, mở ra nhận thức về chùa Dạm. Từ những
lý do đó, NCS chọn đề tài “Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời
Lý” để làm luận án tiến sĩ ngành Khảo cổ học, hy vọng thông qua luận án sẽ
đóng góp trực tiếp vào mảng nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di tích trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và giá trị di sản văn hóa nói chung.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Đề tài luận án sẽ tập trung đưa ra những giải thích về di tích chùa
Dạm: Mặt bằng kiến trúc, quy mô, kỹ thuật xây dựng, trang trí kiến trúc...
Thông qua kết quả khảo cổ học thu được, đề tài luận án đưa ra bằng chứng
về những lần trung tu vào thời Trần, thời Lê Trung Hưng và mặt bằng kiến
trúc thời Nguyễn cũng như các loại hình hiện vật được dùng trong di tích.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng hợp, cung cấp kết quả nghiên cứu về một số hạng mục kiến
trúc, đưa ra những nhận định về cột đá và tháp chùa Dạm sau khi so sánh
với các tháp khác cùng thời và đưa ra những nhận định bước đầu về hệ
thống tháp chùa Dạm qua kết quả khai quật khảo cổ thu được.
- Thông qua so sánh, phân tích giữa chùa Dạm, chùa Phật Tích
(Bắc Ninh), chùa Cao (Bắc Giang), di tích Ngô Xá, Long Đọi (Hà Nam),
chùa Lạng (Hưng Yên), chùa Bà Tấm (Hà Nội), chùa tháp Tường Long
(Hải Phòng)... để tìm hiểu về lịch sử kiến trúc Phật giáo Việt Nam.
1
- Phân tích, đánh giá giá trị di sản văn hóa, cung cấp cơ sở khoa học
và thực tiễn cho các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích khu di tích
chùa Dạm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các di tích, di vật khảo cổ học ở di tích chùa Dạm và một số ngôi
chùa thời Lý trên địa bàn các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hưng
Yên, Hà Nam, Hải Phòng...
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung chính vào việc trình bày về di tích chùa Dạm
(mặt bằng kiến trúc, vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí kiến trúc, đồ gốm sứ, đồ
sành...); trình bày khái quát về một số ngôi chùa thời Lý trên địa bàn các tỉnh
như: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Hải Phòng...
- Về không gian và thời gian: Di tích chùa Dạm và mối quan hệ văn
hóa với các ngôi chùa thời Lý ở Bắc Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
- Phương pháp khảo cổ học truyền thống: Đo vẽ, bản ảnh, bản vẽ,
bảng biểu.
- Phương pháp đa ngành, liên ngành: Sử học, mỹ thuật, kiến trúc,
địa lý học, dân tộc học, Hán Nôm học…
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Đóng góp vào lịch sử nghiên cứu về di tích thời Lý nói chung,
chùa Dạm nói riêng từ góc độ kiến trúc, nghệ thuật và khảo cổ học thông
qua việc phân tích thực trạng khu di tích chùa Dạm hiện được khai quật
khảo cổ học tổng thể và so sánh với các chùa, tháp thời Lý khác đã được
khai quật. Đồng thời, lý giải về hiện trạng, đặc điểm, mô hình, chức năng và
cấu trúc các di tích thời Lý.
- Luận án cung cấp những thông tin mới, đầy đủ hơn về chùa Dạm
so với những hiểu biết từ trước đến nay.
- Luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho công tác bảo vệ
và phát huy giá trị di tích chùa Dạm nói riêng, các di tích thời Lý nói chung.
2
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Căn cứ vào so sánh các đặc trưng di tích, di vật, thư tịch cổ, văn
bia, truyền thuyết dân gian... có thể xác định các dấu tích kiến trúc đã xuất
lộ là thuộc thời Lý. Di tích đã được tu bổ, sửa chữa trong thời Trần, thời Lê
và thời Nguyễn. Đây là một di tích có giá trị lịch sử - văn hóa lớn.
- Những di tích đã xuất lộ cho chúng ta thấy dấu tích một ngôi
chùa, tháp của Hoàng gia thời Lý có mặt bằng quy mô, cấu trúc khác lạ, kỹ
thuật xây dựng cầu kỳ công phu, trang trí tinh xảo vào bậc nhất so với tất cả
các ngôi chùa ở Việt Nam hiện biết.
- Mặc dù hệ thống di vật chùa Dạm đã bị thất lạc và mất mát về cơ
bản, những di vật thu được trong quá trình khai quật cũng khá phong phú.
Các di vật kiến trúc phản ảnh đặc điểm của vật liệu và nghệ thuật trang trí
chùa Dạm qua các thời, các di vật gốm sứ phản ánh lịch sử lâu dài của di
tích từ thời Lý qua thời Trần cho đến ngày nay.
- Tổng thể các di vật tìm thấy và phản ánh tính chất Hoàng gia hàng
đầu của chùa Dạm trong hệ thống chùa tháp thời Lý ở Bắc Ninh. Bên cạnh
đó, các di vật này cũng cung cấp nguồn tài liệu mang tính xác thực cao
phục vụ cho việc nghiên cứu bảo tồn tôn tạo, phục dựng di tích và phát huy
giá trị của di tích.
- Kết quả khai quật khảo cổ học tổng thể khu di tích chùa Dạm đã cung
cấp nhiều tư liệu khoa học quan trọng trong việc nghiên cứu hệ thống chùa tháp
Hoàng gia thời Lý ở Bắc Ninh nói riêng, Bắc Việt Nam nói chung cũng như bổ
sung tư liệu cho việc thiết kế xây dựng chùa Dạm (mới).
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung chính của luận án được chia thành 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài.
- Chương 2: Di tích kiến trúc và niên đại.
- Chương 3: Hiện vật và niên đại.
- Chương 4: Di tích chùa Dạm trong hệ thống các chùa thời Lý.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Vị trí địa - văn hóa
3
1.1.1. Vị trí địa lý, môi trường cảnh quan
Bắc Ninh nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng có tọa độ từ
0
’
105 54 06’’ đến 106018’50’’ kinh độ Đông, 20058’30’’ đến 210016’00’’ vĩ độ
Bắc; Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, Đông giáp tỉnh Hải Dương, Nam giáp tỉnh
Hưng Yên, Tây giáp thành phố Hà Nội.
Chùa Dạm nằm ở sườn phía Nam của dãy núi Dạm, nổi giữa những
cánh đồng, ao hồ, sông, ngòi, bờ bãi là một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ.
Nếu nhìn từ trên cao, toàn cảnh núi Dạm là một bức tranh thủy mặc hữu
tình, với cánh đồng lúa trải rộng và kéo dài đến bờ Bắc của sông Đuống.
Dòng sông Đuống cổ kính như một dải lụa mềm, uốn lượn, bao quanh một
vùng đồng bằng trù phú, quanh năm tươi tốt. Các làng mạc nằm quanh chân
núi Dạm được gọi là các “làng Dạm” gồm: Triều Thôn, Sơn Trung, Thái
Bảo, Sơn Đông, Sơn Nam, Đa Cấu, Tự Thôn, Môn Tự và Đông Dương.
Vẻ đẹp của chùa Dạm từ xưa đã được nhắc đến trong các thư tịch cổ. Sách
An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng ghi chép về núi Dạm như sau:
“Ngọn núi lởm chởm, cao vút, có thể lên cao để nhìn ra xa. Trong núi có
chùa Thần Quang trông ra sông Thiên Đức, thông bách xum xuê xanh tốt,
nhìn rất dịu mắt”.
Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú nói về núi
Dạm: “Núi Lãm Sơn ở huyện Quế Dương, có 16 xã ở quanh núi, có rất
nhiều chùa cổ, cảnh trí sông núi rất âm u tịch mịch. Trên núi là chỗ tu hành
của sư Không Lộ, dấu cũ nay vẫn còn”.
Vào thời Nguyễn, sách Bắc Ninh toàn tỉnh dư địa chí nói về chùa
Dạm: “Suối chảy vòng quanh núi. Cây cối rườm rà, trông cả vùng như một bức
tranh vẽ. Từ xưa ở đây có tiếng là cảnh danh thắng, thi nhân đề thơ rất nhiều”.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử, văn hóa
1.1.2.1. Tên gọi và địa giới tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử
Trong lịch sử xây dựng và phát triển của dân tộc, tỉnh Bắc Ninh đã
nhiều lần thay đổi về tên gọi và địa giới, đơn vị hành chính. Căn cứ vào các
nguồn tài liệu lịch sử và địa chí, thấy được sự thay đổi như sau: Thời Hùng
Vương và An Dương Vương là bộ Vũ Ninh của quốc gia Văn Lang - Âu
Lạc, đồng thời là nơi đặt quốc đô của nhà nước Âu Lạc là kinh thành Cổ
Loa (huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội). Thời thuộc Hán thuộc quận
4
Giao Chỉ. Thời thuộc Ngô thuộc quận Giao Châu. Thời thuộc Tấn thuộc
quận Giao Chỉ. Đầu đời thuộc Đường, Bắc Ninh được gộp trong địa phận
Giao Châu, Đạo Châu, Long Châu thuộc Giao Châu đô hộ phủ, sau thuộc
An Nam đô hộ phủ.
Thời Lý, vùng đất tỉnh Bắc Ninh ngày nay thuộc hai đơn vị hành
chính của Lộ Bắc Giang là: Phủ Thiên Đức; Phủ Siêu Loại. Thời Trần, Bắc
Ninh thuộc lộ Bắc Giang. Thời Hồ, Bắc Ninh thuộc lộ Bắc Giang. Thời
thuộc Minh, thuộc phủ Bắc Giang. Thời Lê thuộc Bắc Đạo: Năm Thuận
Thiên thứ nhất (1428) Lê Thánh Tông đổi là đạo Bắc Giang. Năm Quang
Thuận thứ 7 (1466) đến năm 1469 đổi là Kinh Bắc. Năm Hồng Đức thứ 21
(1490) đổi là Kinh Bắc xứ. Triều Gia Long (1802 - 1840) đổi tên là trấn
Bắc Ninh (1822) và tỉnh Bắc Ninh (1831).
Thời thuộc Pháp, vào ngày 10/10/1895, chính quyền thực dân chia
tỉnh Bắc Ninh làm hai tỉnh là Bắc Giang và Bắc Ninh. Tỉnh Bắc Ninh gồm
các đơn vị hành chính ở phía Nam sông Cầu. Các đơn vị hành chính thuộc
phía Bắc sông Cầu thuộc tỉnh mới mang tên tỉnh Bắc Giang.
Ngày 01/4/1963 hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang hợp nhất thành
tỉnh Hà Bắc. Đơn vị hành chính của tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ sáp nhập
thành tỉnh Hà Bắc, gồm: thị xã Bắc Ninh, các huyện Yên Phong, Thuận
Thành, Tiên Sơn, Quế Võ, Gia Lương. Ngày 6/11/1996, kỳ họp thứ X Quốc
hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị quyết chia
tỉnh Hà Bắc làm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang.
1.1.2.2. Lịch sử vùng đất và dân cư
Bắc Ninh là vùng đất có bề dày văn hiến. Nằm ở trung tâm châu thổ
đồng bằng sông Hồng nên từ rất sớm, nơi đây đã trở thành địa điểm tụ cư
của dân tộc Việt và được coi là “cái nôi của người Việt cổ”. Thế kỷ II-III,
thành Luy Lâu được xây dựng, thủ phủ Giao Châu đóng tại đây và trở thành
trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa lớn nhất cả nước và trong khu vực.
Bắc Ninh là chốn tổ đình của Phật giáo Việt Nam. Bắc Ninh là địa điểm
truyền bá Hán học đầu tiên của nước ta. Ngoài ra, Bắc Ninh còn là quê
hương của nhà Lý...
Bước vào kỷ nguyên Đại Việt, Bắc Ninh - Kinh Bắc là đất phên dậu
phía Bắc của Thăng Long- Đông Đô, giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong
5
việc khai mở vương triều Lý và nền văn minh Đại Việt cũng như công cuộc
bảo vệ đất nước, xây dựng và phát triển văn hóa.
Nằm tại vị trí sớm là trung tâm tụ cư của người Việt cổ, trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hóa và là một trong “tứ trấn” về sau nên Bắc Ninh đã
hình thành, truyền nối được bản sắc văn hóa riêng biệt, chính là văn hóa
Kinh Bắc.
1.2. Tư liệu và vấn đề
1.2.1. Chùa Dạm qua tài liệu cổ sử
Theo thống kê, những tư liệu thư tịch cổ ghi chép về chùa Dạm
không nhiều, tuy nhiên xâu chuỗi các sự kiện đó lại có thể giúp ta nhận định
một cách chính xác tên gọi của chùa cùng với niên đại xây dựng và lịch sử
trùng tu. Các thư tịch ghi chép về chùa Dạm gồm: Đại Việt sử ký toàn thư,
Việt Sử lược, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất
thống chí, văn bia: Đại Lãm Thần Quang tự bi ký.
Căn cứ vào các dấu tích còn lại trên thực địa, các tài liệu thư tịch và
văn bia, thì “Đại Lãm Thần Quang tự” có thể hiểu là chùa Thần Quang ở
núi Đại Lãm. Như vậy, có thể hiểu năm 1086, vua Lý Nhân Tông cho xây
chùa Lãm Sơn trên núi Đại Lãm, đến năm 1094 khi khánh thành tên chùa
được đặt là Cảnh Long Đồng Khánh, trong khoảng thời gian từ đó đến đời
vua Trần Nhân Tông, thời điểm ra đời bài thơ “Đại Lãm Thần Quang tự”,
chùa mang tên chữ là Thần Quang cho đến nay. Quy mô, kiến trúc chùa
Dạm như thế nào cho đến nay chưa có tài liệu nào đề cập đến, tài liệu chỉ
cho biết tại đây có 3 ngôi tháp chỏm bằng đá. Trong 3 cây tháp xây dựng tại
chùa Dạm, có tháp xây dựng khá lâu kéo dài 5 năm 6 tháng mới khánh
thành: năm 1088 “Mùa đông tháng 10, xây tháp ở Lãm Sơn” - năm 1094
“Mùa hạ tháng 4, tháp chùa Lãm Sơn xây xong”. Ngôi chùa xây trên núi
Lãm Sơn khi hoàn thành được vua ban tên là “Cảnh Long Đồng Khánh”.
Ngôi chùa cũng phải xây trong 8 năm (1086 - 1094) mới hoàn thành và chỉ
sau 11 năm (năm 1105) chùa lại được tôn tạo thêm cho bề thế đẹp đẽ với 3
ngọn tháp chỏm đá.
Chùa Dạm (Cảnh Long Đồng Khánh) là một trung tâm Phật giáo
lớn thời Lý đến thời Trần, đây vẫn là một Đại Danh Lam. Khi Trần Nhân
Tông (1258 - 1308) đến thăm chùa, chùa đó mang tên là Thần Quang. Các
6
tên gọi khác trong dân gian như: chùa Bà Tấm, chùa Cao, chùa Trăm Gian,
chùa Dạm thì đều là chỉ chùa Thần Quang được khởi dựng từ thời Lý
(1086) với các dấu tích vật chất còn tồn tại cho đến ngày nay.
1.2.2. Thám sát khảo cổ học năm 2009
Để phục vụ công tác đầu tư, phục hồi khu di tích chùa Dạm và yêu
cầu nghiên cứu khoa học phục vụ cho công tác bảo vệ, trùng tu tôn tạo chùa
Dạm, Bộ Trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký Quyết định số
4571/QĐ-BVHTTDL ngày 10/12/2009 cho phép Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Bắc Ninh tiến hành khai quật thăm dò khảo cổ học tại khu vực
Tam bảo chùa Dạm (cấp nền 3) với diện tích 20m2.
Đợt khai quật này, mặc dù các dấu tích kiến trúc của ngôi chùa
được khởi dựng năm 1086 chưa xuất lộ do phạm vi hố thám sát nhỏ, dấu
tích kiến trúc tìm được có niên đại muộn. Tuy nhiên, hệ thống các di vật hết
sức phong phú với đầy đủ các loại hình từ vật liệu xây dựng, vật liệu trang
trí kiến trúc, đến đồ dùng sinh hoạt, đồ thờ cúng có niên đại từ thời Lý đến
thời Lê đã thể hiện tính chất của di tích là ngôi chùa có quy mô lớn, quan
trọng trong suốt các thời kỳ lịch sử.
1.2.3. Nghiên cứu chùa Dạm
Nghiên cứu chùa Dạm được chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn
trước khi khai quật khảo cổ học (từ năm 2009 trở về trước) và giai đoạn sau
khi khai quật khảo cổ học (từ năm 2009 đến nay).
Giai đoạn thứ nhất, các nghiên cứu chủ yếu dựa vào những ghi
chép về chùa Dạm trong lịch sử cũng như căn cứ vào các phế tích hiện tồn
của chùa Dạm. Ngoài một số bài nghiên cứu về đối tượng chùa Dạm với tư
cách là một ngôi quốc tự thời Lý thì giai đoạn này các nghiên cứu chủ yếu
tập trung vào việc tìm hiểu công năng và giải mã ý nghĩa biểu tượng của cột
đá chùa Dạm.
Liên quan đến việc giải mã ý nghĩa biểu tượng của cột đá chùa
Dạm, có hai thuyết chính được nêu ra là: Cột đá chùa Dạm thực chất là
linga và cột đá chùa Dạm là phế tích của một công trình kiến trúc.
Cột đá chùa Dạm là hiện vật đặc biệt quan trọng đối với việc
nghiên cứu về chùa Dạm, ngoài ra nó còn có gia trị nghiên cứu tư tưởng mỹ
thuật Phật giáo thời Lý. Tuy nhiên, việc nghiên cứu cột đá chùa Dạm mới
7
chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể kiến trúc ngôi đại danh lam này. Những
vấn đề về tổng thể mặt bằng kiến trúc chùa Dạm nói riêng, mặt bằng kiến
trúc chùa - tháp thời Lý nói chung vẫn chưa được sáng tỏ. Để làm được
điều này, cần có kết quả của những cuộc khai quật khảo cổ học quy mô lớn
đối với di tích này.
Giai đoạn hai, di tích chùa Dạm được tiến hành khai quật tổng thể
với tổng diện tích 6.000m2 . Kết quả khai quật đã phát lộ được mặt bằng
tổng thể của chùa Dạm với 4 cấp nền, qua đó xác định được vị trí, quy mô
kiến trúc hoành tráng của chùa Dạm. Ngoài ra, kết quả khai quật còn cho
thấy một mặt bằng kiến trúc chùa tháp hoàn chỉnh thời Lý-Trần cùng nhiều
loại hình vật liệu trang trí và gốm sứ… đã cung cấp một chỉnh thể tư liệu vô
cùng quý giá cho nghiên cứu chùa tháp thời Lý-Trần, nếu không muốn nhấn
mạnh đây là trường hợp chùa tháp Lý duy nhất cho đến thời điểm hiện nay
được khai quật toàn bộ mặt bằng kiến trúc.
Có thể nói, tính đến thời điểm hiện tại, đây là nghiên cứu toàn diện,
đầy đủ nhất về tổng thể mặt bằng chùa Dạm nói riêng, mặt bằng chùa - tháp
thời Lý nói chung.
1.3. Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, NCS khái quát những vấn đề chung về vị trí địa
lý, điều kiện tự nhiên, lịch sử vùng đất và con người Bắc Ninh trong tiến
trình lịch sử của dân tộc. Tiếp đó khái quát tình hình nghiên cứu của đề tài
và bước đầu làm rõ lịch sử, vai trò, vị trí của chùa Dạm thông qua các kết
quả nghiên cứu thu thập được từ các nguồn thư tịch cổ cùng kết quả khảo
sát thực địa, kết quả của các đợt khai quật.
Qua việc nghiên cứu, xem xét, điều tra tổng thể di tích và cảnh
quan xung quanh có thể thấy, chùa Dạm là khu di tích còn khá nguyên vẹn
kể từ thời khởi dựng. Mặt bằng kiến trúc hiện còn 4 cấp nền vươn cao theo
sườn núi và được giữ nguyên trạng kể từ khi xây dựng cho đến nay. Ngoài
các cấp nền được kè đá hiện còn, dấu tích cảnh quan của các di tích liên
quan đến ngôi chùa còn khá rõ nét với các di tích như: ngòi Con Tên,
Thùng Thối, Đền Vua, Bãi Hội,... Hình thành nên một tổng thể khu di tích
liên hoàn từ sông Thiên Đức đến núi Đại Lãm, trong đó chùa Dạm giữ vai
trò là vị trí trung tâm.
8
Chương 2
DI TÍCH KIẾN TRÚC VÀ NIÊN ĐẠI
2.1. Chùa Dạm qua các dấu tích trên thực địa
Chùa Dạm sau khi bị tiêu thổ kháng chiến được người dân địa
phương dựng trên nền chùa cũ, đó là một ngôi chùa nhỏ ẩn mình dưới tán
cây bên sườn núi. Hiện trạng mặt bằng cho thấy, từ chân đồi đi lên chùa
được tạo nên bốn cấp nền kiến trúc khác nhau, chênh nhau vươn cao theo
độ cao của núi. Mỗi cấp nền được xây xếp kè bằng đá khối thẳng đứng khá
vững chắc.
Trên cảnh quan tổng thể, xung quanh còn các ngọn núi với các tên
gọi của bộ “tứ linh”. Núi Rùa, nằm bên cạnh về phía Tây của ngòi Con Tên,
núi Phượng nằm về phía Tây Bắc, núi Long có chùa Dạm và chùa Hàm
Long, núi Ly nằm về phía Đông Bắc gần với thôn Thái Bảo. Đây là những
hình ảnh địa điểm có niên đại muộn, mang tư tưởng của Nho giáo.
Hiện nay, thuộc phạm vi di tích vẫn còn các dấu tích vật chất minh
chứng cho quy mô to lớn, đồ sộ, nghệ thuật điêu khắc tinh mỹ của một Đại
danh lam thời Lý. Tuy nhiên, trước nhịp sống hối hả, quá trình đô thị hóa
diễn ra với tốc độ nhanh nên cảnh quan chùa Dạm hiện nay đã có những đổi
khác.
Qua thực địa cho thấy, trên cả 4 cấp nền dấu tích của các công trình
kiến trúc có niên đại kéo dài từ thời Lý cho đến những năm gần đây. Trong
đó nổi bật lên là hệ thống 4 cấp nền với các bờ kè bằng đá kiên cố, cột
chạm rồng bằng đá sa thạch có niên đại thời Lý, và chân móng tháp đá
chạm khắc hoa văn “thủy ba” có niên đại thời Lý đã xác định các dấu tích
vật chất của một ngôi chùa cổ có niên đại khởi dựng từ thời Lý có quy mô
lớn thuộc hàng “Đại danh lam” do triều đình xây dựng.
2.2. Địa tầng chung, mặt bằng tổng thể bốn cấp nền thời Lý
2.2.1. Địa tầng chung
- Lớp mặt: Lớp đất đồi màu nâu đỏ lẫn sạn sỏi laterite và mảnh
gạch, ngói, đá, dày trung bình từ 15cm – 180cm.
- Lớp văn hóa: Xuất hiện nhiều di vật chủ yếu là vật liệu kiến trúc
thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn dày trung bình từ 30cm – 150cm và các dấu tích
móng nền kiến trúc thời Lý.
9
- Sinh thổ: Đá gốc.
2.2.2. Mặt bằng tổng thể bốn cấp nền
Tính từ dưới lên, các cấp nền đã lần lượt xuất lộ các dấu tích kiến
trúc như sau:
2.2.2.1. Cấp nền 1
Hai phía Đông và Tây xuất lộ 2 hành lang cùng một trục với những
kiến trúc thời Lý đã xuất lộ ở cấp nền 2, 3 và 4, kiến trúc có 5 vì. Ở chính
giữa kiến trúc cấp nền 1 có 02 chân tảng, 04 hố gia cố chân tảng kép, 10 hố
gia cố chân tảng đơn (hiện còn lại 06 hố gia cố chân tảng), tạo thành 4 hàng
cột, 1 hàng 4 cột. Trong khu vực này có thành bậc đá chạm rồng, rồng
hướng về phía trong công trình kiến trúc (phía Bắc).
Ở giữa lối lên trung tâm được lát đá, hai bên được kè đá vát, dài
12,10m, rộng 3,80m. Giữa 2 hành lang Đông và Tây cấp nền 1 có 2 lối lên
cấp nền 2. Hai lối lên này còn lại từ 6 - 16 bậc đá, phía trước thành bậc có
nền gạch lát bằng gạch vuông và gạch chỉ dài, một số viên trang trí hoa cúc
dây. Tại bậc thứ nhất, bậc thứ bảy và bậc mười ba đều được đục 2 hố ở mỗi
bậc ở hai đầu Đông, Tây bậc đá.
2.2.2.2. Cấp nền 2
Xuất hiện móng tháp thời Lý chạm sóng nước và cột đá chạm rồng.
Ở hai phía Đông và Tây xuất lộ dấu vết của hai công trình kiến trúc chạy
dài theo chiều Bắc - Nam, nằm trên cùng một trục so với những kiến trúc
thời Lý đã xuất lộ ở hai phía Đông - Tây cấp nền 3, 4. Nối với công trình
kiến trúc trung tâm về phía Bắc và phía Nam là hành lang có cấu trúc 4 vì.
Công trình kiến trúc phía Đông và Tây cấp nền 2 có 2 lối lên cấp
nền 3 dài 11,10m (chiều Bắc - Nam); rộng phía dưới 2,33m; rộng phía trên
2,33 - 2,39m (chiều Đông - Tây). Hai lối lên này còn lại từ 5 - 12 bậc đá.
Phía trước thành bậc về phía Nam ở cả 2 lối lên đều có nền gạch được lát
bằng gạch chỉ.
Cột đá chạm rồng thời Lý: Hiện tượng gia cố ở cột này tương tự
như hố gia cố đặt chân tảng kê cột trong công trình kiến trúc. Như vậy, có
thể khẳng định cột đá Chùa Dạm được dựng lên đúng như vị trí ban đầu.
Móng tháp thời Lý: Cho thấy tháp có một cửa, quay về hướng
Đông phía cột đá chạm rồng. Cửa tháp nằm chính giữa cạnh phía Đông
10
tháp; lòng tháp được đắp bằng đất laterite lẫn sỏi và mảnh ngói, gạch. Kích
thước móng tháp: dài 8,46 - 8,49m (chiều Đông - Tây); dài 8,46m (chiều
Bắc - Nam). Móng tháp được ốp những hàng đá trang trí văn núi, còn lại 5
hàng.
Có hai di tích quan trọng, đó là cột đá chạm rồng ở phía Đông và
chân móng tháp đá hình vuông ở phía Tây. Hai di tích này nằm đăng đối
thẳng hàng nhau theo trục Đông - Tây, và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
trên tổng thể chung toàn bộ khu di tích. Trong đó đôi rồng ở cột đá quay
đầu chầu về hướng tháp đá, ngược lại cửa tháp quay về hướng cột đá chạm
rồng chầu.
Giếng Bống thời Lý: Giếng được đào xuống đá gốc, có độ sâu
khoảng 3,0m đến 5,0m. Hiện nay, lòng giếng đã bị cư dân lấp nhiều đất, đá
nên đã bị biến đổi nhiều. Thành giếng được kè bằng đá, đá kè thành giếng
giống với đá kè trên 4 cấp nền và đá gốc ở khu di tích chùa Dạm.
2.2.2.3. Cấp nền 3
Hành lang phía Đông và phía Tây: Hai phía Đông và Tây xuất lộ
dấu vết của hai công trình kiến trúc chạy dài theo chiều Bắc - Nam, nằm
trên cùng một trục so với những kiến trúc thời Lý đã xuất lộ ở hai phía
Đông - Tây cấp nền 1, 2, 4. Kiến trúc phía Đông xuất lộ 26 hố gia cố chân
tảng, 06 chân tảng đá chạm cánh sen ở khu vực hiên phía Đông, 03 chân
tảng đá chạm cánh sen ở gian phía Bắc. Còn kiến trúc phía Tây xuất lộ 27
hố gia cố chân tảng, 02 chân tảng đá chạm hoa sen ở hành lang phía Bắc, 02
chân tảng đá chạm hoa sen ở gian chính. Có 2 cống thoát nước nằm về phía
Tây hành lang.
Kiến trúc trung tâm: Tại trung tâm cấp nền 3 xuất lộ móng tháp và
cửa của ngôi tháp. Tháp có hướng Nam lệch Đông 150. Quy mô móng tháp
cấp dưới cùng là 7,90 x 7,90m; cửa tháp phía Nam rộng 1,60m. Móng phía
Đông dài còn lại 1,40m, rộng 70cm; móng phía Tây dài còn lại 5,20m, rộng
78cm. Có thể có 2 lối lên tháp, lối thứ nhất ở phía Đông rộng 1,60m, lối thứ
hai ở phía Tây rộng 1,27m. Móng tháp cách kiến trúc phía Đông 17,30m và
cách kiến trúc phía Tây 17m. Như vậy, tháp nằm gần như ở vị trí chính giữa
2 công trình kiến trúc ở cấp nền 3 và cũng nằm chính giữa gian chính của
kiến trúc trung tâm ở cấp nền 4.
11
Dấu tích kiến trúc thời Nguyễn: Dấu tích kiến trúc thời Nguyễn có
hướng Nam lệch Đông 150, diện tích khoảng 400m2 (chiều Đông - Tây
19m; chiều Bắc - Nam 21m) gồm 5 gian. Ba gian giữa rộng 2,70m (chiều
Đông - Tây); 1,38m (chiều Bắc Nam). Hai gian bên rộng 2,58m (chiều
Đông Tây).
2.2.2.4. Cấp nền 4
Dấu tích kiến trúc thời Lý xuất lộ các loại di tích: Bó nền, sân nền,
hố gia cố chân tảng, chân tảng... Các loại hình di tích này cấu trúc thành hệ
thống mặt bằng kiến trúc liên hoàn có niên đại thời Lý bao gồm một kiến
trúc chính ở trung tâm 5 gian, 2 chái; phía Bắc kiến trúc trung tâm có cửa
dẫn vào gian chính, hai bên có thành bậc đá chạm rồng ở hai mặt thành.
Hình tượng rồng chạm ở thành bậc có hình dáng tiêu biểu rồng thời Lý,
thân nhỏ, trơn, mình uốn... Chân rồng xòe ra 5 móng sắc nhọn. Đầu rồng
hướng về phía Nam (hướng vào trong tòa nhà - gian trung tâm). Ngoài ra
còn có hai kiến trúc nhỏ hơn liên hoàn với kiến trúc trung tâm ở hai phía
Đông và Tây.
Dấu tích kiến trúc thời Nguyễn: Có diện tích khoảng 71,28m2
(chiều Đông - Tây dài khoảng 8,80m; chiều Bắc - Nam rộng khoảng
8,10m). Công trình kiến trúc thời Nguyễn có hướng gần như trùng với
hướng của công trình kiến trúc thời Lý trước đó.
2.3. Kè đá, hố cột và hố gia cố chân tảng thời Lý
2.3.1. Kè đá thời Lý
2.3.1.1. Kè đá cấp nền 1:
Bờ kè được xếp giật 3 cấp. Giật cấp 1 cao 2,72m, giật cấp 2 cao
2,29m, giật cấp 3 lên bề mặt của cấp nền cao 2,15m. Chân của bờ kè hơi
choãi tạo thành góc chếch khoảng 700 làm tăng thêm độ vững chãi và kiên
cố cho toàn bộ bờ kè.
2.3.1.2. Kè đá cấp nền 2:
Bờ kè được xếp giật 3 cấp. Giật cấp 1 cao 1,95m, giật cấp 2 cao
1,64m thu vào so với giật cấp 1 khoảng 1,20m, giật cấp 3 cao 2,94m thu
vào so với giật cấp 2 khoảng 1,60m. Chân bờ kè hơi choãi tương tự như bờ
kẽ của cấp nền 1.
2.3.1.3. Kè đá cấp nền 3:
12
Bờ kè được xếp giật 3 cấp. Giật cấp 1 cao 1,63m, giật cấp 2 cao
2,50m thu vào so với giật cấp 1 khoảng 1,20m, giật cấp 3 cao 1,28m thu
vào so với giật cấp 2 khoảng 1,20m. Chân hơi choãi tạo độ vững chãi cho
bờ kè.
2.3.1.4. Kè đá cấp nền 4:
Bờ kè được xếp giật 3 cấp. Giật cấp 1 cao 2,30m, giật cấp 2 cao
2,40m thu vào so với giật cấp 1 khoảng 1,20m, giật cấp 3 cao 4,15m thu
vào so với giật cấp 2 1,40m. Chân bờ kè hơi choãi tương tự như bờ kè của
các cấp nền khác.
2.3.2. Hố gia cố chân cột: 158 chiếc hố, phân bố trên 3 cấp nền 2,
3, 4 (cấp nền 2: 2 hố; cấp nền 3: 15 hố; cấp nền 4: 141 hố).
2.3.3. Hố gia cố chân tảng: 218 hố gia cố chân tảng đã xuất lộ rõ
ràng, trong tổng số 254 hố gia cố chân tảng sẽ có trên toàn bộ 4 cấp nền
(những hố gia cố chân tảng đã phát hiện ở cấp nền 1: 39/50 hố, cấp nền 2:
53/76 hố, cấp nền 3: 60/76 hố, cấp nền 4: 66/68 hố).
2.4. Tiểu kết chương 2
Tính từ dưới lên, các cấp nền đã lần lượt xuất lộ các dấu tích kiến trúc:
Cấp nền 1: Hai phía Đông và Tây xuất lộ 2 hành lang thời Lý. Kiến trúc
có 5 vì.
Lối lên ở giữa và hai bên được lát đá. Hai bên lối lên được kè đá vát.
Cấp nền 2: Xuất hiện móng tháp thời Lý chạm hình núi và cột đá chạm
rồng. Ở hai phía Đông và Tây đã xuất lộ dấu vết của hai công trình kiến trúc chạy
dài theo chiều Bắc – Nam.
Giếng Bống: Giếng được đào xuống đá gốc. Thành giếng kè bằng đá.
Cấp nền 3: Ở hai phía Đông và Tây đã xuất lộ dấu vết của hai công
trình kiến trúc thời Lý chạy dài theo chiều Bắc - Nam. Kiến trúc trung tâm:
Tại trung tâm cấp nền 3 xuất lộ móng tháp và cửa của ngôi tháp.
Dấu tích kiến trúc thời Nguyễn có hướng Nam lệch Đông 150, diện
tích khoảng 400m2 gồm 5 gian.
Cấp nền 4: Hệ thống mặt bằng kiến trúc liên hoàn có niên đại thời
Lý bao gồm một kiến trúc chính ở trung tâm 5 gian, 2 chái và hai kiến trúc
nhỏ hơn liên hoàn với kiến trúc trung tâm ở hai phía Đông và Tây.
13
Dấu tích kiến trúc thời Nguyễn: Có diện tích khoảng 71,28m2.
Công trình kiến trúc thời Nguyễn có hướng gần như trùng với hướng của
công trình kiến trúc thời Lý trước đó.
Chương 3
HIỆN VẬT VÀ NIÊN ĐẠI
Hiện vật của chùa Dạm được phát hiện qua hai nguồn: Thứ nhất,
những phế tích lộ thiên còn sót lại: Cột đá, móng chân tháp đá, bờ kè đá,
chân tảng chạm cánh sen (thời Lý), bia đá (thời Lê)... Thứ hai, những hiện
vật trong lòng đất, được phát hiện sau khi tiến hành khai quật: Vật liệu
trang trí, kiến trúc, đồ dùng sinh hoạt… có niên đại kéo dài và liền mạch từ
thời Lý (thế kỷ XI) đến thời Nguyễn (thế kỷ XX). Hệ thống hiện vật là
nguồn tư liệu gốc phản ánh chân xác nhất về tình trạng, diễn biến của di
tích qua từng thời điểm lịch sử khác nhau.
3.1. Di vật lộ thiên còn sót lại
3.1.1. Bia đá
Trong phạm vi chùa hiện nay còn 2 tấm bia đá, tấm thứ nhất được
đặt trên lưng rùa ở trên bề mặt của móng tháp đá ở cấp nền 2, tấm thứ hai
hiện được đưa bảo quản tại ngôi chùa tạm ở cấp nền 3.
Tấm thứ nhất: được khắc chữ trên cả hai mặt, nhưng đã bị mờ hết,
không còn đọc được, duy nhất ở mặt sau tiêu đề còn 2 chữ “信... 施” - tín...
thí, chắc hẳn mặt này ghi tên những người công đức cho việc xây dựng,
trùng tu chùa
Tấm bia thứ hai: (bia một mặt). Bia có nhan đề “大 覧 神 光 寺 新
造 護 法” (Đại Lãm Thần Quang tự tân tạo hộ pháp - Bia ghi chép về việc
làm tượng Hộ pháp tại chùa Đại Lãm Thần Quang).
Nội dung ghi chùa Đại Lãm Thần Quang xưa vốn là nơi danh lam
cổ tích, nhưng chưa có 2 vị Hộ pháp. Bấy giờ vào ngày tốt tháng 12, có vị
Tiểu tăng trụ trì bản tự đã cùng với các Hội chủ bỏ ra tiền của hưng công
tân tạo 2 vị Hộ pháp, nhân dịp hoàn thành, nên tạc bia đá để lưu truyền.
Bia dựng vào ngày tốt tháng 9 năm Chính Hòa 17 (1696).
14
3.1.2. Chân tảng
Tổng số có 86 chân tảng còn lại phân bố trên 4 cấp nền (cấp nền 1: 13 chân
tảng; cấp nền 2: 16 chân tảng; cấp nền 3: 45 chân tảng; cấp nền 4: 12 chân
tảng).
3.1.3. Cột đá
Cột đá được coi là một trong những hiện vật điêu khắc hoành tráng,
hoàn mỹ nhất trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam, và cột đá này đã được công
nhận là bảo vật quốc gia năm 2017. Hiện nay, cột đá được đặt tại cấp nền
thứ hai bên Đông của chùa được chia làm 2 phần: Phần cột và phần bệ.
3.1.4. Móng chân đế tháp
Trên tổng thể, chân đế tháp đá còn khá nguyên vẹn. Kích thước
móng chân đế tháp, chiều Đông - Tây rộng 8,46-8,49m, chiều Bắc - Nam
rộng 8,46m. Các tảng đá xây dựng quanh chân móng tháp đều có chất liệu
sa thạch, màu nâu xám, hoặc nâu hồng, có chạm khắc hoa văn sóng nước
nằm chồng xếp lên nhau.
3.2. Di vật được phát hiện trong quá trình khai quật khảo cổ
học
3.2.1. Vật liệu kiến trúc
Gồm các hiện vật có niên đại kéo dài từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII XIX như: Gạch, ngói, mô hình tháp đất nung, đao ngói, đầu phượng, gạch ốp…
3.2.2. Đồ gốm men
Hiện vật gồm loại hình như: Bát, đĩa, chậu, chén, chậu, vò, đèn, bát
hương, lư hương..., được phân chia theo niên đại. Chúng tôi không phân
chia theo chức năng là đồ gia dụng và đồ thờ vì phân loại kiểu này chỉ mang
tính khai quát, vì có nhiều loại hình hiện vật như: bát, đĩa, âu, chén, đèn...
đôi khi vừa được dùng là đồ gia dụng vừa được dùng trong việc thờ tự.
3.2.3. Sành mịn
Gồm các hiện vật như: Nồi, chậu, vò, bát, bình… hiện vật có niên
đại trải dài từ thời Lý (thế kỷ XI) đến thời Nguyễn (thế kỷ XIX).
3.3. Tiểu kết chương 3
- Về hiện vật: Tổng số hiện vật thu được khá nhiều và phong phú
với nhiều tiêu bản hiện vật là mảnh v của vật liệu xây dựng, trang trí kiến
trúc, đồ dùng sinh hoạt, các hiện vật liên quan đến chất liệu đất nung, gạch,
15
gói, gốm, gốm men, sành mịn, kim loại và đá, trong đó chúng tôi lựa chọn
các tiêu bản tiêu biểu để miêu tả chi tiết. Các sưu tập hiện vật có từ thời Lý,
Trần, Lê Sơ, Lê Trung Hưng, Nguyễn…
- Về niên đại: Di tích chùa Dạm chứa nhiều hạng mục công trình
kiến trúc khác nhau, niên đại hiện vật ở mỗi vị trí, cấp nền đào cơ bản có sự
đồng nhất về chất liệu như: Đá (chân tảng, trang trí); đất nung (trang trí kiến
trúc); vật liệu xây dựng (gạch, ngói)... Qua nghiên cứu sưu tập thu được có
niên đại từ thời Lý cho đến thời cận hiện đại, tương ứng với giai đoạn xây
dựng và tồn tại của công trình. Trong đó, hiện vật thuộc thời Lý vẫn chiếm
số lượng lớn, riêng vật liệu kiến trúc chiếm 66.47 , bên cạch đó còn thu
được một số đồ gốm men Trung Quốc từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XX.
Chương 4
DI TÍCH CHÙA DẠM TRONG HỆ THỐNG
CÁC CHÙA THỜI LÝ
4.1. Hệ thống chùa, tháp thời Lý
Nhà Lý xây dựng nhiều công trình kiến trúc tại các địa phương
trong cả nước, trong đó đáng chú ý nổi bật là các chùa tháp, hành cung,
chùa kiêm hành cung. Đến nay, khảo cổ học đã khai quật và nghiên cứu tại
những địa điểm có các di tích của thời Lý như sau:
4.1.1. Địa điểm núi Ngô Xá
Địa điểm này được đào thám sát lần đầu tiên vào năm 1965, sau đó
từ tháng 12/1966 đến tháng 3/1967 Đội Khảo cổ học (tiền thân của Viện
Khảo cổ học ngày nay) tiến hành khai quật trên tổng toàn bộ diện tích của
các hố khai quật, 1.036m2, đã tìm được các di tích có niên đại từ thời Lý.
4.1.2. Địa điểm tháp Tường Long
Được khai quật 3 lần vào các năm 1978, 1998 và 2009 do Viện Khảo cổ
học phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện, đã làm rõ được các phế
tích nền móng của chùa và cây bảo tháp được xây dựng bằng gạch, có niên
đại thuộc thời Lý..
4.1.3. Địa điểm chùa Lạng
Được Viện Khảo cổ học khai quật năm 1972 và năm 1973, đã tìm
được 6 lớp kiến trúc, trong đó lớp kiến trúc thứ nhất mặt bằng hình tứ giác
gần vuông thuộc thời Lý, có niên đại khoảng năm 1115.
16
4.1.4. Địa điểm đền Cầu Từ
Trong các năm 2006, 2007 và 2009, Viện Khảo cổ học phối hợp
với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang tiến hành khai quật địa
điểm này đã tìm được nhiều di vật là vật liệu kiến trúc và đồ dùng sinh hoạt
có niên đại của thời Lý và thời Trần. Đặc biệt đã phát hiện được một số nền
móng di tích kiến trúc được xác định thuộc thời Lý thế kỷ XII.
4.1.5. Địa điểm chùa Cao
Chùa Cao (Hưng Phúc tự) được phân biệt với chùa Thấp (Khám Lạng tự),
bởi chùa Cao năm trên đỉnh "Đồi chùa", còn chùa Thấp nằm cạnh làng Bến,
dưới chân đồi cách chùa Cao khoảng 500m về phía Đông Nam. Chùa Cao
thuộc thôn Hòa Nội, làng Nồi, xã Khám Lạng, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc
Giang. Di tích này được điều tra, khảo sát, khai quật vào các năm 1989,
1997, 1999 và năm 2013.
4.1.6. Địa điểm chùa Phật Tích
Cuối năm 2008 đầu năm 2009, trong quá trình trùng tu xây dựng
chùa Phật Tích đã phát hiện dấu tích móng tháp được xây dựng bằng gạch
có niên đại thuộc thời Lý. Bình đồ chân móng tháp gồm 4 bức tường nằm
theo 4 hướng Đông - Tây - Nam - Bắc, trong đó hướng nam thẳng với
đường “chính đạo” với các bậc đá dẫn lên chùa.
Các tường móng tháp uốn cong lên ở 4 góc kiểu đao đình, được xây
dựng bằng gạch có khắc chữ “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ
niên tạo” (năm 1057), hoàn toàn không thấy một viên gạch nào có niên đại
khác.
4.1.7. Địa điểm chùa Linh Xứng
Từ tháng 10/2009 đến tháng 11/2009, Viện Khảo cổ học đã phối
hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa khai quật địa
điểm chùa Linh Xứng do Thái úy Lý Thường Kiệt xây dựng năm 1126 trên
núi Ngư ng Sơn.
4.1.8. Địa điểm chùa Long Đọi Sơn
Năm 2001, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)
lần đầu tiên tiến hành khai quật nhằm xác định vị trí, quy mô và dấu tích có
liên quan đến cây bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh thời Lý đã được ghi chép
trong văn bia.
17
- Xem thêm -