Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Di chúc chung của vợ, chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam...

Tài liệu Di chúc chung của vợ, chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam

.PDF
93
755
107

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THU HIỀN DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THU HIỀN DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự Mã số: 603830 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Trung Tập HÀ NỘI – 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đỗ Thu Hiền MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt 1.1. Mở đầu 1 Chương 1 - Khái niệm quyền thừa kế và thừa kế theo di chúc 5 Khái niệm quyền thừa kế 5 1.1.1. Quyền thừa kế theo nghĩa khách quan 5 1.1.2. Quyền thừa kế theo nghĩa chủ quan 7 1.2. Khái niệm thừa kế theo di chúc và di chúc chung của vợ, chồng 1.2.1. Khái niệm thừa kế theo di chúc 9 9 1.2.2. Khái niệm di chúc chung của vợ, chồng 1.3. Tiến trình phát triển pháp luật quy định về di chúc chung của vợ chồng28 22 1.3.1. Trước năm 1990 28 1.3.2. Từ năm 1990 đến năm 1995 31 1.3.3. Từ năm 1995 đến năm 2005 32 1.3.4. Từ năm 2005 đến nay 34 Chương 2 - Lý luận về di chúc của vợ, chồng 2.1. và hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ, chồng 35 Lý luận chung về di chúc chung của vợ chồng 35 2.1.1. Quyền lập di chúc chung của vợ, chồng 35 2.1.2. Tài sản chung của vợ, chồng 36 2.1.3. Hình thức, nội dung và mục đích của di chúc chung của vợ, chồng 46 2.1.4. Việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng48 2.2. Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng 49 2.2.1. Điều kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng 49 2.2.2. Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng 53 Chương 3 - Thực trạng pháp luật quy định về di chúc 3.1. chung của vợ, chồng và giải pháp hoàn thiện pháp luật 57 Thực trạng pháp luật quy định về di chúc chung của vợ, chồng 57 3.1.1. Quyền lập di chúc chung của vợ, chồng 57 3.1.2. Về di sản chia thừa kế 58 3.1.3. Việc thừa kế lẫn nhau giữa vợ và chồng; người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc. 60 3.1.4. Về hiệu lực của di chúc 62 3.1.5. Hình thức của di chúc chung của vợ, chồng 65 3.1.6. Việc thay thế, bổ sung, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng 67 3.1.7. Chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung của vợ, chồng 70 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật 3.2.1. Nên hay không công nhận việc lập di chúc chung của vợ,chồng 71 71 3.2.2. Một số kiến nghị đối với các quy định về di chúc chung của vợ, chồng 74 3.2.3. Kiến nghị cụ thể 77 Kết luận 81 Tài liệu tham khảo 83 Phụ lục DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật Dân sự TAND: Toà án nhân dân K: Khoản Đ: Điều MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chế định về quyền thừa kế là một trong số những chế định quan trọng trong BLDS năm 2005. Các quy định về thừa kế được quy định tại Phần thứ IV BLDS năm 2005, từ Đ631 đến Đ687. Khi xã hội phát triển về mọi mặt, trong đó có hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ để tạo ra của cải vật chất. Hơn nữa, Nhà nước cho phép tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đa dạng các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó sự phân công lao động trong xã hội và chuyên môn hóa sản xuất ngày càng cao. Tài sản của mỗi cá nhân được xác lập do hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ thuộc các thành phần kinh tế ngày càng lớn và đa dạng. Do vậy, khi một cá nhân qua đời thì việc hưởng di sản của người đó trở thành một vấn đề lớn trong xã hội, được nhiều người quan tâm. Các tranh chấp liên quan đến quan hệ nhận và chuyển giao tài sản của người chết xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Các tranh chấp về thừa kế thường phức tạp vì đó là những tranh chấp về lợi ích và di sản thừa kế của những người thân thích trong cùng gia đình, dòng họ. Giải quyết các tranh chấp về thừa kế không đơn giản, không phải lúc nào Tòa án nhân dân các cấp cũng giải quyết một cách thỏa đáng các tranh chấp đó. Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Hình thức chia thừa kế theo di chúc là hình thức chia thừa kế trong đó ý chí của người để lại di sản được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ thông qua các quy phạm pháp luật. Bên cạnh di chúc cá nhân pháp luật Việt Nam còn quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Quy định này làm phức tạp thêm việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Vì 1 tính đa dạng, phong phú của khối tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng nên vợ, chồng định đoạt tài sản theo di chúc chung chỉ là ý chí chủ quan của họ, nguyện vọng của họ, và sau khi họ qua đời, việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến di chúc chung không phải bao giờ cũng thấu tình đạt lý. Vì vậy, học viên lựa chọn đề tài: “Di chúc chung của vợ, chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam” để thực hiện luận văn cao học Luật, nhằm đáp ứng về mặt lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài. Do vậy đề tài có tính cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tính đến thời điểm hiện nay về thừa kế ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu đáng kể nhất là những công trình sau: - Thừa kế của công dân Việt Nam từ 1945 đến nay, Nxb Tư pháp 2004, sách chuyên khảo của TS. Phùng Trung Tập - Luật Thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội 2007, sách chuyên khảo của TS. Phùng Trung Tập - Thừa kế theo di chúc, luận án tiến sỹ của Phạm Văn Tiết - Những quy định chung về quyền thừa kế, luận án tiến sỹ của Nguyễn Minh Tuấn - Di sản thừa kế, Luận án tiến sỹ của Trần Thị Huệ - Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ 1999, sách chuyên khảo của Nguyễn Ngọc Điện Ngoài các công trình trên còn có các công trình nghiên cứu về những quan hệ cụ thể như: thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế, thừa kế thế vị, … của các tác giả: Phùng Trung tập, Nguyễn Minh Tiết, Trần Thị Huệ… được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành: tạp chí Luật học, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tạp chí Tòa án nhân dân… Tuy nhiên các công trình nói trên chỉ giải quyết quan hệ thừa kế theo di chúc và theo pháp luật nói chung hoặc giải quyết những vấn đề cụ thể trong 2 quan hệ thừa kế di sản mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về di chúc chung của vợ, chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam nên học viên lựa chọn đề tài: “Di chúc chung của vợ, chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam” để nghiên cứu chuyên sâu về một vấn đề hẹp nhưng phức tạp ở nước ta hiện nay. 3. Phương pháp nghiên cứu đề tài Khi nghiên cứu đề tài học viên đã sử dụng phối hợp các phương pháp: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp so sánh. Thông qua việc sử dụng các phương pháp nói trên học viên có cái nhìn biện chứng về các hiện tượng có liên quan đến đề tài. Khi phân tích và làm sáng tỏ các vấn đề cần thiết học viên luôn nhìn nhận chúng trong mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau và không tách rời chúng ra nhằm chỉ rõ bản chất, điều kiện hình thành, tồn tại và phát triển của các vấn đề đó. Bên cạnh đó phương pháp duy vật lịch sử được học viên sử dụng để nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển các quy phạm pháp luật về di chúc chung của vợ, chồng. Trên cơ sở đó học viên có thể so sánh các quy định đó với nhau để có thể tổng hợp rút ra kết luận nhằm đưa ra kiến nghị cụ thể, hợp lý để từng bước hoàn thiện các quy định về di chúc chung của vợ, chồng. 4. Mục đích nghiên cứu đề tài Nhằm xác định cụ thể di chúc chung của vợ, chồng và hiệu lực pháp lý của di chúc chung do vợ, chồng lập ra. Đồng thời có so sánh liên hệ để nhằm làm nổi bật đặc điểm về hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng. Qua đó, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về di chúc chung của vợ, chồng ở tính phù hợp, mức độ phù hợp với đời sống thực tế. Nhằm đánh giá hiệu quả điều chỉnh của pháp luật quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Qua việc phân tích này đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật 3 Việt Nam quy định về di chúc chung của vợ, chồng giúp cho cơ quan lập pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Hơn nữa, đây còn là một tài liệu để giúp cho việc nghiên cứu, học tập di chúc chung của vợ, chồng trong các trường đào tạo luật và Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay. 5. Những điểm mới của luận văn - Luận văn đã giải quyết được về mặt lý luận liên quan đến di chúc chung của vợ, chồng cũng như hiệu lực của loại di chúc này. - Luận văn chỉ ra những bất cập trong những quy định về di chúc chung của vợ, chồng trong BLDS năm 2005. - Luận văn xây dựng được khái niệm và đặc điểm của di chúc chung của vợ, chồng. - Luận văn đã hệ thống hóa toàn diện về những quy định của pháp luật về di chúc chung của vợ, chồng. - Với những kết quả nghiên cứu trong luận văn đã là căn cứ khoa học, đáp ứng được những yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn để giúp cơ quan lập pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật quy định về di chúc chung của vợ, chồng. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được cấu tạo bởi ba chương: Chương 1 – Khái niệm quyền thừa kế và thừa kế theo di chúc Chương 2 – Lý luận về di chúc chung của vợ, chồng và hiệu lực pháp luật di chúc chung của vợ, chồng Chương 3 – Thực trạng pháp luật quy định về di chúc chung của vợ, chồng và giải pháp hoàn thiện pháp luật 4 Chương 1 KHÁI NIỆM QUYỀN THỪA KẾ VÀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC 1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN THỪA KẾ 1.1.1. Quyền thừa kế theo nghĩa khách quan Quyền thừa kế theo nghĩa khách quan là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế. Các quy phạm pháp luật về thừa kế thể hiện ý chí của Nhà nước, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm bảo vệ các quan hệ nảy sinh trong việc định đoạt tài sản của cá nhân bằng di chúc, nhận di sản và việc phân chia di sản theo quy định của pháp luật. Vấn đề thừa kế trước đây chủ yếu được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức nhưng do tính chất quan trọng và sự phát triển ngày càng phức tạp của quan hệ này mà Nhà nước cần phải can thiệp bằng các quy phạm pháp luật. Theo đó, Nhà nước đưa ra quy định, các chủ thể trên cơ sở các quy định đó thể hiện ý chí của mình; pháp luật cho phép các chủ thể tự do bày tỏ ý chí, tự do thoả thuận các vấn đề có liên quan nhưng sự tự do ấy phải trong khuôn khổ pháp luật. Chế định về thừa kế đã được quan tâm từ rất sớm ngay từ khi Nhà nước bắt đầu có các văn bản luật thì vấn đề thừa kế đã được nhắc đến. Các quy định ban đầu tuy đơn giản nhưng là tiền đề cho sự phát triển chế định về thừa kế về sau. Tại BLDS 2005 các vấn đề về thừa kế quy định tại phần thứ tư, bao gồm từ chương XXII đến chương XXV; Trong đó chương XXII: Những quy định chung, chương XXIII: Thừa kế theo di chúc, chương XXIV: Thừa kế theo pháp luật, chương XXV: Thanh toán và phân chia di sản 5 Chế định thừa kế quy định có hai cách để định đoạt phần di sản của người chết cho người khác còn sống: người có tài sản lập di chúc để định đoạt tài sản hoặc theo một trình tự nhất định của pháp luật. Tương ứng với hai cách đó, có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Với quy định như vậy pháp luật dân sự trước hết tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể, chủ thể có quyền lập di chúc định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Khi người lập di chúc chết đi thì phần di sản được định đoạt trong di chúc sẽ được phân chia cho những người thừa kế (là những người được người lập di chúc định đoạt tài sản cho, người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc) theo đúng ý chí của người lập di chúc. Nếu trong trường hợp không có di chúc, di chúc không hợp pháp hay trường hợp khác theo quy định của pháp luật thì khi đó pháp luật mới tham gia điều chỉnh để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lập di chúc, những người thừa kế và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Chia thừa kế theo pháp luật di sản được chia đều cho những người thừa kế. Người thừa kế là những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng (phạm vi những người này được gọi là diện thừa kế); Diện những người thừa kế được xếp thành hàng thừa kế, có ba hàng thừa kế: - Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; - Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. - Hàng thừa kế thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 6 Khi phân chia di sản thừa kế tuân theo nguyên tắc: Di sản thừa kế chỉ được chia cho một hàng thừa kế theo thứ tự ưu tiên 1,2,3; Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau, những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Chế định về quyền thừa kế là một trong số những chế định quan trọng trong BLDS năm 2005. Các quy định về thừa kế được quy định tại Phần thứ IV BLDS năm 2005, từ Đ631 đến Đ687. Theo sự phát triển của pháp luật Việt Nam, các quy phạm pháp luật dân sự đã có nhiều thay đổi theo các giai đoạn lịch sử, theo đó các chế định về quyền thừa kế cũng thay đổi theo. Sự sửa đổi, bổ sung các chế định trong các bộ luật dân sự nói chung và các chế định về quyền thừa kế nói riêng là sự kế thừa các quy định của giai đoạn trước có sửa đổi, bổ sung. 1.1.2. Quyền thừa kế theo nghĩa chủ quan Quyền thừa kế theo nghĩa chủ quan là quyền của người để lại di sản và quyền của người nhận di sản. Quyền thừa kế của chủ thể là khả năng xử sự của các chủ thể quan hệ pháp luật thừa kế được quy phạm pháp luật về thừa kế quy định và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Quyền chủ quan này phải phù hợp với các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng. Quyền thừa kế là một trong những quyền được pháp luật bảo vệ, nó gắn liền với mỗi cá nhân. Pháp luật Việt Nam luôn ghi nhận quyền năng này của các chủ thể. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật (Đ631 BLDS năm 2005). Các cá nhân cũng có quyền bình đẳng về thừa kế không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình 7 độ văn hoá, nghề nghiệp và bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ mà người chết chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa xong trong phạm vi di sản nhận… Khi xem xét về thừa kế thì di sản là một trong những vấn đề được quan tâm trước tiên. Di sản là cơ sở để thiết lập di chúc bên cạnh các căn cứ khác. Tài sản của người chết để lại được gọi là di sản, chỉ khi di sản còn tồn tại trên thực tế thì người lập di chúc mới có “cái” để định đoạt. Di sản phải là tài sản thuộc sở hữu của người để lại thừa kế (bao gồm tài sản riêng và phần tài sản riêng trong khối tài sản chung với người khác) với đầy đủ các quyền năng: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản đó. Sau khi tài sản được dịch chuyển cho người còn sống đồng thời quyền sở hữu cũng được chuyển giao theo quy định của pháp luật. Việc nhận được tài sản cũng đồng thời với việc nhận các nghĩa vụ về tài sản của người lập di chúc (nếu có). Khi còn sống người lập di chúc có những nghĩa vụ về tài sản (nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ trả nợ…) mà chưa thực hiện được hay thực hiện nhưng chưa xong thì người nhận thừa kế phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ hay thực hiện phần nghĩa vụ đó trong phạm vi di sản thừa kế. Quyền của người lập di chúc được thể hiện ở việc tự do ý chí đối với việc dịch chuyển tài sản của mình, pháp luật tôn trọng và bảo đảm cho sự tự do định đoạt đó. Quyền của người thừa kế là quyền nhận hoặc không nhận di sản. Đi kèm với quyền nhận di sản thì người thừa kế cũng có thể phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Trong trường hợp một người từ chối quyền nhận di sản cũng đồng nghĩa với việc người đó được loại bỏ nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ về tài sản đó. Tuy nhiên pháp luật cũng hạn chế quyền của người nhận di sản trong một số trường hợp như: Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di 8 sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản… Những người này cho dù thuộc diện thừa kế cũng không được quyền thừa kế. Những người được thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Cho dù người đó có hay không có năng lực hành vi hay năng lực hành vi không đầy đủ đều có quyền thừa kế. Trong trường hợp như vậy thì cần có người giám hộ, người giám hộ sẽ thực hiện giúp những người này các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi tài sản của họ. 1.2. KHÁI NIỆM THỪA KẾ THEO DI CHÚC VÀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG 1.2.1.Khái niệm thừa kế theo di chúc 1.2.1.1. Di chúc Như đã đề cập ở trên, có hai hình thức thừa kế là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Chỉ khi người chết có để lại di chúc định đoạt di sản, di chúc đó hợp pháp thì khi đó mới có thể đề cập tới việc thừa kế theo di chúc. Theo quy định của luật Dân sự: “di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.[12] Trên thực tế, di chúc không phải lúc nào cũng nhằm dịch chuyển tài sản thuộc sở hữu của người lập di chúc cho người khác. Di chúc có thể thể hiện một mong muốn, ý nguyện nào đó của người lập di chúc. Nội dung di chúc trong trường hợp này thường là những lời căn dặn người còn sống cách sống, cách đối xử với nhau, giao các nghĩa vụ đạo đức… Mặc dù không nhằm chuyển dịch bất cứ loại tài sản nào của người lập di chúc nhưng loại di chúc này có ý nghĩa nhất định (đặc biệt là về mặt tinh thần) đối với những người còn sống. Đây là loại di chúc khá phổ biến, nó thường được thể hiện ở lời căn dặn của người sắp chết với những người thân và cũng có thể được thiết lập bằng văn bản. Loại di chúc này không được Luật Dân sự điều chỉnh do các 9 nghĩa vụ được đề cập đến trong di chúc này là những nghĩa vụ tự nhiên, người có nghĩa vụ có thực hiện nghĩa vụ hay không là phụ thuộc vào lương tâm, đạo đức không ai ép buộc và nếu không thực hiện nghĩa vụ thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm pháp lý. Khi vi phạm các nghĩa vụ được đề cập trong di chúc thì người có nghĩa vụ gánh chịu sự lên án của xã hội, đặc biệt sự là sự phản ứng của dòng họ và gia đình. Nếu có tranh chấp xảy ra liên quan đến di chúc loại này pháp luật cũng không can thiệp và cũng không có căn cứ pháp lý để giải quyết. Chỉ khi vì các tranh chấp đó mà các bên xảy ra xung đột và có dấu hiệu của vi phạm pháp luật thì khi đó các cơ quan chức năng mới có thẩm quyền giải quyết. Cơ sở pháp lý để giải quyết xung đột trong trường hợp này không phải là các quy phạm pháp luật thừa kế mà là các quy phạm thuộc các ngành luật khác có liên quan. Như vậy, chỉ những di chúc thể hiện ý chí của cá nhân về việc định đoạt tài sản cá nhân nhằm để chuyển giao tài sản của mình cho người khác sau khi chết mới được Luật Dân sự điều chỉnh. Luật Dân sự quy định về nội dung, hình thức, điều kiện có hiệu lực của di chúc… Trong cùng một di chúc bên cạnh việc định đoạt tài sản người lập di chúc có thể đề cập đến các nghĩa vụ tự nhiên như đã đề cập ở trên. Nhưng Luật Dân sự chỉ điều chỉnh phần liên quan đến việc định đoạt di sản mà thôi, phần còn lại không phải di chúc vô hiệu mà nó không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Dân sự. Người lập di chúc dựa vào ý chí và tình cảm của mình định đoạt cho bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào mà họ muốn được hưởng di sản sau khi mình qua đời. Có hai hình thức của di chúc là di chúc văn bản và di chúc miệng. Luật Dân sự bảo vệ như nhau đối với hai hình thức nhưng hình thức lập di chúc bằng văn bản được khuyến khích hơn vì khi ý chí của người lập di chúc được ghi lại đó sẽ là bằng chứng rõ ràng để giải quyết mọi vấn đề liên quan đến di chúc. 10 Thứ nhất: Di chúc miệng Thực tế, không phải lúc nào người lập di chúc cũng có đủ điều kiện để lập di chúc bằng văn bản nên pháp luật thừa kế có quy định cho người để lại di chúc có thể lập di chúc miệng nhưng chỉ trong trường hợp bất khả kháng mới lập di chúc miệng. Đó là khi tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản. Về thời hạn, theo quy định của pháp luật hiện hành sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ (Đ651 BLDS năm 2005). Việc xác định như thế nào là người di chúc miệng còn sống, minh mẫn, sáng suốt là cơ sở pháp lý để xác định di chúc miệng có hiệu lực thi hành hay không. Minh mẫn được hiểu là làm chủ được hành vi của mình, tự nhận thức một cách độc lập những điều mình muốn hoặc không muốn. Cá nhân sáng suốt thể hiện thông qua việc cá nhân có khả năng độc lập trong suy nghĩ, nhận xét, đánh giá sự vật, hiện tượng không có sự nhầm lẫn. Hay có thể nói người minh mẫn, sáng suốt là người hiểu được các hành vi của chính bản thân trong các mối quan hệ xã hội, nhận biết một cách rõ ràng các sự vật, hiện tượng xung quanh mình và có cảm giác tương tự như những người bình thường khác đối với cùng sự vật, hiện tượng, quá trình. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực và di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại những điều đó rồi cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Di chúc miệng là biện pháp để giải quyết tình thế cấp bách nhằm bảo đảm tối đa quyền sở hữu, quyền tự do ý chí, quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản của mình. Nhưng, lời nói nếu không được lưu giữ bằng một hình thức 11 vật chất cụ thể thì không có gì để kiểm chứng khi cần thiết như vậy định đoạt tài sản bằng cách di chúc miệng sẽ rất dễ bị lợi dụng. Vì vậy, Luật Dân sự quy định điều kiện có hiệu lực của di chúc miệng khắt khe hơn so với điều kiện có hiệu lực của di chúc bằng văn bản. Trên cơ sở xem xét quy định về di chúc miệng có thể nhận thấy cho dù như thế nào thì cuối cùng ý chí của người lập di chúc vẫn phải thể hiện bằng văn bản mặc dù không phải do người lập di chúc trực tiếp viết hay chứng kiến việc viết ra văn bản đó. Thứ hai: Di chúc bằng văn bản: Di chúc bằng văn bản có thể lập theo mẫu (phụ lục 1) hoặc theo cách soạn thảo riêng của người lập di chúc. Nhưng đều phải đáp ứng được các điều kiện luật định. +) Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng có hiệu lực pháp lý khi nội dung của di chúc đáp ứng được các quy định tại Đ635 BLDS năm 2005. Loại di chúc này phải được do tự tay người lập di chúc viết và ký vào bản di chúc. Quy định này nhằm các định chính xác người có tài sản lập di chúc bằng chữ viết của mình, tránh sự gian lận trong việc lập di chúc và là chứng cứ chứng minh di chúc do chính người có tài sản lập ra mà không phải do người khác. +) Di chúc bằng văn bản có người làm chứng Trong trường hợp người lập di chúc nhờ người khác viết thì cần có người làm chứng và cần ít nhất có hai người làm chứng. Sau khi người được nhờ viết di chúc hoàn thành việc việc viết di chúc thì người lập di chúc phải ký tên hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước sự chứng kiến của những người làm chứng. Sau đó những người làm chứng xác nhận chữ ký hoặc xác nhận điểm chỉ của người lập di chúc và ký tên vào bản di chúc với danh nghĩa người làm chứng. Người làm chứng cần phải đạt được điều kiện về năng lực 12 hành vi dân sự (từ đủ 18 tuổi, không tâm thần hoặc mắc các bệnh làm mất khả năng làm chủ hành vi của mình), người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật không được làm chứng cho việc lập di chúc. Ngoài ra, một số đối tượng khác như: người có quyền và nghĩa vụ liên quan tới nội dung của di chúc; các chủ nợ, con nợ của người lập di chúc… cũng không thể là người làm chứng. Những người này không thể làm chứng cho việc lập di chúc bởi vì họ có thể vì lợi ích riêng của bản thân mà bằng cách này hay cách khác gây ảnh hưởng đối với người lập di chúc, thậm chí có thể đe dọa, lừa dối người lập di chúc khiến người lập di chúc không hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt trong việc chỉ định người thừa kế và phân định tài sản. +) Di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng thực Sau khi lập di chúc người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng nhà nước chứng nhận bản di chúc của mình hoặc yêu cầu ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực vào bản di chúc mình lập ra. Có thể nói bản di chúc được công chứng, chứng thực được coi là bằng chứng thuyết phục nhất ghi nhận sự thỏa thuận của vợ, chồng là hoàn toàn tự nguyện, tự do, không có sự ép buộc hay lừa dối nào vì nó đã được xác nhận bởi các cơ quan có thẩm quyền. Việc yêu cầu công chứng và đem bản công chứng đến công chứng nhà nước phải do chính người lập di chúc thực hiện, pháp luật không cho phép ủy quyền cho người khác thực hiện công việc này. Công chứng viên có nghĩa vụ công chứng vào bản di chúc theo yêu cầu của người lập di chúc. Tuy nhiên, nếu công chứng viên nhận thấy có dấu hiệu cho rằng người lập di chúc đã không làm chủ hành vi lập di chúc do người này mắc bệnh tâm thần hay bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi hoặc di chúc được lập do có sự lừa dối, dọa nạt, áp đặt ý chí từ phía người khác thì công chứng viên có quyền từ chối yêu cầu của người lập di chúc (trên thực tế việc xác định như thế nào là có dấu hiệu cho rằng người lập di chúc không đủ điều kiện để lập di chúc hay di 13 chúc được lập do có sự lừa dối, dọa nạt, áp đặt ý chí từ phía người khác hoàn toàn là do cảm tính và kinh nghiệm của công chứng viên chứ không hề có quy định cụ thể nào về điều này, vì vậy nhiều khi kết quả không phản ánh chính xác thực tế). Tương tự như vậy, ủy ban nhân dân nơi người lập di chúc yêu cầu chứng thực bản di chúc cũng áp dụng để giải quyết yêu cầu chứng thực di chúc của người lập di chúc. (Mẫu lời chứng được thực hiện theo phụ lục số 2) +) Di chúc bằng văn bản còn được lập trong một số trường hợp đặc biệt Trường hợp 1: Theo quy định tại Đ658 BLDS năm 2005 thì thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng, hoặc ủy ban nhân dân cấp xã theo những thủ tục: “Người lập di chúc tuyên bố nội dung di chúc của mình trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực có nghĩa vụ ghi chép đầy đủ và trung thực nội dung do người lập di chúc công bố. Người lập di chúc ký tên hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi đã xác nhận bản di chúc được ghi chép đầy đủ và chính xác. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã ký vào bản di chúc.” K2 Đ658 BLDS năm 2005 quy định trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân cấp dân xã. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng. Theo quy định tại Đ659 BLDS năm 2005, công chứng viên, người có thẩm quyền của ủy ban nhân dân cấp xã là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc người có cha mẹ, vợ hoặc chồng, con là người hưởng thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan