Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo đề_tài _“một_số__biện_pháp_giúp_trẻ_mẫu_giáo_5 6_tuổi_làm_quen_một_số_di_sản_văn...

Tài liệu đề_tài _“một_số__biện_pháp_giúp_trẻ_mẫu_giáo_5 6_tuổi_làm_quen_một_số_di_sản_văn_hóa_của_địa_phương_đạt_hiệu_quả_cao”_nh_2015 2016

.DOC
17
174
85

Mô tả:

. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI LÀM QUEN MỘT SỐ DI SẢN VĂN HÓA CỦA ĐỊA PHƯƠNG ĐẠT HIỆU QUẢ CAO” Quảng Bình, tháng 5 năm 2016 1 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI LÀM QUEN MỘT SỐ DI SẢN VĂN HÓA CỦA ĐỊA PHƯƠNG ĐẠT HIỆU QUẢ CAO” Họ và tên: Nguyễn Thị Hoàn Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Mầm non An Thủy Quảng Bình, tháng 5 năm 2016 2 ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI LÀM QUEN MỘT SỐ DI SẢN VĂN HÓA CỦA ĐỊA PHƯƠNG ĐẠT HIỆU QUẢ CAO” 1. Phần mỡ đầu: 1.1. lý do chọn đề tài: Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, đòi hỏi giáo dục cơ sở phải đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi hoạt động ở nhà trường với đặc trưng của mình đều phải góp phần đào tạo thế hệ mầm non tương lai. Trong đó, hoạt động cho trẻ làm quen “Di sản văn hóa” góp phần không nhỏ đến nền giáo dục Nước nhà. Hiện nay Luật di sản tập trung chú trọng tới đối tượng thanh thiếu niên với khẩu hiệu “ Di sản nằm trong tay thế hệ trẻ” của UNESCO nhấn mạnh tới “một chương trình thông tin đại cương” cho mọi người bắt đầu từ trẻ em ở tuổi đến trường tức là phải tập trung đầu tư từ bậc học mầm non . Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời. Đối với giáo dục mẫu giáo, phương pháp giáo dục phải tạo điều kiện cho trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ theo phương châm “chơi mà học, học bằng chơi”. Chú trọng đổi mới tổ chức môi trường giáo dục nhằm kích thích và tạo cơ hội cho trẻ tích cực khám phá, hoạt động và sáng tạo phù hợp với độ tuổi của nhóm /lớp, với khả năng của từng trẻ, với nhu cầu và hứng thú của trẻ và với điều kiện thực tế. Với phong trào xây dựng “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, một trong những hoạt động được đặt ra là tổ chức cho học sinh tham quan Di sản văn hóa của địa phương. Việc làm quen các Di sản văn hóa của địa phương, khai thác các Di sản văn hóa là nguồn tri thức, là phương tiện dạy học, giáo dục tích cực đối với trẻ, góp phần hoàn thiện những giá trị cao đẹp về chân - thiện mỹ, giúp trẻ có cái nhìn đúng đắn hơn về những giá trị văn hóa dân tộc, hình thành và nâng cao ý thức trân trọng, giữ gìn và bảo vệ các tài sản cha ông ta để lại. Điều đáng mừng Lệ Thủy - Quảng Bình là vùng đất lưu giữ rất nhiều điều thiên về lịch sử. Âm hưởng lịch sử này nhuộm đầy các góc quê, những mảnh đất, con sông, những nếp nhà và cả phong cách sống rất bình dị của con người. Giữ gìn, bảo tồn, phục dựng, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử là góp phần lưu giữ một di sản văn hóa quý báu của dân tộc, bảo tồn một di tích văn hóa có giá trị to lớn vật 3 thể và phi vật thể của mảnh đất "Địa linh, nhân kiệt" Lệ Thủy. Di tích lịch sử còn là địa chỉ đỏ chứng minh bao thế hệ những người con Lệ Thủy - Quảng Bình tìm về để tưởng nhớ, nhắc nhở động viên nhau phát huy truyền thống cách mạng, quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Vì vậy việc cho trẻ làm quen Di sản văn hóa của quê hương Lệ Thủy là một hoạt động vừa mang tính khoa học sâu sắc, vừa mang tính thực tiễn sinh động, đồng thời vừa là lĩnh vực hoạt động mang tính xã hội cao... Để giúp trẻ biết được tầm quan trọng về Di sản văn hóa của địa phương, hun đúc cho trẻ có tâm hồn dân tộc, giáo dục trẻ biết yêu quý bảo tồn các Di sản văn hóa, không ai khác người lớn chúng ta cần giáo dục Di sản văn hóa cho trẻ càng sớm càng tốt. Song trong thực tế các hoạt động làm quen Di sản văn hóa của địa phương cho trẻ 5- 6 tuổi hầu như chưa được chú trọng, chỉ diễn ra theo kiểu giáo viên truyền đạt cho trẻ nghe chứ trẻ chưa thực sự được tự mình nhìn thấy, được khám phá. Xuất phát từ những vấn đề trên, với lòng yêu nghề, mến trẻ đã thôi thúc bản thân tôi ,trăn trở nghiên cứu, tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ đạt kết quả cao. Đó là lí do tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm giúp trẻ 5 - 6 tuổi làm quen Di sản văn hóa địa phương đạt hiệu quả cao”. 1.2. Phạm vi áp dụng đề tài: Hiện nay, cho trẻ làm quen Di sản văn hóa địa phương là một vấn đề quan trọng, cần thiết có ý nghĩa khoa học, được Bộ giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch hết sức quan tâm, đẩy mạnh, đặc biệt quan trọng dành cho nghành học Mầm non. Với lý do trên tôi đã mạnh dạn áp dụng đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Di sản văn hóa của địa phương cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non ” tại trường tôi đang công tác và lớp tôi đang dạy. Hệ thống các giải pháp tôi đưa ra sau đây nó mang tính thực thi cao, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất, đặc thù vùng miền, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5- 6 tuổi, phù hợp với nội dung chương trình chăm sóc giáo dục trẻ trong giai đoạn hiện nay. 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu. Hiện nay yêu cầu đặt ra là phải đổi mới giáo dục, trong đó có đổi mới mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung giáo dục và phương pháp dạy và học.“ Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho người học chính năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của trẻ có nghĩa là phải thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy trẻ làm trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này trẻ là chủ thể hoạt 4 động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa giáo viên và trẻ . Trong những năm qua việc dạy trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi làm quen Di sản văn hóa địa phương hầu như chưa được chú trọng nên chưa phát huy được lòng ham mê, sự tự tin, sáng tạo của trẻ, cã phÇn ¶nh hëng ®Õn viÖc ch¨m sãc gi¸o dôc trÎ . Với yªu cÇu dạy học “Lấy trẻ làm trung tâm” thì việc cho trẻ làm quen Di tích văn hóa của địa phương là việc làm hết sức cần thiết và quan trọng của mỗi một giáo viên mầm non nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp với tình hình hiện nay. Nhằm giúp trẻ phát triển về mọi mặt: Đức -Trí - Thể - Mỹ - Lao động thì việc cho trẻ làm quen Di sản văn hóa của địa phương là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Trong thời gian nghiên cứu thực hiện đề tài thì bản thân còn gặp một số thuận lợi và khó khăn sau: 2.1.1. Thuận lợi: . Bản thân nhận được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường để tôi thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, được nhà trường đầu tư về cơ sở vật chất tạo điều kiện cho tôi tích cực tham gia vào các lớp học đào tạo nên trình độ chuyên môn được nâng cao. Thực tế ở địa phương có nhiều di sản được xếp hạng cấp quốc gia. Trong đó di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: Lễ hội bơi đua thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang, Hò khoan Lệ Thủy. Di sản có vật thể bao gồm: Chùa An Xá, chùa Hoằng Phúc…hay Nhà truyền thống huyện Lệ Thủy, thuận lợi cho việc làm quen với di sản. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật, phương tiện thông tin đại chúng giúp giáo viên dễ dàng tìm kiếm nguồn tư liệu phong phú và quý giá có nhiều hình ảnh sống động, nhiều câu chuyện để đưa vào dạy học. Một số phụ huynh có ý thức trách nhiệm, quan tâm đến việc học tập của con em mình, phối hợp thường xuyên với giáo viên. Bản thân luôn được chị em đồng nghiệp quan tâm, giúp đỡ . Nhiều năm dạy trẻ 5-6 tuổi nên phần nào hiểu được đặc điểm tâm sinh lý, khả năng tiếp thu kiến thức của trẻ ở lứa tuổi này. 2.1.2. Khó khăn: Lớp nằm ở khu vực lẽ, điều kiện cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho trẻ làm quen Di sản hầu như chưa có, quá ít , thiếu thẫm mỹ không đáp ứng theo nhu cầu hoạt động cho cô và trẻ. Trình độ nhận thức, tiếp thu kiến thức, kỹ năng của trẻ còn hạn chế, lại không đồng đều. Đa số trẻ là con nông dân, tuy phụ huynh quan tâm đến việc học của trẻ nhưng việc giáo dục Di sản văn hóa địa phương cho trẻ ít được phụ huynh quan tâm. Tranh ảnh, pa nô, về công tác tuyên truyền về Di sản chưa có. 5 Nhận thức của giáo viên về việc giáo dục Di sản cho trẻ còn chung chung, theo kiểu giáo viên nói cho trẻ nghe, chưa thực sự lấy trẻ làm trung tâm. Công tác tổ chức cho trẻ tham quan di sản còn gặp nhiều khó khăn phức tạp. Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với sự quyết tâm của bản thân, tôi đã không ngừng tìm kiếm, học hỏi, sáng tạo ra những phương pháp nhằm giúp trẻ làm quen một số Di sản ở quê hương. Mong rằng những việc làm của tôi sẽ mang lại kết quả thiết thực cho trẻ. Nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục Di sản văn hóa quê hương cho trẻ trong giai đoạn hiện nay. Đó là lý do tại sao tôi chọn đề tàì “Một số biện pháp nhằm giúp trẻ 5-6 tuổi làm quen Di sản văn hóa địa phương đạt hiệu quả cao ”. * Khảo sát thực trạng. Để lựa chọn được hệ thống giải pháp có hiệu quả, ngay đầu năm học tôi tiến hành khảo sát khả năng nhận thức của trẻ, kết quả như sau: Số trẻ biết được Tỉ lê ê (%) Trẻ kể tên một số Di sản văn hóa của quê hương 5/21 23,8 Trẻ thích thú tham gia các hoạt động 8/21 38,1 Trẻ nhanh nhẹn sáng tạo trong các hoạt động Trẻ có hành vi thái độ tốt với Di sản văn hóa của địa phương 2/21 0,95 5/21 23,8 Nội dung Qua kết quả trên, bản thân tôi nhận thấy chất lượng trên trẻ của lớp tôi còn quá thấp so với yêu cầu của một trường đóng trên địa bàn khá thuận lợi. Điều đó làm tôi luôn trăn trở và rút ra những nguyên nhân sau: Do hiện nay cuộc sống quá hiện đại, trẻ tham gia vào nhiều trò chơi mới lạ nên việc tiếp xúc với Di sản rất ít. Đa số trẻ trong lớp trình độ nhận thức, tiếp thu kiến thức, kỹ năng của trẻ còn hạn chế, lại không đồng đều. Giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục Di sản văn hóa cho trẻ ,việc tổ chức dạy trẻ tại di sản và cho trẻ tham quan các di sản chưa hề được thực hiện. Lớp nằm ở khu vực lẽ điều kiện trang thiết bị còn nhiều hạn chế Đa số trẻ là con nông dân nên việc giáo dục Di sản văn hóa ít được quan tâm chú ý. Công tác phối hợp, tuyên truyền về Di sản văn hóa chưa cao. 6 Mặc dù gặp nhiều khó khăn, song với lòng yêu nghề mến trẻ tôi đã tìm tòi một số biện pháp tối ưu, thu hút lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động Di sản văn hóa một cách tích cực và có hiệu quả. 2.2. Các giải pháp: Giải pháp 1: Sưu tầm tìm hiểu nội dung, kiến thức về một số Di sản văn hóa ở địa phương phù hợp với chủ đề giáo dục cho trẻ mầm non. Để giúp trẻ làm quen các Di sản văn hóa đạt hiệu quả cao đòi hỏi trước hết người giáo viên phải tìm hiểu, nắm bắt, hiểu sâu, rộng về nội dung và kiến thức các Di sản cần truyền thụ cho trẻ. Vì vậy việc đầu tiên tôi làm là tìm hiểu qua mạng, qua những cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ quản lý di sản để nhờ họ giúp đỡ tìm hiểu sâu hơn những những kiến thức về sự hình thành, tồn tại của các di sản. Tiếp đó, tôi tiến hành khảo sát thực địa, tìm hiểu kỹ lưỡng các đặc điểm về vị trí địa lí, địa hình địa vật tự nhiên, các hiện vật, chứng tích… để bản thân lựa chọn nội dung phù hợp đưa vào chương trình. Bên cạnh đó tôi sưu tầm tìm kiếm thêm đồ dùng trực quan, vì đồ dùng trực quan là một minh họa sinh động để giúp trẻ chú ý và tiếp thu một cách nhanh chống nội dung vấn đề cô cần truyền đạt cho trẻ. Nếu trong các hoạt động lễ hội, cô không sử dụng đồ dùng trực quan thì sẽ không thu hút được sự chú ý của trẻ và trẻ chóng chán, khiến chất lượng dạy và học không cao. Chính vì vậy khi tìm hiểu và sưu tầm kiến thức, đồ dùng, đạo cụ lễ hội phải đảm bảo được những tính sau: Lựa chọn các hoạt động làm quen di sản phải vừa sức với trẻ. Đảm bảo tính sư phạm, hấp dẫn, kích thích trí tò mò của trẻ, trẻ có thể thao tác dễ dàng, thuận tiện. Ví dụ: Khi trẻ tham gia vào trò chơi đua thuyền thì cho trẻ sử dụng các loại chầm, chèo nhỏ vừa tầm với trẻ. Quần áo trang phục cũng phải phù hợp với trang phục lễ hội, không vướng víu mà phải vừa vặn với trẻ màu sắc hài hòa đẹp mắt ….qua quá trình tham gia hoat động trẻ cảm thấy mình như những trai bơi, gái đua thực sự trong ngày lễ hội, trẻ thêm thấy tự hào và yêu quý truyền thống lễ hội của địa phương mình. Giải pháp 2: Lập kế hoạch cho trẻ làm quen các hoạt động Di sản văn hóa của địa phương.. Dựa vào tình hình của lớp: Lớp có đủ diện tích phòng học rộng rãi, thoáng mát, có đủ đồ dùng để cho trẻ hoạt động trải nghiệm. Khuôn viên rộng, đảm bảo cho trẻ thực hành các hoạt động với di sản. Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức của trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi. Khả năng vận dụng những kinh nghiệm của trẻ trong quá trình hoạt động với di sản, sự trải nghiệm, linh hoạt, sáng tạo, khám phá của trẻ. Trên cơ sở kế hoạch năm, tháng của nhà trường, tôi đã mạnh dạn đề xuất với 7 nhà trường và tổ chuyên môn lựa chọn những di sản văn hóa phù hợp nhận thức của trẻ để xây dựng kế hoạch năm, tháng phù hợp với nhóm lớp mình phụ trách. Được sự đồng ý phê duyệt của ban giám hiệu nhà trường, và tổ chuyên môn, tôi phân công nội dung, phần hành công việc cho giáo viên cùng lớp và triển khai cụ thể kế hoạch trong từng chủ đề, chủ điểm, kết thúc chủ đề, chủ điểm tôi đánh giá lại những việc làm được và chưa làm được, từ đó rút kinh nghiệm cho chủ đề sau. * VD: Kế hoạch tổ chức các hoạt động làm quen di sản văn hóa: KẾ HOẠCH GIÁO DỤC DI SẢN VĂN HÓA CHO TRẺ CHỦ ĐỀ: QUÊ HƯƠNG- ĐẤT NƯỚC- BÁC HỒ NĂM HỌC : 2015-2016 Thời gian Tháng / Tuần/ Mục tiêu giáo dục Chủ đề Chủ đề phát triển vận động nhánh cần đạt 3 tuần Quê - Trẻ biết lễ hội đua Từ 8/4hương thuyền là lễ hội 26/5/2016 truyền thống của quê hương Lệ Thủy. - Trẻ biết được một số đặc điểm nổi bật của lễ hội đua thuyền truyền thống. - Rèn cho trẻ óc quan sát, ghi nhớ có chủ định. -Rèn sự khéo léo kiên trì nhanh nhẹn khi tham gia trò chơi. - Giáo dục trẻ biết đoàn kết, tự hào, gìn giữ phát huy lễ hội đua thuyền truyền thống của quê hương. Nội dung Thời điểm thực hiện - Tìm hiểu lễ hội đua thuyền truyền thống của quê hương Lệ Thủy - Hoạt động học - Hoạt động vui chơi ngoài trời - Hoạt đô ng ô ở mọi lúc, mọi nơi 8 Đất nước - Làm quen một số di sản văn hóa trên đất nước Việt Nam. - Hoạt động học - Hoạt động vui chơi ngoài trời. - Hoạt đô ng ô ở mọi lúc, mọi nơi Bác Hồ - Bác Hồ với các cháu thiếu niên nhi đồng. - Hoạt động học - Hoạt động vui chơi ngoài trời. - Hoạt đô ng ô ở mọi lúc, mọi nơi Giải pháp 3: Tiến hành xây dựng góc Di sản văn hóa của bé : Tôi thiết nghĩ, tổ chức góc di sản văn hóa địa phương sẽ giúp trẻ đễ dàng tiếp xúc, thường xuyên tếp xúc, được trực tiếp trãi nghiệm hóa thân, vào những nhân vật trong lễ hội … Điều đó sẽ khắc sâu trong trẻ những hình tượng về con người , phong tục, tập quán của thôn xóm làng xã, quê hương mình. Giúp trẻ sớm có ý thức cùng cô giáo, người thân sưu tầm tìm kiếm tư liệu, tranh ảnh ….để tạo cho góc di sản của bé thêm phong phú, sinh động. Qua đó trẻ biết yêu quý, giữ gìn sản phẩm mình làm ra, biết tự hào, phát huy truyền thống của quê hương. Vì vậy tôi đã tiến hành xây dựng góc di sản, để thuận tiện cho trẻ sử dụng và tuyên truyền đến cả các bậc phụ huynh, tôi chọn vị trí bên cạnh cửa lớp. Tôi sắp xếp các đồ dùng, dụng cụ để cho trẻ dễ lấy, dễ sử dụng để trẻ có thể tự lấy đồ dùng đồ chơi phù hợp với hoạt động mà giáo viên yêu cầu. Tham mưu với nhà trường trang bị thêm đồ dùng, trang phục, đạo cụ cho các lễ hội. Bên cạnh đó tôi còn làm thêm nhiều đồ dùng khác để phục vụ cho các hoạt đô ng của trẻ, thu hút hứng thú ô của trẻ như: cờ, đích, hoa, mủ, trang phục, xé dán, bồi đắp các mô hình…. Ngoài ra khi xây dựng góc lễ hội trẻ có thể tự tham gia hoạt động khi trẻ được bố mẹ đón và cho chơi ở sân trường, trẻ có thể rủ bạn cùng thao tác hoạt động đã học cho bố mẹ xem. Khi xây dựng góc di sản tôi nhận thấy trẻ lớp tôi tiến bộ nhiều hơn, trẻ tham gia hoạt động tự nhiên và tích cực hơn, đồng thời phụ huynh lớp tôi thấy được rõ hơn tầm quan trọng của giáo dục di sản văn hóa, họ quan tâm hơn đến việc giáo dục di sản cho con mình. 9 Giải pháp 4: Tổ chức tốt giờ học tìm hiểu về Di sản tại lớp: *Chuẩn bị: Khai thác, sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học về di sản đóng vai trò là một nguồn kiến thức góp phần bổ sung, cụ thể hoá, làm phong phú hơn nội dung bài học, nó làm cho những kiến thức trong bài học không chỉ đơn thuần là con số, các sự kiện khô khan mà sinh động hơn, có hồn hơn, giúp cho học sinh tái hiện được kiến thức và hiểu bài nhanh, nhớ lâu hơn. Vì vậy giáo viên phải tiến hành chọn lọc kỹ và xác minh tính chân thực của các tài liệu về di sản. Chọn lọc những tài liệu điển hình nhất, sắp xếp các tài liệu đó thành hệ thống phù hợp với tiến trình bài học kết hợp với các phương tiện trực quan, làm cho bài học sinh động hơn. Đồng thời, tuỳ theo mục đích, nội dung bài học mà giáo viên khai thác những tài liệu khác nhau. Tiếp theo chuẩn bị giáo án, địa điểm hoạt động… Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen di sản về Chùa An Xá giáo viên trực tiếp đến chùa tìm hiểu gặp gỡ trao đổi với cán bộ quản lý di sản trao đổi với họ nhờ họ giúp đỡ để sưu tầm tranh ảnh tư liệu về di sản, hoặc có thể chụp ảnh về di sản. *Ổn định và gây hứng thú: Để lôi cuốn và giới thiệu bài học cho trẻ giáo viên phải sử dụng nhiều thủ thuật hấp dẫn như bài hát,ca dao, câu đố... phù hợp với nội dung bài học để dẫn dắt trẻ vào bài. Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen lễ hội đua thuyền truyền thống trên sông Kiến Giang giáo viên có thể dùng câu ca dao: “Dù ai đi ngược về xuôi Mồng hai tháng chín cũng mong về nhà Về nhà xem hội quê ta Dưới sông bơi trải, nhà nhà cờ bay”. Giáo viên đọc cho trẻ nghe và hỏi trẻ câu ca dao nói về điều gi? Giáo viên và trẻ cùng trò chuyện sau đó giáo viên giới thiệu bài học cho trẻ làm quen. *Quan sát - đàm thoại tranh, vật thật… Quan sát đàm thoại giúp trẻ hiểu kĩ, hiểu sâu sự vật hiện tượng xung quanh, phát triển tư duy ngôn ngữ, giúp trẻ hình dung được những sự vật hiện tượng mà trẻ không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp. Khai thác được vốn hiểu biết của trẻ trong cuộc sống từ đó làm chính xác hóa những kiến thức còn mơ hồ trong cuộc sống vốn có của trẻ. Vì vậy giáo viên phải xây dựng câu hỏi ngắn gọn dễ hiểu phù hợp lứa tuổi. Hệ thống câu hỏi gồm nhiều cấp độ khác nhau, nhằm phát huy tích cực của trẻ, tránh sử dụng câu hỏi “có” hoặc “không”, đúng hoặc “sai”. Ví dụ: Khi tiến hành cho trẻ quan sát đàm thoại về Chùa Hoằng Phúc. Giáo viên hỏi trẻ: - Cô có bức tranh gì? - Con có nhận xét gì về bức tranh? -Trong bức tranh có những ai? - Mọi người đang làm gi? 10 Giáo viên cần phải chuẩn bị các loại câu hỏi khác nhau như: Câu hỏi kích thích trẻ nhận thức sâu về sự vật, hiện tượng và nêu cảm xúc của bản thân. Ví dụ: Con thấy mọi người đi viếng chùa như thế nào? Câu hỏi kích thích trẻ giải thích, phỏng đoán, suy đoán diễn biến kết quả các sự vật hiện tượng xung quanh. Ví dụ: - Chùa An Xá khác với chùa Hoằng Phúc ở điểm nào ? - Làm sao cháu biết được điều đó? Câu hỏi khuyến khích trẻ giải thích ý kiến, đánh giá sự vật hiện tượng. Ví dụ: Mọi người đi lễ chùa để làm gì? Vì sao cháu thích đi lễ chùa? Khi quan sát đàm thoại giáo viên chú ý khuyến khích động viên trẻ đúng lúc, kịp thời. Tránh để trẻ mất tự tin khi trẻ trả lời chưa đúng giáo viên có thể dùng câu nói nhẹ nhàng (con nhìn lại xem nào? Nghe lại xem nào? …). Với những trẻ nhút nhát cô sử dụng câu hỏi dễ hơn, hoặc yêu cầu trẻ nhắc lại câu hỏi của bạn để giúp trẻ tự tin, mạnh dạn hơn. Tạo cơ hội cho trẻ đặt câu hỏi với giáo viên, với bạn. Ví dụ: Thưa cô vì sao lại có lễ chùa? Chùa Hoằng Phúc nằm ở ? Bạn đã đi lễ chùa chưa? Bạn đi cùng với ai? Sau khi cho trẻ quan sát đàm thoại xong giáo viên cần chốt lại và mỡ rộng thêm một số đồ dùng trực quan khác có liên quan đến nội dung đàm thoại. Ví dụ: Sau khi cho trẻ quan sát đàm thoại về chùa Hoằng Phúc xong cô cho trẻ kể tên và xem tranh một số di sản văn hóa khác như: Chùa An Xá… *GD: Biết yêu quý các di sản, khi đi thăm quan phải nghe lời bố mẹ, cô giáo, bảo tồn các di sản không vứt rác bừa bãi, bỏ rác vào thùng rác để cho môi trường của khu di sản luôn sạch sẽ. *Tổ chức trò chơi: Sau khi cho trẻ quan sát đàm thoại xong giáo viên tổ chức trò chơi nhằm cũng cố kiến thức đồng thời lôi cuốn sự hứng thú của trẻ vào hoạt động. Giáo viên chú ý lựa chọn trò chơi động tĩnh để tạo sự cân bằng hoạt động cho cô và trẻ. Trò chơi phải phù hợp nội dung bài học và vùa sức với trẻ kích thích tính tò mò, sáng tạo của trẻ. Ví dụ: Sau khi cho trẻ quan sát đàm thoại về chùa Hoằng Phúc giáo viên tổ chức trò chơi “Tranh gì biến mất, tranh gì xuất hiện”, tiếp theo cho trẻ chơi trò chơi “Ghép tranh về di sản” đội nào ghép nhanh, ghép đúng thì thắng cuộc. Sau mỗi lần chơi giáo viên cho trẻ kiểm tra , nhận xét và đưa ra kết luận. Giáo viên chú ý động viên khen trẻ kịp thời sau mỗi lần chơi. * Cũng cố bài học: Giáo viên dùng câu hỏi hoặc câu đố để cho trẻ nhắc lại tên bài vừa học và một số nội dung cần khắc sâu cho trẻ. 11 Ví dụ : Giáo viên hỏi trẻ: Cô vừa cho lớp mình làm quen với hoạt động gì nào? Để các khu di sản luôn luôn sạch đẹp các con phải làm gi? * Nhận xét tiết học: Giáo viên có thể nhận xét ngay trong tiết học hoặc cuối tiết học, trong tiết học khen chê trẻ kịp thời. Cuối tiết học chủ yếu động viên, khen trẻ là chính. Giải pháp 5. Tổ chức tham quan, cho trẻ làm quen tại một số di sản. Hướng tới mục tiêu “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” đưa môi trường học tập trong nhà trường gắn với thực tế. Tổ chức thăm quan học tập tại nơi có di sản với hình thức này, nội dung chủ yếu của buổi tham quan là nhằm củng cố kiến thức đã học hoặc chuẩn bị cho việc học bài mới. Đây là dịp để học sinh có điều kiện trực tiếp quan sát, tìm hiểu các tài liệu, hiện vật liên quan đến bài học, cụ thể hoá kiến thức và tạo những biểu tượng chân thực, chính xác. Do đó, trong buổi tham quan, giáo viên cần tập trung vào những tài liệu, hiện vật có liên quan đến chương trình đã học (hoặc sẽ học). Để đạt được kết quả tốt, giáo viên nên kết hợp với cán bộ hướng dẫ ở nơi có di sản để việc trình bày, bổ sung kiến thức phù hợp với yêu cầu và trình độ nhận thức của học sinh, trên cơ sở đó, gợi ý, dẫn dắt học sinh nắm vững những vấn đề quan trọng. Giờ học tại di sản có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh về cả ba mặt kiến thức: tư tưởng, tình cảm và kỹ năng. Bởi vì thực địa - nơi có di sản là trẻ được mắt thấy, tai nghe, được tiếp xúc trực tiếp với sự vật hiện tượng, phát triển trí tưởng tượng, đa dạng hoá hoạt động nhận thức, gây hứng thú học tập cho trẻ. Tiến hành học tại thực địa là phương thức thực hiện dạy học gắn với đời sống, nâng cao hiểu biết về kiến thức, về văn hoá, giáo dục, lòng yêu quê hương, đất nước, tính thẩm mĩ cho trẻ. Bài học tại di sản cũng phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của một bài học tại lớp. Để tiến hành bài học tại thực địa cần bảo đảm một số yêu cầu sau: *Công tác chuẩn bị: Tiến hành bài học tại thực địa là một hình thức tổ chức dạy học bên ngoài lớp học, quá trình dạy học liên quan đến nhiều yếu tố, điều kiện khác nhau nên phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng cả đối với giáo viên và trẻ. Một là, chọn địa điểm phù hợp với mục tiêu, nội dung, bài học và điều kiện tiến hành. Ở địa phương không có di sản thì giáo viên chọn di sản ở vùng lân cận để tiến hành bài học tại di sản. Ví dụ: Lớp tôi gần với chùa An Xá nên tôi chọn chùa An Xá cho trẻ làm quen để thuận tiện cho việc đi lại. Hai là, phải lập kế hoạch cụ thể về công tác chuẩn bị và tiến hành bài học, đi khảo sát thực địa, liên hệ với các cơ quan quản lý di sản. Sau khi đã lựa chọn được vấn đề dạy học và di sản phù hợp, giáo viên phải xây dựng được kế hoạch chuẩn bị và tiến hành bài học tại nơi có di sản một cách chi tiết cho từng nội dung công việc, thời gian thực hiện, lực lượng phối hợp, phương tiện thiết bị hỗ trợ. Kế hoạch tiến hành bài học tại di sản phải báo cáo với tổ chuyên môn, lãnh đạo nhà trường 12 để được duyệt thực hiện và có kế hoạch hỗ trợ. Ngoài ra, khi làm việc với các cơ quan quản lý di sản, giáo viên cần chú ý khai thác, tìm hiểu các nguồn tài liệu về di sản và các nội dung bài học có liên quan đến di sản bao gồm tài liệu hiện vật gốc, sa bàn, mô hình phục chế, phim ảnh, các công trình nghiên cứu, bài viết chuyên đề. Đây sẽ là nguồn tài liệu về địa phương phong phú, có giá trị để giáo viên bổ sung vào bài giảng hoặc thiết kế bài giảng về địa phương. Ba là, giáo viên phải chuẩn bị trước cho học sinh về tư tưởng và kiến thức chuyên môn như nêu mục đích, yêu cầu của bài học và nội dung kiến thức cơ bản cần tìm hiểu trước ở nhà, thông báo sơ qua về địa điểm có di sản, sự kiện, nội dung kiến thức liên quan đến di sản, Ngoài ra, giáo viên còn phải nhắc nhở học sinh về việc đảm bảo phương tiện đi lại, an toàn giao thông , giữ trật trật tự ở khu di sản. Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen nhà Truyền thống văn hóa huyện Lệ Thủy vào buổi sáng, cô giáo cần thông báo cho trẻ biết sáng mai cô sẽ cho lớp mình làm quen với Nhà Truyền thống văn hóa Huyện, ở đó được trưng bày rất nhiều hiện vật, mô hình …về các di sản văn hóa của huyện ta. Cô cháu mình đến đó để tim hiểu…. .Cuối cùng nhắc nhỡ trẻ về việc đi lại và việc giữ trật tự, vệ sinh ở Nhà Truyền thống . * Nội dung bài học tại di sản phải đảm bảo tính chính xác, cơ bản và bám sát nội dung kiến thức mà di sản phản ánh. Tuy nhiên, giáo viên phải chú ý làm sao để đảm bảo mạch nội dung chương trình của bài học, tránh quá tải đối với hoạt động nhận thức của trẻ. Ví dụ : Khi cho trẻ làm quen di sản ở Nhà Truyền thống , giáo viên nên lựa chọn cho trẻ làm quen với Lễ hội Bơi thuyền truyền thống hoặc làm quen với di tích lịch sử Chùa An Xá. Cho trẻ tìm hiểu sâu nội dung đó. Khi tiến hành bài học: Phải khai thác tối đa khả năng cung cấp thông tin thông qua các dấu vết, hiện vật,…tại nơi có di sản. Khi khai thác tập trung vào những dấu vết, hiện vật quan trọng phản ánh kiến thức cơ bản của bài học, tránh tình trạng cho trẻ quan sát tràn lan làm loãng trọng tâm nội dung cần nghiên cứu của bài học. Khi hướng dẫn học sinh quan sát phải giúp học sinh tìm ra mối quan hệ bên trong, làm sáng tỏ nội dung, kiến thức mà các chứng tích, hiện vật phản ánh. Giáo viên có thể tổ chức các hoạt động tự học cho học sinh như: Hướng dẫn trẻ quan sát - đàm thoại thông qua tiếp xúc với các loại tài liệu tại di sản như tìm hiểu xuất xứ, chất liệu, hình thức thể hiện (kiểu kiến trúc, hoa văn trang trí, kiểu chữ…) và nội dung kiến thức của các dấu vết, hiện vật… liên quan đến bài học. Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen Nhà tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, giáo viên cho trẻ biết đây là nơi Bác Giáp sinh ra và lớn lên… 13 Kết hợp tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động sau bài học như tham quan toàn bộ khu di sản, tổ chức các trò chơi lịch sử, đóng kịch diễn lại các câu chuyện, sự tích liên quan đến di sản… Với những ví dụ trên cho thấy, việc sử dụng di sản vào dạy học không những đáp ứng được yêu cầu của đổi mới dạy học mà còn là công cụ đắc lực mà còn giúp thế hệ trẻ nhận thức được tầm quan trọng của di sản đồng thời biết trân trọng, gìn giữ và phát huy cho tương lai. Giải pháp 6: Làm quen một số di sản mọi lúc mọi nơi. Dạy mọi lúc mọi nơi không phải lúc nào cũng phải thực hiện, dễ gây nhàm chán cho trẻ. Do đó bản thân cần phải linh hoạt áp dụng vào các hoạt động trong ngày của trẻ hoặc có thể lòng ghép vào các môn học sao cho phù hợp. Ví dụ: Trong tiết toán “đếm đến 10 nhận biết chữ số 10” giáo viên có thể giới thiệu bài cho trẻ “ Sắp đến ngày 2-9 rồi, đó là ngày tết độc lập và còn là ngày lễ đua thuyền truyền thống hằng năm của quê hương ta”. Để biết có bao nhiêu thuyền bơi tham dự trong ngày lễ thì hôm nay cô cháu mình cùng tìm hiểu nhé!. Qua giờ học đếm các thuyền bơi sẽ giúp trẻ khắc sâu hơn về di sản văn hóa của quê hương mình. +Góc nghệ thuật cho trẻ vẽ, nặn, bồi đắp....đọc thơ, ca dao, hát ...về di sản văn hóa quê hương. +Góc xây dựng ở chủ điểm Quê hương đất nước cho trẻ xây dựng chùa An Xá hoặc xây dựng dòng sông kiến Giang vào ngày hội đua thuyền... Giải pháp 7 : Tổ chức hội thi “Bé với di sản quê hương” Tổ chức hội thi Bé với di sản là một sân chơi sáng tạo, bổ ích cho lứa tuổi mầm non. Trong ngày hội, tất cả trẻ đều được tham gia trực tiếp vào hoạt động thi đua, một cách tích cực, hào hứng, sôi nổi. Qua đó thúc đẩy các hoạt động tập thể, gây không khí náo nức cho trẻ vì được tham gia “biểu diễn”, “thi tài”. Qúa trình hoạt động tập thể như vậy sẽ phát triển ở trẻ tính linh hoạt, mạnh dạn, tinh thần tập thể và để lại cho trẻ những cảm xúc vui tươi, phấn khởi, óc thẩm mĩ về “những diễn viên, vận động viên tí hon” khi biểu diễn. Tạo điều kiện cho trẻ tìm hiểu sâu hơn về di sản văn hóa quê hương qua hội thi trẻ thêm tự hào và biết gìn giũ phát huy di sản văn hóa. Hoạt động này có thể thực hiện nhân dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, ngày truyền thống địa phương kết hợp với các phong trào thi đua của nhà trường. Bản thân đề xuất với nhà trường cần phối hợp đoàn thanh niên trường tổ chức hội thi “Bé với di sản”, Để hội thi đạt hiệu quả cao nhà trường cần đưa ra yêu cầu cụ thể, thể lệ hội thi…để giáo viên có sự chuẩn bị cho lớp mình một cách chu đáo. Giải pháp 8: Công tác phối hợp với phụ huynh và các đoàn thể. Để hoàn thành tốt công tác chăm sóc và giáo dục trẻ thì cần có sự phối hợp và hỗ trợ cho nhau giữa gia đình, nhà trường và xã hội . Thực hiện tốt sự phối hợp 14 đó tôi đã mạnh dạn báo cáo với Ban giám hiệu nhà trường về kế hoạch mời người đến kể chuyện về di sản cho trẻ. Giáo viên có thể mời các chiến sĩ cách mạng lão thành tiêu biểu, những “nhân chứng” đã chứng kiến, tham gia các sự kiện tại di sản, những người thân của các nhân vật có liên quan đến di sản,… làm cho người nghe xúc động, như được sống lại với sự kiện ấy. Đề xuất với nhà trường tạo điều kiện cho đoàn thanh niên của trường phối hợp xã đoàn tổ chức các hội thi tìm hiểu về di sản quê hương. Chia sẽ suy nghĩ với phụ huynh về tầm quan trọng của việc giáo dục di sản cho trẻ mầm non để từ đó phụ huynh có nhận thức đúng đắn và xác định vai trò của mình trong việc chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt là giúp trẻ biết được tầm quan trọng của di sản văn hóa. Lên kế hoạch hoạt động tuần, ngày rồi trao đổi trực tiếp với phụ huynh trong giờ đón trẻ, trả trẻ để phụ huynh biết được kiến thức, kỹ năng trẻ sẽ học gì? Qua đó xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa giáo viên phụ huynh và các thành viên trong gia đình trẻ để cùng tạo ra các hoạt động cho trẻ trải nghiệm. Cô giáo tuyên truyền, vận động phụ huynh đóng góp nhiều nguyên vật liệu sẳn có ở địa phương để có nhiều sản phẩm phục vụ cho hoạt động. Nhắc phụ huynh thường xuyên đưa đón trẻ để biết được thông tin, hằng ngày theo dõi bảng tuyên truyền, kế hoạch tuần, ngày của cô, từ đó phụ huynh biết và giúp trẻ trong các hoạt động thí nghiệm, báo cáo kết quả trẻ đã làm được gì ở nhà. Huy động phụ huynh tham gia đóng góp theo lòng hảo tâm về cơ sở vật chất: tham gia đóng góp công, nguyên vật liệu địa phương, thơ ca, hò vè, tranh ảnh, sách tài liệu… để tạo môi trường cho trẻ hoạt động. Sau mỗi lần cho trẻ thực hành, tôi thông báo kết quả kịp thời với phụ huynh để phụ huynh bồi dưỡng thêm cho cháu, đặc biệt là những cháu còn rụt rè, còn hạn chế về ngôn ngữ, giao tiếp….. 3. Phần kết luận: 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Việc giúp trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi Làm quen di sản văn hóa quê hương, nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng học tập của trẻ. Đó là một việc làm giải quyết vấn đề: “Việc dạy học phải lấy trẻ làm trung tâm”, công việc này nó xuyên suốt cả quá trình hoạt động học và chơi của trẻ 5-6 tuổi. Do đó mỗi một giáo viên phải hiểu rõ mục đích, ý nghĩa hoạt động cho trẻ làm quen di sản văn hóa. Đối với trẻ, người lớn chúng ta cần phải xây dựng kế hoạch cho trẻ làm quen di sản phù hợp và tình hình thực tế, biết tìm ra các giải pháp sáng tạo trong khi cho trẻ làm quen di sản để thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Là một giáo viên phải thực sự đam mê, tâm huyết với việc dạy học của mình, thường xuyên quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho trẻ học tập, phải quan tâm đúng mức, luôn theo dõi động viên, khuyến khích nhằm tạo điều kiện cảm xúc giúp trẻ phấn khởi trong các hoạt động học tập. 15 Ngoài việc giáo viên nắm vững phương pháp đổi mới truyền thụ cho trẻ, sáng tạo trong giảng dạy, linh hoạt trong các hoạt động, tích cực tham khảo tài liệu, học hỏi chị em đồng nghiệp, giáo viên cần phải tích cực hóa đứa trẻ, tạo hứng thú cho trẻ trong mọi hoạt động. Tôi còn phải sáng tạo trong việc cho trẻ làm quen di sản quê hương, nhằm thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của trẻ trong giai đoạn đầu đời của trẻ mới giúp trẻ phát triển toàn diện hơn. Cần có sự phối kết hợp với phụ huynh một cách khéo léo, lôi cuốn phụ huynh để phụ huynh cùng đóng góp các vật liệu sẳn có ở địa phương. Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động làm quen di sản trẻ được sử dụng các giác quan và trực tiếp thực hiện, trẻ cùng học, cùng chơi cùng trải nghiệm. Hình thành cho trẻ trí tưởng tượng và phát triển tư duy,tình cảm, ngôn ngữ trí nhớ lâu bền . Mục đích cuối cùng là tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm, đó là việc hình thành và rèn luyện kỹ năng tìm hiểu, quan sát, làm việc nhóm, chia sẻ kinh nghiệm của bản thân với các bạn. Như chúng ta biết lứa tuổi mẫu giáo, tuy trẻ còn nhỏ nhưng trẻ luôn luôn tìm hiểu thế giới xung quanh vốn muôn vàn câu hỏi thắc mắc: Tại sao cái này lại gọi là chùa?, mọi người đi lễ chùa để làm gì?, Tại sao lại có lễ hội đua thuyền? Tại sao? Tại sao?... *Qua việc lựa chọn và sử dụng một số biện pháp giúp trẻ làm quen di sản văn hóa quê hương. Đây là hoạt động thiết thực góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ và trong quá trình thực hiện các biện pháp trên tôi đã thu được một số kết quả sau: - Đối với bản thân: + Hiểu được những kiến thức cơ bản về các di sản văn hóa của quê hương. + Đã hiểu rõ hơn mục đích, ý nghĩa hoạt động cho trẻ làm quen di sản văn hóa quê hương. + Đã tạo mối quan hệ gắn kết giữa phụ huynh, các đoàn thể, tạo sự thân thiện giữa cô và trẻ, giữa cô với phụ huynh. + Đã đưa chất lượng của lớp mình lên cao hơn. - Đối với trẻ: - Trẻ mạnh dạn, tự tin, thích tò mò, ham hiểu biết, thích quan sát khám phá, thích được sử dụng các giác quan và trực tiếp thực hiện, trẻ hiểu biết nhiều, rộng hơn về thế giới xung quanh, trẻ hoạt động tích cực hơn, có kiến thức đa dạng, phong phú, trẻ được phát triển trí tuệ… Kết quả thể hiện rất rõ qua việc khảo sát chất lượng cuối năm: Nội dung Trẻ kể tên một số Di sản văn hóa của quê hương Số trẻ biết được 19/21 Tỉ lê ê (%) 90,47% 16 Trẻ thích thú tham gia các hoạt động 20/21 95,23% Trẻ nhanh nhẹn sáng tạo trong các hoạt động Trẻ có hành vi thái độ tốt với Di sản văn hóa của quê hương 15/21 71,42% 21/21 100% - Đối với phụ huynh: + Phụ huynh đã hiểu được công việc, hoạt động của cô giáo. + Phụ huynh vui mừng khi con mình mạnh dạn, nhanh nhẹn, tự tin. Thấy được tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong việc kết hợp với giáo viên cùng quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ. + Phụ huynh đã quan tâm hơn việc cho trẻ làm quen di sản văn hóa, biết hướng dẫn, rèn luyện một số kỹ năng cơ bản cho trẻ lúc ở nhà. Trên đây là một số bài học kinh nghiệm mà bản thân tôi đúc rút ra từ tình hình thực tế giảng dạy. Tuy nhiên bài sáng kiến kinh nghiệm của tôi cũng không tránh khỏi những hạn chế, kính mong sự góp ý, giúp đỡ của hội đồng sư phạm nhà trường, bạn bè đồng nghiệp, phòng giáo dục đào tạo để tôi có nhiều kinh nghiệm hơn trong công tác giảng dạy. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan