Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Đề tài áp dụng pháp luật môn lý luận nhà nước và pháp luật...

Tài liệu Đề tài áp dụng pháp luật môn lý luận nhà nước và pháp luật

.DOCX
20
443
78

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong điều kiện của khoa học pháp lý nước ta hiện nay, việc hoàn thiện các khái niệm pháp lý cơ bản có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ pháp lý, đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả của pháp luật. Áp dụng pháp luật là một khái niệm cơ bản của khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay có ý nghĩa thời sự cả về mặt lý luận và thực tiễn vì những lý do sau:  Thứ nhất, mặc dù áp dụng pháp luật là một khái niệm pháp lý cơ bản song ở nước ta cho đến nay, các công trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật chưa nhiều. Các vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật mới chỉ được giới thiệu một cách khái quát trong giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, các giáo trình của các môn khoa học pháp lý chuyên ngành và một số công trình nghiên cứu chuyên biệt, vì vậy, một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, thấu đáo và toàn diện.  Thứ hai, thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta thời gian vừa qua cho thấy hoạt động này đã đạt được khá nhiều thành tựu, song vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể vừa góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện lý luận, vừa có thể chỉ ra được những điểm bất cập trong các quy định của pháp luật, những hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện các quy định đó, từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của nó.  Thứ ba, ở nước ta hiện nay, pháp luật đã trở thành một trong những công cụ có hiệu quả nhất để Nhà nước quản lý xã hội. Song pháp luật chỉ thể hiện được vai trò đó của mình khi nó được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và đặc biệt là được áp dụng một cách đúng đắn, chính xác. Kết quả áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế có đúng đắn, chính xác hay có thấu tình đạt lý hay không chủ yếu phụ thuộc vào sự hiểu biết pháp luật và thái độ tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền áp dụng. Trong khi đó trường ta là một cơ sở đào tạo cán bộ pháp lý lớn nhất của cả nước, sinh viên, học viên của trường ta sau khi tốt nghiệp phần lớn trở thành người áp dụng pháp luật trong thực tế, chính vì vậy, việc cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản và cụ thể về áp dụng pháp luật là hoàn toàn cần thiết. Để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường, việc tổng hợp, trình bày một cách có hệ thống các kiến thức lý luận về áp dụng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể trong một công trình nghiên cứu để có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy và học tập ở trường ta hiện nay là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực. Ý thức được tất cả những lý do trên nên chúng tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Áp dụng pháp luật là một trong những vấn đề cơ bản của khoa học pháp lý nên cũng đã được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu. Chẳng hạn, những vấn đề lý luận cơ bản và khái quát về áp dụng pháp luật được đề cập đến trong các giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật dành cho hệ đại học, trung cấp và trong các giáo trình của các môn khoa học pháp lý chuyên ngành. Bên cạnh đó, vấn đề này còn được đề cấp đến trong một số công trình nghiên cứu khác. Chẳng hạn, trong tác phẩm “Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật” của Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1995 và tác phẩm “Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật” của Tiến sĩ Đào Trí Úc do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1993 đều có một chương mang tên Áp dụng pháp luật đề cập đến vấn đề này. Bên cạnh đó, những vấn đề ít nhiều liên quan đến việc áp dụng pháp luật trong thực tế thì được đề cập đến trong rất nhiều công trình nghiên cứu có tính chất chuyên biệt. Đơn cử một số công trình như: “Giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ tục thương lượng, hòa giải” của TS. Trần Ngọc Dũng, Tạp chí Luật học số 1/2004; “Bàn về quyền khởi tố vụ án hành chính của viện kiểm sát nhân dân” của Th.S. Nguyễn Thị Thuỷ, Tạp chí Luật học số 1/2004; “Một số vấn đề áp dụng phong tục, tập quán trong giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình” của Nguyễn Hồng Hải, Đặc san nghề luật số 4/2003; “Tạm giam bị cáo sau phiên toà sơ thẩm” của Hà Thị Loan, Đặc san nghề luật số 4/2003; “Thực tiễn giải quyết vụ án lao động tại TAND năm 2001, những vướng mắc trong việc áp dụng Bộ luật Lao động và giải pháp” của Nguyễn Xuân Thu, Đặc san nghề luật số 4/2003; “Nhân thân người phạm tội một căn cứ quyết định hình phạt” của Trịnh Tiến Việt, Đặc san nghề luật số 4/2003; “Tôn trọng nguyên tắc tự do ý chí của các đương sự trong tố tụng dân sự” của Nguyễn Văn Luật, Đặc san nghề luật số 4/2003… Tuy nhiên, theo tôi được biết, trong số các công trình nghiên cứu về áp dụng pháp luật ở nước ta cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về áp dụng pháp luật theo cách kết hợp những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật với thực tiễn áp dụng pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể như công trình này, tức là chưa có công trình nghiên cứu nào tiếp cận vấn đề áp dụng pháp luật như cách tiếp cận của công trình này. 3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật mà chủ yếu là trên cơ sở quan điểm duy vật và phép biện chứng. Đồng thời đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: thu thập tài liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học, giải thích pháp luật… 4. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài này nhằm các mục đích sau: Làm sáng tỏ thêm và hoàn thiện thêm một số vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật.. Làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể ở nước ta hiện nay, những thành tựu đạt được, những hạn chế còn tồn tại, thông qua đó có thể giúp cho việc hiểu một cách đầy đủ, toàn diện về áp dụng pháp luật, đồng thời chỉ ra những ưu điểm của hoạt động này để phát huy và những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật cũng như thực tế thực hiện các quy định đó để khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật nước ta hiện nay. Cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập của giáo viên và sinh viên các trường luật cũng như cho các cơ quan, nhân viên nhà nước có thẩm quyền trong quá trình giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế. 5. Phạm vi nghiên cứu Áp dụng pháp luật là vấn đề có nội dung khá rộng và phức tạp nên không thể trình bày được tất cả các vấn đề về nó trong một công trình nghiên cứu, nhất là một công trình nghiên cứu khoa học cấp trường. Vì vậy, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật, lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể: hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh tế… Ngay trong mỗi lĩnh vực đó, đề tài cũng chỉ có thể đề cập đến việc áp dụng pháp luật trong một hoặc một vài trường hợp cụ thể mà không thể đề cập đến việc áp dụng pháp luật trong tất cả các trường hợp. 6. Nội dung nghiên cứu Nội dung nghiên cứu của đề tài gồm các vấn đề cơ bản sau: 1. Một số vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật: khái niệm, đặc điểm, các trường hợp cần áp dụng pháp luật, quy trình áp dụng pháp luật, quyết định áp dụng pháp luật, áp dụng pháp luật tương tự. 2. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong một số lĩnh vực cụ thể: hình sự, dân sự, hành chính, lao động, đất đai, thương mại…; những thành tựu đạt được, những hạn chế tồn tại trong hoạt động này; những biện pháp cần thực hiện để phát huy ưu điểm và khắc phục hạn chế nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả của áp dụng pháp luật đồng thời làm sáng tỏ và hoàn thiện thêm lý luận chung về áp dụng pháp luật. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨ 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT Áp dụng pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước (thông qua các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền) tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật. Ví dụ, trường Đại học Luật Hà Nội áp dụng pháp luật trong việc tổ chức tuyển sinh và đào tạo các hệ đào tạo cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ luật học. Như vậy, áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước hay là hình thức thực hiện pháp luật của các cơ quan, tổ chức và nhân viên nhà nước. Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật chỉ có hình thức này là luôn luôn có sự hiện diện của nhà nước thông qua các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. 1.2. KHÁI NIỆM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật là tuân theo, thi hành, sử dụng và áp dụng pháp luật thì áp dụng pháp luật là hình thức cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất, phần lớn các quy định của pháp luật chỉ có thể được thực hiện trong thực tế thông qua hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền. Vì vậy, hình thức này cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện hơn và sâu sắc hơn các hình thức khác. Phần sau đây sẽ đề cập đến khái niệm và các đặc điểm của nó. Theo Từ điển Black/s Law, từ áp dụng (apply) có thể được hiểu theo nghĩa đưa vào sử dụng với một vụ việc của một chủ thể riêng biệt (áp dụng pháp luật trong thực tế) . Trong tiếng Việt, từ áp dụng có thể được hiểu là “Đem dùng trong thực tế điều đã nhận thức được” . Từ các cách hiểu về từ áp dụng trong hai từ điển trên, có thể hiểu một cách nôm na rằng áp dụng pháp luật là đem pháp luật ra dùng trong thực tế. Nếu hiểu theo cách này thì áp dụng pháp luật có thể dùng để chỉ tất cả các hình thức thực hiện pháp luật mà không phải là một hình thức thực hiện pháp luật cụ thể. Trong thực tế đã có nhà nghiên cứu sử dụng thuật ngữ áp dụng pháp luật theo nghĩa này. Trong các sách báo pháp lý của Việt Nam, khái niệm áp dụng pháp luật được đề cập đến trong nhiều tác phẩm với nội dung có những điểm khác nhau nhất định. Đa số các nhà nghiên cứu coi áp dụng pháp luật chỉ là một trong các hình thức thực hiện pháp luật, song có nhà nghiên cứu lại coi áp dụng pháp luật đồng nghĩa với thực hiện pháp luật, tức là bao gồm tất cả cá hình thức thực hiện pháp luật . Trên cơ sở tìm hiểu các quan niệm khác nhau về áp dụng pháp luật, chúng tôi hoàn toàn ủng hộ quan niệm của đa số các tác giả, tức là coi áp dụng pháp luật là một trong các hình thức thực hiện pháp luật và đó là hình thức thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước. Chúng tôi cho rằng nên xây dựng khái niệm áp dụng theo hướng đề cập đến tất cả các đặc điểm của nó. Theo hướng này, có thể định nghĩa về áp dụng pháp luật như sau: Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. Từ định nghĩa về áp dụng pháp luật như trên, ta thấy, áp dụng pháp luật có các đặc điểm sau:  Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước Nếu chúng ta quan niệm thực hiện pháp luật có bốn hình thức thì chỉ có duy nhất áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà nước. Điều đó được thể hiện qua chủ thể tiến hành, trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật và kết quả của quá trình áp dụng pháp luật. Cụ thể: + Hoạt động áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó cũng chỉ được phép áp dụng pháp luật trong một phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, trong hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước thì chỉ toà án mới có quyền xét xử để định tội và định hình phạt cho người phạm tội cũng như để giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình…; chỉ uỷ ban nhân dân mới có quyền xem xét để cấp giấy khai sinh cho trẻ em, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng; chỉ có các cơ sở đào tạo mới có quyền tổ chức tuyển sinh, đào tạo và cấp bằng cho người học… Chủ thể tiến hành áp dụng pháp luật chủ yếu là các cơ quan, tổ chức nhà nước, song cũng có thể là chủ thể được Nhà nước trao quyền hoặc cho phép. Ví dụ, các trường dân lập cũng được Nhà nước cho phép áp dụng pháp luật trong việc tổ chức tuyển sinh, đào tạo và cấp Bằng tốt nghiệp cho người học, trong trường hợp này, có thể hiểu các trường dân lập cũng là những chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật bởi vì họ đã được Nhà nước trao quyền hoặc cho phép áp dụng pháp luật. + Trong quá trình áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể nhân danh quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để ban hành ra những mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan. Các mệnh lệnh, quyết định này luôn thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền áp dụng mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể là đối tượng áp dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền không thể là ý chí cá nhân, tuỳ tiện của người áp dụng mà phải là ý chí được xây dựng trên cơ sở pháp luật, căn cứ vào pháp luật và phù hợp với pháp luật. Ví dụ, các thí sinh tham dự kỳ thi tuyển sinh ai cũng muốn trúng tuyển và được gọi nhập học, song cơ sở đào tạo lại phải căn cứ vào quy định của pháp luật để quyết định những người trúng tuyển và được gọi nhập học; hoặc sau khi nhận được hồ sơ của người sử dụng đất, uỷ ban nhân dân phải căn cứ vào các quy định của pháp luật đất đai để quyết định cấp hay không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng… Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước. Thông thường, sau khi ban hành ra các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền sẽ công bố công khai cho đối tượng áp dụng để họ biết mà thực hiện. Đối với các quyết định cụ thể hoá quyền pháp lý cho các chủ thể thì đương nhiên họ sẽ tự giác thực hiện. Còn đối các quyết định cụ thể hoá nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể thì có thể có hai trường hợp xảy ra. Một là các chủ thể tự giác thực hiện mà không cần đến sự cưỡng chế của nhà nước. Hai là chủ thể không tự giác thực hiện các mệnh lệnh, quyết định đó và các chủ thể có thẩm quyền phải cưỡng chế thi hành để bảo đảm cho các mệnh lệnh, quyết định đó được thực hiện nghiêm chỉnh. + Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật vừa là hình thức nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện các quy định của pháp luật. Vì thế, hoạt động này phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Trình tự, thủ tục này thường khác nhau trong các trường hợp áp dụng pháp luật khác nhau tuỳ theo quy định cụ thể của pháp luật. Chẳng hạn, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ thể khác với trình tự, thủ tục cấp đăng ký kết hôn hoặc khác trình tự thủ tục tuyển sinh, đào tạo, công nhận tốt nghiệp và cấp Bằng tốt nghiệp cho người học. Nói chung, các quyết định do các chủ thể có thẩm quyền ban hành ra trong quá trình áp dụng pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của người được áp dụng, nó có thể mang lại cho người ta lợi ích rất lớn (ví dụ, quyết định giao quyền sử dụng đất, quyết định lên lương, quyết định công nhận tốt nghiệp…), song nó cũng có thể bắt người ta phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề (ví dụ, quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bản án hình sự…). Do vậy, để đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của quá trình áp dụng pháp luật, hoạt động này không thể được tiến hành một cách tuỳ tiện mà phải theo những trình tự, thủ tục và trên cơ sở những điều kiện rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Đương nhiên, trình tự, thủ tục đó không thể như nhau trong tất cả các vụ việc mà nó sẽ khác nhau từ vụ việc này sang vụ việc khác tuỳ theo tính chất của vụ việc. Ví dụ, trình tự, thủ tục xem xét để cấp Đăng ký kết hôn sẽ khác với trình tự, thủ tục công nhận tốt nghiệp cho người học, càng khác với trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính…  Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội hay là hoạt động nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. Các quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung nên không chỉ rõ chủ thể cụ thể và trường hợp cụ thể cần áp dụng. Khi một quy phạm nào đó được áp dụng vào việc giải quyết một vụ việc thực tế của một chủ thể cụ thể thì có nghĩa là quy phạm đó đã được cá biệt hoá vào trường hợp của chủ thể đó. Ví dụ, quyết định tuyển dụng một người nào đó làm giáo viên của Trường Đại học Luật Hà Nội là sự cá biệt hoá quy phạm về quyền và nghĩa vụ lao động của công dân vào trường hợp của người được tuyển dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các quy phạm được áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc thực tế, cụ thể hay được cá biệt hoá phải là các quy phạm pháp luật hiện hành hay các quy phạm đang còn hiệu lực pháp lý. Vì vậy, khi tiến hành áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền không thể lựa chọn và áp dụng các quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực. Các đặc điểm trên làm cho áp dụng pháp luật khác hoàn toàn với các hình thức thực hiện pháp luật khác, bởi lẽ, chủ thể của các hình thức tuân theo, thi hành, sử dụng pháp luật có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào trong xã hội; trong khi đó, chủ thể tiến hành áp dụng pháp luật chỉ có thể là chủ thể có thẩm quyền theo quy đinh của pháp luật. Khi tuân theo, thi hành hoặc sử dụng pháp luật, chủ thể có thể không cần dưa ra một quyết định pháp lý nào và cũng có thể không bị bắt buộc phải theo những trình tự, thủ tục nhất định. Còn khi áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền luôn bị bắt buộc phải tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định và bao giờ cũng phải đưa ra một quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc mà mình thụ lý. Có thể nói, áp dụng pháp luật bao hàm cả ba hình thức trên bởi lẽ, trong quá trình áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền cũng có thể bị cấm thực hiện những hành vi nhất định và họ phải tuân theo pháp luật, họ cũng phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định, tức là phải thi hành pháp luật, đồng thời có những quyền hạn nhất định tức là có thể sử dụng pháp luật. Ngoài các đặc điểm cơ bản trên, có tác giả cho rằng áp dụng pháp luật còn có một đặc điểm nữa là: Áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi có tính sáng tạo, bởi vì các quy định của pháp luật thường mang tính chất chung, khái quát, song các vụ việc xảy ra trong thực tế lại rất đa dạng, phong phú nên muốn đưa ra được một quyết định đúng đắn, chính xác, vừa thấu tình, vừa đạt lý để giải quyết vụ việc cần giải quyết thì đòi hỏi phải có tính sáng tạo của người áp dụng. Như vậy, sự sáng tạo trong quá trình áp dụng pháp luật không phải là sự tuỳ tiện của chủ thể áp dụng mà hoàn toàn dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật và nằm trong khuôn khổ của các quy định ấy. Cũng có tác giả cho rằng không nên coi tính sáng tạo là một trong những đặc điểm của áp dụng pháp luật bởi lẽ tính sáng tạo được thể hiện trong nhiều hoạt động, ví dụ, trong quá trình xây dựng pháp luật cũng cần có tính sáng tạo của người xây dựng, trong quá trình học tập cũng cần có tính sáng tạo của người học… Tôi ủng hộ quan điểm cho rằng không nên coi tính sáng tạo là một trong những đặc điểm riêng có của áp dụng pháp luật (mặc dù biểu hiện của tính sáng tạo trong quá trình áp dụng pháp luật khác với biểu hiện của tính sáng tạo trong các hoạt động khác). còn nếu coi nó là một đặc điểm thì cũng chỉ là đặc điểm không cơ bản, không mang tính đặc trưng của áp dụng pháp luật. Vậy áp dụng pháp luật cần được tiến hành trong những trường hợp nào? Nếu xem xét một cách chi tiết, cụ thể trong thực tế cuộc sống thì sẽ có vô vàn trường hợp cần áp dụng pháp luật, bởi lẽ, pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong nhiều lĩnh vực của đời sống, từ dân sự, hình sự đến hôn nhân và gia đình, tài chính, đất đai… Song nếu khái quát lại để xem xét về mặt lý luận thì có thể thấy, hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường hợp sau:  Thứ nhất, khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt. Xem xét nội dung các quy định cụ thể của pháp luật, ta thấy, mặc dù trong nhiều quy phạm pháp luật đã quy định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể, song các chủ thể không thể tự mình thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó mà cần phải có sự can thiệp của nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền. Ví dụ, trong Hiến pháp và luật đã thừa nhận quyền và nghĩa vụ học tập cho công dân, song công dân chỉ có thể thực hiện dược quyền và nghĩa vụ ấy khi được gọi nhập học và theo học trong một cơ sở đào tạo nào đó. Chính hoạt động chiêu sinh và tổ chức đào tạo của các cơ sở đào tạo đã giúp cho công dân thực hiện được quyền và nghĩa vụ học tập của mình. Tương tự như vậy, nếu một người nào đó không được bổ nhiệm vào một chức vụ cao hơn trong cơ quan thì quan hệ pháp luật giữa người đó với cơ quan không hề thay đổi. Kể từ thời điểm có quyết định bổ nhiệm của người có thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ pháp lý của người được bổ nhiệm với cơ quan đã có sự thay đổi so với trước. Nếu không có quyết định cho nghỉ hưu của cơ quan thì quan hệ pháp luật lao động giữa một người nào đó với cơ quan vẫn chưa chấm dứt. Như vậy, có thể thấy, nếu không có sự can thiệp của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thì nhiều quan hệ pháp luật cụ thể không thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt. Chính hoạt động áp dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền đó sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.  Thứ hai, khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể mà họ không tự giải quyết được với nhau và yêu cầu có sự can thiệp của một chủ thể có thẩm quyền. Nếu như trong trường hợp trên, phải nhờ hoạt động áp dụng pháp luật mới làm phát sinh một quan hệ pháp luật cụ thể thì trường hợp này khác ở chỗ một quan hệ pháp luật cụ thể đã phát sinh, các bên chủ thể đã có quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với nhau, nhưng một trong các bên hoặc tất cả các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý của mình nên dẫn đến tranh chấp mà họ không tự giải quyết được với nhau và yêu cầu có sự can thiệp của một chủ thể có thẩm quyền. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ đóng vai trò là trọng tài để giải quyết tranh chấp đó. Ví dụ, một người cho thuê nhà kiện ra toà án đòi nhà cho thuê, toà án thụ lý và giải quyết vụ án đó tức là áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp giữa người cho thuê nhà với người thuê nhà.  Thứ ba, khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với các chủ thể vi phạm pháp luật. Để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác bởi mọi chủ thể trong xã hội, nhiều quy phạm pháp luật đã quy định các biện pháp cưỡng chế nhà nước cần áp dụng với người vi phạm trong phần chế tàì của nó. Việc áp dụng một biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể với một chủ thể cụ thể là bắt họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi hay những sự thiệt hại nhất định về tài sản, về nhân thân, về tự do… Vì thế, để đảm bảo công bằng xã hội, chỉ có các chủ thể có thẩm quyền mới có thể áp dụng và hoạt động áp dụng của họ phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ cho trường hợp này là việc cảnh sát giao thông xử phạt người vi phạm luật giao thông, Hội đồng kỷ luật nhà trường xử lý kỷ luật đối với cán bộ, giáo viên hoặc sinh viên vi phạm kỷ luật...  Thứ tư, khi cần áp dụng sự cưỡng chế của nhà nước đối với các chủ thể không vi phạm pháp luật mà chỉ vì lợi ích chung của xã hội. Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có và đều quan tâm đến lợi ích riêng của mình và những lợi ích chính đáng sẽ được nhà nước bảo hộ. Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt, để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, của cả cộng đồng, nhà nước buộc phải xâm hại đến lợi ích riêng của những chủ thể nhất định. Để bảo đảm tính đúng đắn, hợp tình, hợp lý của sự “xâm hại” đó, nhà nước phải quy định cụ thể trong pháp luật các biện pháp “xâm hại”, chủ thể, điều kiện, trình tự, thủ tục để áp dụng các biện pháp đó. Khi một chủ thể cụ thể nào đó bị áp dụng một trong các biện pháp đó có nghĩa là họ đã phải gánh chịu sự cưỡng chế của nhà nước, họ đã phải chịu những sự thiệt hại nhất định mặc dù họ không vi phạm pháp luật mà hoàn toàn chỉ vì lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng. Ví dụ, để phục vụ cho việc xây dựng các công trình công cộng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã phải ra quyết định thu hồi đất của các chủ thể đang có quyền sử dụng hợp pháp trên diện tích đất đó, và đương nhiên, các chủ thể đang sử dụng phải giao lại đất đó cho nhà nước và nhận sự đền bù của nhà nước.  Thứ năm, khi cần áp dụng các hình thức khen thưởng đối với các chủ thể có thành tích theo quy định của pháp luật. Pháp luật của các nhà nước đương đại không chỉ quy định các biện pháp trừng phạt đối với các chủ thể vi phạm pháp luật mà còn quy định nhiều hình thức khen thưởng đối với các chủ thể có thành tích trong những hoạt động nhất định hoặc trong việc thực hiện pháp luật. Mục đích của việc quy định các biện pháp đó là nhằm đền đáp công ơn của những người có công với đất nước, với xã hội; để khuyến khích, động viên các chủ thể nhiệt tình công tác, phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong hoạt động của mình cũng như để khuyến khích các chủ thể tự giác thực hiện tốt pháp luật, làm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác hơn. Vì thế, ở Việt Nam, bên cạnh Bộ luật hình sự và Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính còn có Luật thi đua, khen thưởng, và trong đa số các văn bản quy phạm pháp luật đều có quy định việc khen thưởng những người thực hiện tốt những quy định trong văn bản trước khi quy định việc xử phạt đối với những người vi phạm nó. Ví dụ, việc các chủ thể có thẩm quyền xét tặng bằng khen, danh hiệu vinh dự nhà nước cho một chủ thể nào đó chính là áp dụng pháp luật trong trường hợp này.  Thứ sáu, khi cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể trong một số quan hệ pháp luật nhất định theo quy định của pháp luật. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, các chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ nhất định do pháp luật quy định. Có những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện nó chỉ liên quan đến lợi ích của cá nhân người thực hiện, song có những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện nó lại liên quan đến lợi ích của các chủ thể khác, lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng. Vì vậy, cần phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đó để đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của nó. Hoạt động kiểm tra, giám sát đó chỉ do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ: hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ… là nhằm áp dụng Luật giám sát của Quốc hội năm… ; hoạt động của cơ quan kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án… Thứ bảy, khi cần phải xác nhận sự tồn tại của một sự kiện thực tế cụ thể nào đó theo quy định của pháp luật. Trong thực tế có những thứ giấy tờ, bằng cấp, chứng chỉ có giá trị pháp lý lâu dài mà chủ thể của nó cần phải cất giữ cẩn thận. Song thỉnh thoảng, các giấy tờ đó lại cần phải được sao chụp để chứng minh cho sự hiện diện và tồn tại của nó trong thực tế. Hoạt động chứng thực của uỷ ban nhân dân, của cơ quan công chứng nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho các giấy tờ, văn bằng nhất định… là sự áp dụng các quy định của pháp luật công chứng trong thực tế. 1.3. QUY TRÌNH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT Như trên đã nói, hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành dựa trên những qui định của pháp luật và trải qua các giai đoạn có nội dung cụ thể và trình tự thủ tục khác nhau. Các giai đoạn hay trình tự, thủ tục đó được khoa học và thực tiễn pháp lý gọi là qui trình áp dụng pháp luật. 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại qui trình áp dụng pháp luật Trong tiếng Hán thì “qui” cũng có nghĩa là trù tính, dự liệu, còn “trình” có nghĩa là đường đi, cách thức; nghĩa là thứ tự các bước tiến hành trong một hoạt động nào đó. Theo từ điển tiếng Việt, quy trình là các bước, trình tự phải tuân theo khi tiến hành công việc nào đó . Áp dụng pháp luật là một qui trình bao gồm nhiều hoạt động có mối liên hệ hữu cơ với nhau, do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo qui định của pháp luật nhằm cá biệt hoá chế tài pháp luật hoặc cá thể hoá quyền nghĩa vụ pháp lý đối với chủ thể. Do pháp luật điều chỉnh đa dạng các lĩnh vực nên việc áp dụng pháp luật cũng rất đa dạng. Trên thực tế, sự khác biệt về nội dung, yêu cầu ở các lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật đã đem lại sự khác biệt nhất định về quá trình thực thi và áp dụng pháp luật. Không thể có qui trình áp dụng pháp luật chung cho mọi lĩnh vực, mọi quan hệ xã hội. Tóm lại, qui trình áp dụng pháp luật là trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động có mối liên hệ hữu cơ, thống nhất với nhau do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện nhằm hiện thực hoá nội dung các qui định pháp luật trong đời sống khi giải quyết các vụ việc pháp lý cụ thể. Qui trình áp dụng pháp luật có các đặc điểm cơ bản sau: - Qui trình áp dụng pháp luật do pháp luật qui định Áp dụng pháp luật là một hoạt động đặc thù của nhà nước trong quản lý xã hội. Áp dụng pháp luật mang tính quyền lực nhà nước. Toàn bộ các hoạt động, các bước (hay giai đoạn) của qui trình áp dụng pháp luật do pháp luật qui định. Các hoạt động trong quá trình áp dụng pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau. Điều đó đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện quyền nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ qui định của pháp luật. Ngay cả các chủ thể không có thẩm quyền tiến hành áp dụng pháp luật nhưng có liên quan đến việc áp dụng pháp luật cũng không thể tuỳ tiện tiến hành các hoạt động trái hoặc không được pháp luật cho phép. Do được pháp luật điều chỉnh nên, qui trình áp dụng pháp luật có liên quan đến cả hai loại qui phạm pháp luật là qui phạm pháp luật nội dung và qui phạm pháp luật hình thức hay qui phạm thủ tục. - Qui trình áp dụng pháp luật chịu sự qui định của nội dung và tính chất của vụ việc cần giải quyết Khi áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải xác định được nội dung và tính chất của vụ việc cần giải quyết rồi trên cơ sở đó mới có thể lựa chọn đúng quy trình cần tiến hành. Nghĩa là chúng ta không thể lấy thủ tục áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này để tiến hành cho lĩnh vực khác. Chẳng hạn, không thể lấy quy trình xét xử các vụ án hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự để thay thế cho thủ tục xét xử các vụ án dân sự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự được. Điều này cho thấy, qui trình áp dụng pháp luật bao gồm nhiều hoạt động cụ thể khác nhau và do nhiều chủ thể tiến hành nhưng nó có liên quan chặt chẽ đến nội dung của vụ việc cần giải quyết. - Tham gia qui trình áp dụng pháp luật luôn có một chủ thể nhân danh nhà nước hoặc được phép sử dụng quyền lực nhà nước để tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật Nói đến áp dụng pháp luật là nói đến vai trò của nhà nước trong giải quyết các vấn đề pháp lý thực tiễn. Thực chất của áp dụng pháp luật là quá trình thể chế hóa quyền lực nhà nước để điều chỉnh sự kiện cụ thể. Chính vì lẽ đó, tham gia qui trình áp dụng pháp luật luôn luôn có mặt chủ thể nhân danh nhà nước hoặc được phép sử dụng quyền lực nhà nước, chủ thể này trực tiếp tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật, có vai trò quyết định trong quá trình áp dụng pháp luật và là chủ thể có quyền đưa ra quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc. Chủ thể đó chủ yếu là các cơ quan, tổ chức nhà nước hoặc các cá nhân đảm trách nhiệm vụ trong các cơ quan, tổ chức đó tiến hành, song cũng có thể do các cơ quan, tổ chức được nhà nước cho phép hoặc trao quyền tiến hành. Ví dụ, các cơ sở đào tạo do Nhà nước thành lập hoặc cho phép thành lập đều có thể áp dụng pháp luật trong việc tổ chức tuyển sinh, đào tạo, công nhận tốt nghiệp và cấp bằng cho người học. Các hoạt động áp dụng pháp luật đa dạng và cần được đảm bảo bởi sức mạnh quyền lực nhà nước thì các chủ thể có liên quan mới tôn trọng thực thi một cách hợp pháp. Qui trình áp dụng pháp luật có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. - Dựa trên nội dung thực tế của hoạt động áp dụng pháp luật có thể phân thành qui trình truy cứu trách nhiệm pháp lý và qui trình cá thể hoá quyền, nghĩa vụ pháp lý. Qui trình truy cứu trách nhiệm pháp lý là các bước tiến hành tố tụng bao gồm nhiều hoạt động do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành nhằm cá biệt hoá chế tài pháp luật, áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Truy cứu trách nhiệm pháp lý là hoạt động được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau do đó, mỗi chủ thể tham gia vào một khâu nhất định trong các giai đoạn của qui trình đó. Chẳng hạn, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cần trải qua các giai đoạn như khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Các giai đoạn đó được quyết định bởi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự như công an, viện kiểm sát, tòa án và có nhiều cơ quan, cá nhân khác tham gia tố tụng. Qui trình cá thể hóa quyền, nghĩa vụ pháp lý có sự khác biệt với qui trình truy cứu trách nhiệm pháp lý là nó không liên quan đến vi phạm pháp luật mà đơn thuần chỉ xác định nội dung, phạm vi quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật mà thôi. - Dựa trên trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động cụ thể trên thực tế có thể phân thành qui trình đầy đủ và qui trình rút gọn. Qui trình đầy đủ là qui trình bao gồm đầy đủ các hoạt động của các giai đoạn áp dụng pháp luật. Còn qui trình rút gọn là qui trình không nhất thiết phải trải qua đầy đủ các hoạt động của các giai đoạn áp dụng pháp luật. - Qui trình áp dụng pháp luật có thể được nhận diện theo từng lĩnh vực điều chỉnh pháp luật, chẳng hạn như qui trình áp dụng pháp luật dân sự trong việc thừa nhận, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu, trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự; qui trình áp dụng pháp luật đất đai trong việc cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất, qui trình áp dụng pháp luật lao động trong việc tuyển dụng lao động, trong việc tăng lương hoặc xử lý kỷ luật đối với người lao động..v.v. 1.3.2. Các giai đoạn của qui trình áp dụng pháp luật Áp dụng pháp luật là một qui trình tổng hợp bao gồm nhiều yếu tố có sự tương tác lẫn nhau như con người, tổ chức, kỹ thuật, pháp lý. Dựa vào nội dung công việc cụ thể được thực hiện, khoa học và thực tiễn pháp lý chia quá trình áp dụng pháp luật thành bốn giai đoạn: a. Phân tích, đánh giá nội dung, điều kiện hoàn cảnh sự kiện thực tế cần áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn khởi đầu của cả qui trình áp dụng pháp luật nên nó có tính chất bản lề. Trước hết cần xác định đúng đắn nội dung, đối tượng, bản chất pháp lý của sự kiện thực tế đó. Nếu xác định bản chất pháp lý không chính xác thì toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật sẽ sai và gây ra hậu quả pháp lý và xã hội là khôn lường. Chẳng hạn, bản chất pháp lý của hành vi thực tế là loại quan hệ tặng cho (một loại quan hệ dân sự hợp pháp) lại xác định là quan hệ đưa và nhận hối lộ hoặc ngược lại thì hệ quả đem lại là hoàn toàn khác biệt. Nếu cần áp dụng pháp luật thì phải làm rõ chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc đó hay điều chỉnh quan hệ đó. Tiếp theo, cần chuẩn bị về mặt tổ chức, nhân sự, kỹ thuật cũng như xác định về mặt thời gian, thời điểm tiến hành áp dụng pháp luật. Đồng thời với việc chuẩn bị về nội dụng cần xác định những thuận lợi, khó khăn hoặc những rủi ro có thể xảy ra cản trở quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế. Nhìn chung, việc áp dụng pháp luật phải hướng tới một sự thuận lợi, tiết kiệm về chi phí thời gian, sức lực, vật chất và đạt hiệu quả cao nhất cho các bên có liên quan. Do đó, giai đoạn đầu trong áp dụng pháp luật bao giờ cũng đòi hỏi cần phải chuẩn bị một phương án chi tiết, tỷ mỷ cả về nội dung, hình thức cũng như phương thức, lịch trình tiến hành. Về nguyên tắc, chỉ có khẳng định được là hoàn toàn có cơ sở và đủ điều kiện để tiếp tục áp dụng pháp luật trên thực tế mới cho phép chuyển sang giai đoạn sau. Nếu thấy chưa đủ điều kiện hoặc không cần thiết phải tiếp tục áp dụng pháp luật thì các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ hoặc chấm dứt việc áp dụng pháp luật. b. Lựa chọn qui phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc đưa ra các quyết định áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn quan trọng trong qui trình áp dụng pháp luật vì nếu không đưa ra cơ sở pháp lý có sức thuyết phục, phù hợp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các giai đoạn sau và đến kết quả của quá trình áp dụng. Ở đây cần phải hiểu, có hai loại qui phạm pháp luật cùng có liên quan đến việc đưa ra quyết định áp dụng pháp luật, đó là qui phạm nội dung và qui phạm hình thức hay qui phạm thủ tục. Các qui phạm nội dung xác định nội dung cần áp dụng, điều chỉnh pháp luật. Về nguyên tắc, cần phải chọn qui phạm pháp luật còn hiệu lực và sát thực với nội dung sự kiện, quan hệ cụ thể đó. Cần làm rõ qui phạm pháp luật đó thuộc ngành luật nào sau đó phân tích, làm sáng tỏ nội dung của qui phạm đã lựa chọn để có thể hiểu được một cách đầy đủ các khía cạnh nhận thức về nội dung của qui phạm đó đối với quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế. Các qui phạm hình thức hay qui phạm thủ tục có nhiệm vụ qui định trình tự, thủ tục của qui trình áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế việc lựa chọn qui phạm pháp luật có thể xảy ra các khả năng như: - Có một qui phạm pháp luật đáp ứng đủ yêu cầu để làm cơ sở pháp lý cho việc áp dụng. Đây là điều rất thuận lợi cho các chủ thể có thẩm quyền, giúp họ có thể dễ dàng xác định được cơ sở pháp lý để sớm ban hành văn bản, quyết định áp dụng pháp luật đúng thời hạn, thời hiệu theo qui định của pháp luật. - Có nhiều qui phạm pháp luật cùng điều chỉnh quan hệ đó nhưng đưa ra cách giải quyết khác nhau. Đây là trường hợp xung đột qui phạm pháp luật trong áp dụng pháp luật. Thực tiễn pháp lý có các cách giải quyết đối với tình huống này bằng việc lựa chọn qui phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn và lựa chọn qui phạm pháp luật được ban hành sau. Tuy vậy, cách giải quyết này cũng khó có thể thoả mãn trường hợp: qui phạm pháp luật ban hành trước có giá trị pháp lý cao hơn nhưng lại không còn phù hợp với điều kiện thực tế. Ngược lại qui phạm pháp luật ban hành sau có giá trị pháp lý thấp nhưng lại phù hợp với thực tế. Vậy, ở đây sẽ áp dụng qui phạm pháp luật nào? Nếu áp dụng qui phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn thì không có hiệu quả thực tế vì không đủ điều kiện cho phép. Trong khi đó, việc áp dụng qui phạm pháp luật ban hành sau thì có hiệu quả bởi nó phù hợp với điều kiện thực tế nhưng lại vướng vì giá trị pháp lý thấp hơn qui phạm pháp luật ban hành trước. Cũng có ý kiến cho rằng cần làm thủ tục xem xét lại tính hợp lý, hợp pháp của cả hai văn bản chứa đựng qui phạm pháp luật trên rồi mới tiến hành áp dụng pháp luật theo một văn bản nhất định. Hay nói cách khác là, cần giải quyết xung đột theo qui định về giá trị pháp lý (văn bản có giá trị cao hơn) với qui định thời gian ban hành (ban hành sau) giữa hai văn bản. Đây là một việc làm không hề đơn giản trên thực tế, bởi để kiểm tra, xử lý văn bản cần phải có thời gian và trải qua một qui trình thủ tục phức tạp. Chẳng hạn, việc sửa đổi các văn bản luật thuộc thẩm quyền của Quốc hội, đương nhiên điều đó phải chờ khi đến kỳ họp Quốc hội mới tiến hành thực hiện được. Trong khi đó, thời hạn, thời hiệu của áp dụng pháp luật không cho phép kéo dài để chờ đợi. Việc xung đột khi chọn qui phạm để áp dụng pháp luật là điều khó tránh khỏi. Xung đột có hai dạng là xung đột pháp luật nội và xung đột pháp luật ngoại. Xung đột pháp luật nội là sự khác biệt khi có hai hay nhiều qui phạm pháp luật trong cùng một hệ thống pháp luật đưa ra cách giải quyết khác nhau cho một quan hệ xã hội hoặc một sự kiện pháp lý thực tế. Xung đột pháp luật ngoại là sự khác biệt khi có các qui định pháp luật của hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật có liên quan đưa ra cách thức giải quyết khác nhau về cùng một sự việc, một quan hệ. Tính phức tạp ở đây còn cao hơn bởi sự khác biệt có yếu tố nước ngoài và rộng hơn là giữa cả các nền văn hoá pháp lý. Đối với trường hợp này, cách thức xử lý trước hết dựa vào sự thoả thuận về khả năng lựa chọn qui định của một hệ thống pháp luật nằm trong các nước có xung đột. Nếu không được cần sử dụng các thoả thuận trong các hiệp định về tư pháp song phương hoặc đa phương (nếu đã ký kết) giữa các quốc gia có xung đột đó. Một số trường hợp cần đi đến giải pháp cuối cùng để có thể đưa ra quyết định áp dụng pháp luật được là phải nhờ đến phán quyết của trọng tài quốc tế hoặc toà án quốc tế. - Không có qui phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật đối với sự kiện, quan hệ đó. Đây là thực trạng pháp lý có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào ngay cả đối với những quốc gia có hệ thống pháp luật hoàn thiện ở mức độ cao. Thực tiễn pháp lý nước ta có cách giải quyết đối với tình huống này bằng việc áp dụng pháp luật tương tự. c. Ra quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc. Đây là giai đoạn quan trọng bởi nó phản ánh kết quả thực tế của quá trình áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền. Về bản chất, đây là giai đoạn chuyển hóa những qui định chung được nêu ra trong các qui phạm pháp luật thành những qui định cụ thể, cá biệt. Vì thế, có thể hiểu: Quyết định áp dụng pháp luật được hiểu là loại quyết định do cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành theo hình thức, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm cụ thể hóa các quy phạm pháp luật thành mệnh lệnh pháp luật áp dụng đối với đối tượng xác định trong trường hợp cụ thể và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Quyết định áp dụng pháp luật có các đặc điểm sau đây: * Quyết định áp dụng pháp luật được ban hành bởi cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác, áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Áp dụng pháp luật thực chất là việc cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân thực hiện thẩm quyền do pháp luật quy định để giải quyết các công việc phát sinh trong quá trình hoạt động của các chủ thể đó. Vì thế, chỉ có các chủ thể này mới có thể ban hành ra các quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Pháp luật luôn quy định mỗi loại việc chỉ được giải quyết bởi hay chủ yếu bởi một loại cơ quan, tổ chức nhất định và mỗi loại việc lại tùy theo mức độ phức tạp hay đơn giản, quan trọng hay ít quan trọng mà được giải quyết bởi các cơ quan, tổ chức ở các cấp khác nhau bằng loại quyết định phù hợp. Chẳng hạn, theo quy định của các bộ luật tố tụng hình sự và hình sự thì chỉ có tòa án mới có quyền ban hành bản án để kết án một người nào đó; tòa án cấp huyện có quyền ban hành bản án để kết án về tội phạm mà hình phạt cao nhất được pháp luật quy định là 15 năm tù giam (trừ một số loại tội phạm được pháp luật quy định); tòa án cấp tình có quyền ban hành bản án để kết án người phạm tội trong các trường hợp còn lại . Vì vậy, không có cơ quan nào ngoài toà án có quyền ban hành quyết định áp dụng pháp luật đề tuyên một người nào đó là có tội hay không, hoặc tòa án cấp huyện thì không có quyền ban hành bản án để kết án một người về một tội danh có mức phạt cao nhất trên 15 năm tù giam… Chủ thể ban hành quyết định áp dụng pháp luật chủ yếu là các cơ quan, tổ chức nhà nước, song cũng có thể là cơ quan, tổ chức được nhà nước trao quyền hoặc uỷ quyền. Ví dụ, tất cả các trường đại học, dù là công lập hay dân lập cũng đều có quyền ban hành ra quyết định áp dụng pháp luật để công nhận tốt nghiệp cho những sinh viên đủ điều kiện tốt nghiệp theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các quyết định áp dụng pháp luật được ban hành ra phải đảm bảo tính khách quan, hợp pháp cũng như sự phù hợp cả về nội dung và hình thức. Sự phù hợp của quyết định áp dụng pháp luật được đưa ra cần phải xem xét ở cả hai khía cạnh là pháp lý và thực tế. Theo đó, mức độ cá thể hóa càng chi tiết, sát thực về nội dung, yêu cầu và đảm bảo khách quan thì quyết định áp dụng pháp luật càng chính xác, hiệu quả. Quyết định áp dụng pháp luật có thể được thể hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Việc các quyết định áp dụng pháp luật được thể hiện bằng lời nói trên thực tế không phổ biến mà chỉ được dùng trong một số trường hợp do điều kiện thực tế không cho phép hoặc không cần ban hành quyết định bằng văn bản. Chẳng hạn, người chỉ huy các tàu chiến hoặc máy bay chiến đấu đưa ra quyết định trong trường hợp khẩn cấp. Ở nước ta hiện nay, quyết định áp dụng pháp luật chủ yếu được thể hiện bằng văn bản và nó được gọi là văn bản áp dụng pháp luật. Có thể hiểu, văn bản áp dụng pháp luật là văn bản do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành theo trình tự, thủ tục, tên gọi luật định, trong đó có chứa đựng các mệnh lệnh pháp lý cá biệt hoặc xác định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể hoặc các hình thức khen thưởng cụ thể hoặc các biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể đối với các chủ thể cụ thể và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. * Quyết định áp dụng pháp luật được ban hành theo hình thức, thủ tục pháp luật quy định Quyết định áp dụng pháp luật thường trực tiếp làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ của các đối tượng có liên quan. Vì vậy, quyết định áp dụng pháp luật nếu được ban hành kịp thời, đúng đắn thì sẽ bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích chính đáng đã, đang bị xâm hại hoặc đang bị đe dọa xâm hại, hay tạo điều kiện đầy đủ cho các đối tượng tác động của quyết định thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Ngược lại, quyết định áp dụng pháp luật sai trái cũng có khả năng gây tổn hại các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và cộng đồng. Chính vì vậy, Nhà nước đưa ra nhiều yêu cầu nhằm đảm bảo chất lượng của quyết định áp dụng pháp luật trong đó có yêu cầu đúng hình thức, thủ tục pháp luật quy định. Tùy theo loại việc và tính chất, mức độ của công việc cần ban hành quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết, pháp luật quy định những loại quyết định được sử dụng và thủ tục ban hành các quyết định đó. Chẳng hạn, để áp dụng hình phạt tù giam đối với một cá nhân thì quyết định cần ban hành là bản án và bản án này phải được ban hành theo thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự; để quyết định thanh tra việc thực hiện pháp luật của một đơn vị thì quyết định cần ban hành là quyết định thanh tra và quyết định này được ban hành theo thủ tục quy định trong Luật thanh tra… Những trường hợp quyết định áp dụng pháp luật ban hành không đúng hình thức có thể gây hiểu lầm về nội dung, tính chất vụ việc, ban hành không đúng thủ tục có thể làm cho nội dung quyết định không chính xác, thiếu khách quan nên không ít trường hợp quyết định áp dụng pháp luật được ban hành không đúng thủ tục, không có hiệu lực pháp lí. * Quyết định áp dụng pháp luật có nội dung là các mệnh lệnh cụ thể hóa quy phạm pháp luật vào những trường hợp cụ thể, áp dụng đối với đối tượng xác định Quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu hành vi cho dù có mức độ cụ thể nhất định nhưng không tránh khỏi tính phổ quát để có thể thích ứng với những điều kiện thực tiễn phức tạp và thường xuyên thay đổi. Áp dụng pháp luật chính là hoạt động lấy cái chung để áp dụng vào cái riêng biệt, cái cụ thể. Giá trị của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ vụ việc được giải quyết hoàn toàn phù hợp với những đặc điểm, điều kiện cụ thể của nó trong giới hạn chung mà pháp luật quy định. Hoạt động áp dụng pháp luật mang tính sáng tạo rõ rệt, nhưng là sự sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật. Nội dung quyết định áp dụng pháp luật không được vượt quá phạm vi các quy phạm pháp luật được chọn để áp dụng. Vì vậy, một vụ việc xảy ra ở những thời điểm khác nhau, đối với các đối tượng khác nhau thì nội dung quyết định áp dụng có thể khác nhau. Chẳng hạn, hai người đều thực hiện hành vi vi phạm hành chính cùng loại nhưng một người thực hiện hành vi với một số tình tiết tăng nặng và một người thực hiện hành vi không có tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ thì mức phạt tiền dành cho hai người sẽ khác nhau. Do nội dung quyết định phải phù hợp với những tình tiết cụ thể của vụ việc được áp dụng nên mỗi quyết định chỉ được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng nhất định trong một trường hợp nhất định mà thôi. * Quyết định áp dụng pháp luật là cơ sở pháp lí để tổ chức thực hiện pháp luật, là căn cứ để đánh giá năng lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân ban hành quyết định, để kiểm tra, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các đối tượng có liên quan Đối với các cá nhân, tổ chức không sử dụng quyền lực nhà nước, mặc dù có tới ba hình thức thực hiện pháp luật (chỉ trừ hình thức áp dụng pháp luật) như đã nói ở trên nhưng trong nhiều trường hợp các cá nhân, tổ chức không thể trực tiếp thực hiện pháp luật được mà cần đến sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, các cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật đóng vai trò người tổ chức cho các cá nhân, tổ chức đó thực hiện pháp luật. Trong một số trường hợp khác, cơ quan, người có thẩm quyền phải áp dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp hay giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức, cơ quan. Bằng việc ban hành quyết định áp dụng pháp luật, cơ quan, người áp dụng pháp luật quy định các cá nhân, tổ chức có liên quan có những quyền và nghĩa vụ gì, thời hạn và cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó, hậu quả của việc không thực hiện các nghĩa vụ đã được xác định là gì, phương thức bảo vệ các quyền và lợi ích liên quan đến nội dung quyết định áp dụng pháp luật. Ví dụ, nội dung bản án dân sự gồm các quyết định của tòa án về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về án phí và quyền kháng cáo đối với bản án ; nội dung quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải ghi rõ hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung (nếu có), thời hạn, nơi thi hành quyết định xử phạt, quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt hành chính, quyết định cũng ghi rõ cá nhân, tổ chức bị xử phạt nếu không tự nguyện chấp hành thì bị cưỡng chế thi hành . Như vậy, quyết định áp dụng pháp luật là cơ sở để các cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều quy định của pháp luật mà nếu không có các quyết định áp dụng này thì họ không thể thực hiện được. Cũng chính vì thế, quyết định áp dụng pháp luật là căn cứ để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các đối tượng có liên quan. Chẳng hạn, căn cứ quyết định thanh tra, cơ quan có thẩm quyền có thể xác định được cơ quan thanh tra đã tiến hành hoạt động thanh tra đúng thủ tục, đúng thời hạn, đúng phạm vi thanh tra hay không; căn cứ quyết định giải quyết khiếu nại, cơ quan có thẩm quyền có thể kiểm tra, giám sát được hoạt động khôi phục các quyền và lợi ích chính đáng của người khiếu nại đã bị xâm hại bởi quyết định hành chính bị khiếu nại hay kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại lần hai, kiểm tra hoạt động xét xử vụ án hành chính trong trường hợp người khiếu nại khiếu nại tiếp hay kiện ra tòa hành chính. Bên cạnh đó, thông qua quyết định áp dụng pháp luật cũng có thể đánh giá phần nào năng lực hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền như đánh giá về tinh thần trách nhiệm trong việc tuân thủ các thời hạn trong khi áp dụng pháp luật, về khả năng nhìn nhận, đánh giá, giải quyết vụ việc trên cơ sở các tình huống thực tế và các quy định của pháp luật. Từ đó có thể tìm ra các giải pháp hợp lí nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan nhà nước và chất lượng của quyết định áp dụng pháp luật. d. Tổ chức thực hiện trên thực tế quyết định áp dụng pháp luật đã được ban hành và đã có hiệu lực pháp lý. Trước hết có thể nói, hiện nay trong khoa học và thực tiễn pháp lý nước ta còn có ý kiến khác nhau đối với giai đoạn này. Có ý kiến khẳng định, đây không phải là một giai đoạn trong qui trình áp dụng pháp luật. Qui trình áp dụng pháp luật có kết quả cuối cùng là đưa ra quyết định áp dụng pháp luật. Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật không phải lúc nào cũng là hoạt động có tính liên tục được thực hiện ở cùng chủ thể đưa ra quyết định đó. Chẳng hạn, toà án xét xử vụ án dân sự và ban hành ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó nhưng việc tổ chức thi hành án lại do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. Tuy nhiên cũng có quan điểm khác cho rằng, tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật cần phải coi là một giai đoạn của qui trình áp dụng pháp luật. Mặc dù không phải lúc nào chủ thể đưa ra quyết định áp dụng pháp luật cũng đồng thời tổ chức thực hiện quyết định đó. Xét theo quan điểm toàn diện cho thấy, về mặt nội dụng, mục đích của việc áp dụng pháp luật phải được cụ thể hoá trên thực tế. Đó là một qui trình thống nhất và toàn vẹn của nhiều yếu tố liên thông, là kết quả của việc chuyển hoá cái chung của qui định của pháp luật thành cái riêng, cụ thể vào đời sống thực tiễn. Áp dụng pháp luật chỉ có giá trị thực và hiệu lực khi nội dung quyết định cá biệt được các chủ thể có liên quan tôn trọng thực hiện. Như vậy, việc chủ thể tiến hành áp dụng pháp luật không tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật của mình đưa ra hoàn toàn không phủ nhận đó là một giai đoạn cuối cùng của áp dụng pháp luật. Việc bảo đảm cho các quyết định áp dụng pháp luật có hiệu lực thực thi trên thực tế có ý nghĩa quan trọng bởi mục đích điều chỉnh của pháp luật mới đạt được trên thực tế. Để các quyết định áp dụng pháp luật được các chủ thể có liên quan tôn trọng thực hiện cần chuẩn bị tốt các điều kiện thiết yếu để các chủ thể đó có khả năng thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý cũng như trách nhiệm và trách nhiệm pháp lý của họ như: các điều kiện về kỹ thuật, pháp lý, tổ chức, xã hội và tư tưởng…v.v. Cần tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực thi các quyết định áp dụng pháp luật đối với các chủ thể có liên quan để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của nó trên thực tế.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan