Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ De tai 2015...

Tài liệu De tai 2015

.DOC
15
443
132

Mô tả:

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN LẤY XÂY DỰNG VỀ CHÍNH TRỊ LÀM CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN LẤY XÂY DỰNG VỀ CHÍNH TRỊ LÀM CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN MỚI Lý luận và thực tiễn đã khẳng định: Xây dựng yêu tố chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Đây là một nguyên lý bất di, bất dịch. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử, do bối cảnh của cuộc đấu tranh dân tộc trong nước và trên trường quốc tế; do sự tác động của những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, mà yêu cầu, nội dung xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị có sự phát triển phù hợp. Việc xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trong giai đoạn hiện nay đặt ra những vấn đề rất mới cả về nhận thức, tổ chức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng chính trị của xây dựng lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. I. Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của giai cấp công nhân. 1. Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo quan điểm Mác - Lênin. Cũng như giai cấp và Nhà nước, chiến tranh và quân đội là những hiện tượng chính trị xã hội. Sự xuất hiện của chiến tranh và lực lượng vũ trang gắn chặt với sự xuất hiện của giai cấp và Nhà nước. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin đã nghiên cứu lý luận về chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với lý luận về giai cấp và Nhà nước. Lực lượng vũ trang là một hiện tượng lịch sử. Lực lượng vũ trang ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu và loài người bị phân chia thành các giai cấp. Đi đôi với việc phân chia xã hội thành giai cấp, sự bất bình đẳng về sở hữu tài sản càng trở nên sâu sắc, 1 lực lượng vũ trang được tăng cường và có cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn. Khi xuất hiện bộ máy cưỡng bức đặc biệt là nhà nước, thì cũng đẻ ra thiết chế xã hội mới về chất là lực lượng vũ trang. Khi đã xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước, nảy sinh mâu thuẫn đối kháng thì chiến tranh cũng xuất hiện trong đời sống xã hội. Đối với bọn bóc lột thì chiến tranh đã trở thành phương tiện và công cụ quan trọng để nô dịch các dân tộc khác, để củng cố địa vị thống trị của chúng ở trong nước. Ăngghen đã viết: “Quân đội là một tập đoàn người vũ trang có tổ chức, do nhà nước xây dựng nên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn công hoặc chiến tranh phòng ngự”1 Như vậy, sự xuất hiện của hiện tượng lực lượng vũ trang trong lịch sử gắn chặt với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, giai cấp, nhà nước và chiến tranh. Lực lượng vũ trang là công cụ để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một Nhà nước nhất định. C.Mác, Ph.Ăng ghen và Lênin xem xét vấn đề chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ với chính trị. Phạm trù bạo lực, chiến tranh và lực lượng vũ trang bao giờ cũng gắn liền với phạm trù chính trị - giai cấp. Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực; lực lượng vũ trang là công cụ để tiến hành chiến tranh, để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định Lực lượng vũ trang là lực lượng đặc biệt của một giai cấp, là công cụ vũ trang chủ yếu của Nhà nước để tiến hành chiến tranh nhằm thực hiện mục đích chính trị của giai cấp. lực lượng vũ trang hiện và tồn tại gắn liền với chính trị, bị chi phối bởi chính trị, là công cụ thực hiện chính trị. Mọi mặt hoạt động của lực lượng vũ trang đều bị quy định bởi chính trị và phụ thuộc vào chính trị. Không có và không thể có lực lượng vũ trang “phi giai cấp” hoặc “siêu giai cấp”, “quân đội phi chính trị” hoặc “đứng ngoài chính trị”. Trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị; xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang 1 C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, Tập14, tr.11. 2 C.Mác, Ph.Ăng ghen và V.I Lênin đã thường xuyên quan tâm xây dựng cả 3 phương diện chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là sự kiên định và thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp công nhân; giáo dục hệ tư tưởng Mác Lênin, thực hiện đường lối, nguyên tắc tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ quan lực lượng vũ trang theo quan điểm, đường lối của giai cấp công nhân. Mặt khác, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin rất quan tâm xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang với nhân dân, coi đây là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới khác về chất với các kiểu lực lượng vũ trang của giai cấp, Nhà nước bóc lột trước đây. V.I Lênin đặc biệt quan tâm đến việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành công tác tưởng, công tác tổ chức trong lực lượng vũ trang, coi đó là một nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới, trực tiếp nâng cao chất lượng chính trị, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. V.I Lênin đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ luận điểm sai lầm và phản động của giai cấp tư sản coi lực lượng vũ trang “ là trung lập đứng ngoài chính trị”, từ đó đi tới phủ nhận nội dung giai cấp trong xây dựng lực lượng vũ trang. Những thảm kịch ở Liên Xô và Đông Âu đầu những năm 90 vừa qua là bài học đau xót và lời cảnh tỉnh cho những ai xa rời những nguyên lý, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới, nhất là vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang kiểu mới. 2. Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh Vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa những kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây 3 dựng lực lượng vũ trang về chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho lực lượng vũ trang ta luôn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của Nhân dân. Bằng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang Nhân dân Việt Nam về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản quý báu, thể hiện ở một số nội dung sau: Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở cho mọi mặt khác, coi việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần là một trong những yêu tố quyết định đến tiến trình và kết cục của chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị” và “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”2 Tư tưởng coi trọng nhân tố chính tri - tinh thần, coi trọng nguyên tắc xây dựng về chính trị thể hiện tập trung ở vấn đề cốt lõi là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, bảo đảm cho lực lượng vũ trang ta luôn luôn là lực lượng chính trị trung thành tin cậy của Đảng, của Nhà nước, của Nhân dân Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang ở một nước mà thành phần tham gia lực lượng vũ trang là con em của các tầng lớp nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, là đóng góp lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân. Đồng thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về sự thống nhất gắn bó giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của lực lượng vũ trang nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị gắn liền với những quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua thực tiễn hơn sáu thập kỷ qua những tư tưởng đó ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và trở thành những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng lực lượng 2 Hồ Chí Minh; Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, t6, tr. 318 4 vũ trang. Đó là nguyên tắc coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị là “gốc”, là cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện; không ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tinh nhân dân, tính dân tộc. Thực tiễn 71 năm xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã tạo dựng được sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn của lực lượng vũ trang để chiến đấu và chiến thắng những kẻ thù với vũ trang xâm lược nhà nghề có số lượng đông, có vũ khí, trang bị, kỹ thuật hiện đại. Lực lượng vũ trang ta đã lập nên những chiến công vẻ vang, góp phần xuất sắc vào sự nghiệp đấu tranh giành quyền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những giá trị lý luận xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn lực lượng vũ trang phải tập trung sức tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở. 3. Những yếu tố tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trong giai đoạn hiện nay a) Tình hình thế giới khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường đang tác động mạnh mẽ sâu sắc, nhiều mặt đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Cục diện kinh tế, chính trị thế giới thay đổi sâu sắc, nhanh chóng, nhất là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu làm cho tương quan so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng thay đổi bất lợi cho chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn ra trong điều kiện mới, với những nội dung mới, hình thức phức tạp mới, dưới những sắc thái mới, mà tính chất của chúng không kém phần gay go, quyết liệt 5 Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thay đổi chiến lược tiến công chủ nghĩa xã hội và các phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới, từ xâm lược bằng vũ trang là chủ yếu sang xâm lược bằng phi vũ trang, bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” là chủ yếu, kết hợp với răn đe quân sự, sẵn sàng tiến hành chiến tranh xâm lược, kể cả tiến hành chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao. b) Sự phát triển của đất nước trong tiến trình đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra những vấn đề mới đối với xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đời sống xã hội, những nhân tố kinh tế, chính trị xã hội, giai cấp, tư tưởng đang biến đổi và tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trên các mặt chủ yếu sau đây: Sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị Sự phát triển của kinh tế, sự ổn định chính trị của đất nước đã tác động tích cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang: lòng tin vào Đảng, vào chế độ được củng cố, ý thức, trách nhiệm chính trị đối với sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng cao, làm tăng thêm sức mạnh chính trị - tinh thần của lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, bên cạnh sự tác động tích cực, thì mặt trái của nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những tiêu cực mới, tác động không nhỏ đến lực lượng vũ trang như: ý thức giác ngộ chính trị; nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; sự thoái hoá biến chất, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vì vậy, việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là vấn đề cốt tử trong xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay phải giải quyết mâu thuẫn giữa việc tiếp 6 tục xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang với thành phần tham gia lực lượng vũ trang từ các giai cấp, tầng lớp khác nhau của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. c) Yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang trong giai đoạn cách mạng hiện nay Quán triệt đường lối cách mạng của Đảng qua các thời kỳ và từ thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta từ sau năm 1975 đến nay, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta đã có sự phát triển từng bước và đổi mới mạnh mẽ trong quá trình đổi mới đất nước. Tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ chủ yếu là tư duy về quân sự, về chiến tranh đã phát triển một cách toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ngoại giao, quân sự; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân để chủ động ứng phó với mọi tình huống, ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trường hoà bình để xây dựng đất nước, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Phải kết hợp chặt chẽ quốc phòng - an ninh với đối ngoại; quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong khi đặt nhiệm vụ trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn coi trọng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ, quan hệ khăng khít với nhau Yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau đây: Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. “Bảo vệ Tổ quốc ngày nay là bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh 7 kinh tế, an ninh tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”.3 Xây dựng và phát triển chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, vững mạnh, đồng thời phải trực tiếp bảo vệ từng tế bào của chế độ một cách kiên quyết và thường xuyên. Xây dựng và bảo vệ xâm nhập lẫn nhau, diễn ra một cách phổ biến, thường xuyên ở mọi lúc mọi nơi, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động, trong mỗi tổ chức, mỗi con người. Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, một mặt nhấn mạnh tích cực xây dựng đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác không coi nhẹ các biện pháp vũ trang bảo đảm có đủ sức mạnh cần thiết để răn đe, giữ vững hoà bình và sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược. điều đó đòi hỏi: Phải chăm lo xây dựng tiềm lực mọi mặt của đất nước: tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực khoa học - công nghệ và tiềm lực quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ, giữ gìn hoà bình, không để xảy ra chiến tranh là thượng sách để giữ nước. Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. d) Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay: Cùng toàn Đảng, toàn dân tích cực đấu tranh phòng chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ; là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ngăn chặn và làm thất bại các cuộc chiến tranh xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau, làm tròn chức năng đội quân chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang trong giai đoạn mới. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.233 3 8 Luôn luôn là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trên lĩnh vực chính trị, giữ vững ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường chính trị thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng đôi quân công tác trong giai đoạn mới. Tích cực tham gia, xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm tròn chức năng lực lượng vũ trang lao động sản xuất trong giai đoạn mới. II. Những giải pháp cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân về chính trị trong giai đoạn hiện nay. 1. Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang. Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị là vấn đề rất cơ bản, làm cơ sở tạo ra sức mạnh của lực lượng vũ trang. Chỉ có giác ngộ chính trị cao, lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng thì lực lượng vũ trang mới kiên định với mục tiêu lý tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh chính trị, tư tưởng, tinh thần, làm cơ sở tạo thành sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang. Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là điều kiện cơ bản để cán bộ, chiến sĩ nhận thức, xem xét và giải quyết đúng đắn các sự kiện, hiện tượng trong đời sống xã hội; nhận thức đúng kẻ thù, không mơ hồ ảo tưởng, lẫn lộn bạn - thù, địch - ta; có thái độ kiên quyết, đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái xấu, cái sai. Lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang còn là một trong những điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị, làm cho lực lượng vũ 9 trang thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân. Nội dung nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang bao gồm: Nâng cao nhân thức, giác ngộ cho cán bộ, chiến sĩ về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; kiên định, không giao động, hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; xây dựng ý chí, động cơ, quyết tâm thực hiện mục tiêu lý tưởng; đấu tranh với những quan điểm sai trái, hiện tượng hòai nghi, dao động về mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nghiên cứu, học tập, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tưởng của Đảng giữ vai trò chủ đạo chi phối, định hướng nhận thức và hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bổ sung, hoàn thiện đường lối. Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các trào lưu tư tưởng tư sản, phản động, những quan điểm, hiện tượng sai trái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thường xuyên giáo dục truyền thống, lịch sử vẻ vang của dân tộc, của Đảng, của quân đội, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu Đảng, yêu chế độ, yêu nhân dân. Xây dựng tình cảm, trách nhiệm giữ gìn và phát huy truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc và quân đội. Bồi dưỡng, xây dựng, hình thành ở cán bộ, chiến sĩ thế giới quan khoa học và cách mạng, có quan điểm và phương pháp xem xét, giải quyết các sự kiện, hiện tượng một cách đúng đắn, có lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, có thái độ kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái mới, cái tiến bộ, phê phán cái xấu, cái sai, cái tiêu cực, lạc hậu. 10 Đấu tranh khắc phục, ngăn chặn những hiện tượng thoái hoá, biến chất về chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu kiên định, thiếu nhạy cảm về chính trị, “dĩ hoà vi quý” “ gió chiều nào che chiều ấy”, cơ hội, thủ đoạn về chính trị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh… 2. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Kiên trì, giữ vững sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, kết hợp với nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang, lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đấu tranh chống thủ đoạn “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với quân đội. Củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Quân ủy Trung ương. Xây dựng các tổ chức trong lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của quân đội. Thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ đảng gắn với kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ trì, cán bộ chủ chốt. Coi trọng củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, có chất lượng cao, số lượng phù hợp, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Giữ vững và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật Đảng. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện ché độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội. Chế độ một người chỉ huy và chế độ chính uỷ, chính trị viên đều là bộ phận trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Người chỉ huy và người chính 11 uỷ, chính trị viên hoạt động dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng uỷ cùng cấp. Người chính uỷ, chính trị viên là người chủ trì về chính trị, chủ trì công tác đảng, công tác chính trị trong đơn vị. Quan hệ giữa người chỉ huy và người chính uỷ, chính trị viên là quan hệ hợp đồng công tác. Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững sự lãnh đạo của Đảng với tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Không đối lập sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước. Khắc phục quan niệm sai lầm đòi tăng cường sự quản lý của Nhà nước bằng cách buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang. 3. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị trong xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị Đội ngũ cán bộ là lực lượng nòng cốt tạo thành tổ chức, tạo thành quân đội. Đường lối, chính sách và cán bộ là nhân tố quyết định sự nghiệp cách mang, xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang. Bản chất giai cấp công nhân, bản chất chính trị xã hội, sức mạnh chính trị của lực lượng vũ trang được thể hiện tập trung ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ là người trực tiếp chỉ huy đơn vị, giáo dục rèn luyện chiến sĩ, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh làm cơ sở để xây dựng các đơn vị lực lượng vũ trang vững mạnh vè chính trị, giáo dục, rèn luyện chiến sĩ. Để xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị phải hết sức coi trọng xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ trì về chính trị.4 4. Tăng cường củng cố sự đoàn kết thống nhất, phát huy dân chủ, tăng cương kỷ luật, giải quyết tốt các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang. Quan hệ chính trị của lực lượng vũ trang được thể hiện trước hết ở quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang. Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị phải coi trọng xây dựng củng cố và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, đó là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, quan hệ 4 Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VII 12 đồng chí đồng đội, quan hệ cá nhân với tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy với phục tùng… Đây là mối quan hệ nội tại bên trong của quân đội cách mạng, được thể hiện trên cơ sở giác ngộ sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, thống nhất lợi ích. Vì vậy, các mối quan hệ đó phải được thực hiện trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của điều lệnh, kỷ luật của lực lượng vũ trang đồng thời phải thực sự dân chủ, bình đẳng, thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, lợi ích. Cá mối quan hệ đó phải được xây dựng và giải quyết trên nền tảng của tình cảm đồng chí, đồng đội, luôn sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Đó phải là mối quan hệ đoàn kết, thương yêu, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau được tạo lập và phát triển từ yêu càu của hoạt động lực lượng vũ trang, hoạt động chiến đấu. 5. Tích cực đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng, phong, chống “diễn biến hoà bình” “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang. Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống những âm mưu, thủ đoạn, quan điểm, hiện tượng sai trái thù địch. Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang sử dụng chiến lược diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá toàn diện sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Một trong những thủ đoạn cơ bản của chiến lược đó là chống phá trên lĩnh vực chính trị tư tưởng – văn hoá, “phi chính tri hoá” lực lượng vũ trang . Phòng, chống, đấu tranh, ngăn chặn và làm thất bại những âm mưu thủ đoạn đó sẽ góp phần trực tiếp xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang về chính trị. Tích cực, kiên quyết đấu tranh vạch trần những thủ đoạn xuyên tạc phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong xã hội và trong lực lượng vũ trang; những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận lịch sử, truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc, lực lượng vũ trang, những luận điệu “ đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập”; ca ngơi, cổ vũ những giá trị của chủ nghĩa tư bản, văn hoá, lối sống phương tây; những thủ đoạn kích động đối lập Đảng với Nhà nước, với hệ thống chính trị, 13 với lực lượng vũ trang; xuyên tạc, phủ nhận bản chất, mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, tầm thường hoá, vô hiệu hoá vai trò của lực lượng vũ trang trong thời bình. KẾT LUẬN Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở là yêu cầu khách quan, là nguyên tắc bất di, bất dịch trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải toàn diện, cả về chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật… trong đó xây dựng về chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với hoàn thành nhiệm vụ được giao của các lực lượng vũ trang, sự sống còn của chế độ. Để đáp ứng yêu cầu đó, Đảng phải nắm vững những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam xác định quan điểm chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang đúng đắn, nhằm xây dựng lực lượng vũ trang trở thành lực lượng nòng cốt cho toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Ngày nay thường xuyên quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về chính trị; nhất là trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO. Thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân. Thực hiện tốt Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị trong quân đội… Đảm bảo: Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” lực lượng vũ trang nhân dân. Tài liệu tham khảo 14 1. C. Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1994, Tập14, tr.11. 2. Hồ Chí Minh; Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tập 6, tr. 318 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.233 4. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VII. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan