đề cương luận án đánh giá kết quả điều trị lỗ tiểu lệch thấp bằng vạt da niêm mạc bao quy đầu có cuống trục ngang
Châu Văn Việt
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
CHÂU VĂN VIỆT
§¸NH GI¸ KÕT QU¶ §IÒU TRÞ Lç TIÓU LÖCH THÊP
THÓ D¦¥NG VËT B»NG V¹T DA - NI£M M¹C
BAO QUY §ÇU Cã CUèNG TRôC NGANG
ĐỀ CƯƠNG DỰ TUYỂN NGHIÊN CỨU SINH
HÀ NỘI - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
BỘ Y TẾ
CHÂU VĂN VIỆT
§¸NH GI¸ KÕT QU¶ §IÒU TRÞ Lç TIÓU LÖCH THÊP
THÓ D¦¥NG VËT B»NG V¹T DA - NI£M M¹C
BAO QUY §ÇU Cã CUèNG TRôC NGANG
Chuyên ngành : Ngoại thận và Tiết niệu
Mã số
: 62720126
ĐỀ CƯƠNG DỰ TUYỂN NGHIÊN CỨU SINH
Người dự kiến hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Trần Ngọc Bích
2. TS. Phạm Duy Hiền
HÀ NỘI - 2015
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÀI LUẬN VỀ DỰ ĐỊNH NGHIÊN CỨU
Họ và tên: Châu Văn Việt
Cơ quan công tác: Khoa Ngoại Tiết niệu - Bệnh viện ĐKTW Thái Nguyên
Chuyên ngành dự tuyển: Ngoại Thận và Tiết niệu
Mã số: 62720126
1. Lý do lựa chọn đề tài, lĩnh vực nghiên cứu
Lỗ tiểu lệch thấp (LTLT - hypospadias) là một dị tật tiết niệu bẩm sinh
mà lỗ tiểu đổ ra bất thường ở mặt dưới của quy đầu, của dương vật, bìu hoặc
tầng sinh môn và thường kèm theo biến dạng của dương vật như cong, xoay
trục hay lún gục vào bìu. Đây là một trong những dị tật tiết niệu hay gặp ở trẻ
em với tỷ lệ 5,2 - 8,2/1000 ở trẻ trai.
Dị tật lỗ tiểu lệch thấp tuy không gây nguy hiểm nhưng ảnh hưởng
nhiều đến tâm lý cũng như sinh hoạt hàng ngày, làm giảm chất lượng cuộc
sống. Đối với những trẻ bị dị tật này, khi còn nhỏ trẻ đi tiểu khó khăn, thường
rụt rè, hay bị trêu chọc. Khi trưởng thành, ngoài những ảnh hưởng về tiểu
tiện, bệnh sẽ gây trở ngại cho khả năng hoạt động tình dục, ảnh hưởng đến
khả năng sinh sản, luôn mang một tâm lý tự ti về bản thân và những lo lắng
về tương lai nòi giống…
Phẫu thuật LTLT là một trong những phẫu thuật khó, dễ thất bại hoặc
để lại di chứng cần phải sửa chữa nhiều lần, gây tốn kém và ảnh hưởng đến
tâm lý bệnh nhi. Cho đến nay trên thế giới có nhiều phương pháp phẫu thuật
lỗ tiểu lệch thấp đã được mô tả. Mục đích của phẫu thuật là đưa miệng sáo
niệu đạo ra đỉnh dương vật giúp trẻ có thể đi tiểu được ở tư thế đứng, tái tạo
lại hình thái của dương vật và trong một số trường hợp nặng nhằm cải thiện
chức năng hoạt động tình dục.
Hiện nay ở Việt Nam, tại các bệnh viện lớn như Bệnh viện Nhi Trung
ương, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Nhi đồng 1 và 2 đã áp dụng điều trị
LTLT bằng nhiều kỹ thuật với nhiều loại chất liệu khác nhau để tạo hình niệu
đạo như: Vạt da niêm mạc quy đầu có cuống mạch hoặc tự do, mảnh ghép da
tự do, mảnh ghép niêm mạc bàng quang, mảnh ghép niêm mạc miệng [5] đã
đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, tỷ lệ biến chứng rò niệu đạo theo
Nguyễn Thanh Liêm là 17,6% [6], [7] và Trần Ngọc Bích trong phẫu thuật
một thì là 17,1% [8].
Tại Bệnh viện Nhi Trung ương đang sử dụng chất liệu vạt da niêm mạc
bao quy đầu (NMBQĐ) có cuống mạch để tái tạo niệu đạo. Để đánh giá toàn
diện hơn những ưu, nhược điểm và kết quả phẫu thuật chúng tôi thực hiện đề
tài: “Đánh giá kết quả điều trị lỗ tiểu lệch thấp thể dương vật bằng vạt da niêm mạc bao quy đầu có cuống trục ngang” nhằm mục đích đưa ra những
khuyến nghị để lựa chọn phương pháp phẫu thuật, sao cho phù hợp với thể
bệnh của BN, kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Từ đó giảm tỷ lệ biến chứng,
không phải phẫu thuật nhiều lần để đảm bảo chức năng tâm sinh lý sau khi
phẫu thuật cho BN.
2. Mục tiêu và mong muốn đạt được khi đăng ký đi học nghiên cứu sinh
- Mục tiêu: Cập nhật các kiến thức mới trong phẫu thuật tạo hình niệu đạo
điều trị lỗ tiểu lệch thấp (Hypospadias). Học hỏi những kiến thức và kinh nghiệm
quý báu từ các thầy cô, đặc biệt là các thầy hướng dẫn, các phẫu thuật viên giàu
kinh nghiệm trong lĩnh vực nghiên cứu - những người có trình độ chuyên môn
cũng như uy tín và đạo đức nghề nghiệp hàng đầu trong chuyên ngành.
- Mong muốn: Được làm nghiên cứu sinh là một cơ hội rất tốt cho tôi
thực hiện các mong muốn, ấp ủ nghề nghiệp. Nghiên cứu về phẫu thuật tạo
hình niệu đạo điều trị LTLT là một lĩnh vực tôi mong muốn được học hỏi,
nghiên cứu sâu hơn. Bộ môn Ngoại - Trường Đại học Y Hà Nội là một trong
những Trung tâm đầu ngành về chuyên ngành Ngoại khoa của cả nước, đây là
nơi thực hiện rất nhiều các công trình nghiên cứu có chất lượng, uy tín khoa
học và có nhiều thầy là những chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực Ngoại
khoa. Qua quá trình thực hiện luận án Tiến sỹ, tôi mong muốn được nắm
vững những kỹ thuật, kiến thức mớithông qua việc học hỏi các thầy và các
đồng nghiệp trong và ngoài Bộ môn. Bên cạnh đó, tôi sẽ được các thầy truyền
dạy cho tôi về phương pháp nghiên cứu khoa học, những kỹ năng ngoại khoa
và kinh nghiệm trong phẫu thuật. Tôi sẽ học được tính chủ động, độc lập
trong nghiên cứu, khả năng làm việc nhóm (phối hợp với các chuyên ngành
liên quan), cũng như khả năng giải quyết những vấn đề mới, hóc búa đặt ra
trong thực tiễn nghiên cứu. Sau khi hoàn thành luận án, tôi sẽ áp dụng các kết
quả nghiên cứu vào thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả trong
điều trị lỗ tiểu lệch thấp và tiếp tục triển khai nhiều nghiên cứu khoa học có
giá trị.
3. Lý do để lựa chọn cơ sở đào tạo
Trường Đại Học Y Hà Nội, được thành lập năm 1902, là cái nôi đào tạo
cán bộ y tế chất lượng cao trong cả nước. Cùng với bề dày truyền thống và
lịch sử phát triển lâu dài của mình, Trường Đại học Y Hà Nội đã có những
đóng góp to lớn vào sự nghiệp giáo dục - đào tạo cũng như sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. Từ khi còn là một bác sĩ đa khoa tốt nghiệp tại
Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, tôi đã luôn ấp ủ mơ ước trong tương
lai sẽ được Trường Đại học Y Hà Nội đón nhận, để được học tập và nghiên
cứu sâu hơn ở trình độ sau đại học, được trực tiếp học những kiến thức,
những kỹ năng phẫu thuật, các phương pháp phẫu thuật mới, đạo đức nghề
nghiệp, phong cách làm việc chuyên nghiệp của các thầy mà từ thời sinh viên
tôi hằng ao ước. Dù đi đâu, làm việc ở trong lĩnh vực nào, trong tôi luôn giữ
hình ảnh Trường Đại học Y Hà Nội có bề dày lịch sử, đáng kính và rất tự hào.
Một điều đặc biệt và vô giá mà không một cơ sở đào tạo nào sánh được,
đó chính là nhà trường có một đội ngũ nhiều thế hệ các thầy cô giáo gồm các
giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ và chuyên gia đầu ngành trong tất cả các lĩnh vực
y khoa và có các môi trường thực hành tuyệt vời. Những kiến thức được học
tại trường là quy chuẩn, nơi đó tôn vinh những giá trị đạo đức nghề nghiệp mà
tấm gương lao động và cống hiến từ các thầy cô giáo là hết sức rõ ràng mà thế
hệ trẻ chúng tôi phải noi theo.
Ngày nay, trường Đại học Y Hà Nội vẫn tiếp tục phát huy vai trò trọng
điểm của mình: gắn bó với sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân và đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành y tế Việt Nam. Chính vì vậy, tôi
quyết định chọn trường Đại học Y Hà Nội là nơi tôi mong muốn sẽ được theo
học nghiên cứu sinh.
4. Những dự định và kế hoạch để đạt được những mục tiêu mong muốn
Để hoàn thành được mục tiêu nghiên cứu của luận án Tiến sĩ, tôi phải hết
sức cố gắng trong học tập, làm việc chủ động, tích cực hơn, luôn luôn trau
dồi thêm kiến thức trực tiếp qua thầy cô giáo cũng như qua sách báo. Lên kế
hoạch chi tiết cho việc nghiên cứu, học tập tại Bộ môn Ngoại - Trường Đại
học Y Hà Nội và thực hành lấy số liệu tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Ngoài
việc thực hiện đề tài tôi còn phải hoàn thiện các tín chỉ theo khung chương
trình đào tạo của Bộ cũng như của Nhà trường. Kết hợp với việc học tập kiến
thức chuyên môn tôi còn học hỏi những kinh nghiệm sống quý báu từ các
thầy cô, đặc biệt là các thầy hướng dẫn - những người có uy tín và đạo đức
nghề nghiệp cao.
5. Kinh nghiệm, kiến thức, sự hiểu biết và sự chuẩn bị của thí sinh trong
vấn đề dự định nghiên cứu.
5.1. Kinh nghiệm
- Về nghiên cứu
Sau khi tốt nghiệp đại học ra trường, tôi được nhận về công tác tại Khoa
Ngoại Tiết niệu - Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, tôi luôn nhận
được sự giúp đỡ của Ban giám đốc bệnh viện, lãnh đạo khoa và các đồng
nghiệp, hàng năm tôi đều thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bệnh
viện. Qua quá trình học cao học Ngoại khoa từ năm 2013 đến 2015, bước đầu
tôi đã học tập tích lũy được một số kiến thức và kinh nghiệm về việc thực
hiện một nghiên cứu về chuyên ngành Ngoại khoa. Quá trình thực hiện luận
văn cao học đã đem lại cho tôi nhiều kinh nghiệm trong cách tiếp cận và giải
quyết vấn đề, nâng cao kiến thức và các kỹ năng chuyên môn, kể cả kỹ năng
trình bày một bài báo cáo khoa học. Tôi tin rằng, mặc dù bề dày nghiên cứu
khoa học của mình còn chưa nhiều, nhưng cũng đủ tạo cho tôi một sự tự tin
cần thiết để tôi từng bước hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh.
- Về thực tế, hoạt động xã hội và ngoại khóa khác.
Với vai trò là một bác sỹ Ngoại Tiết niệu, mặc dù thời gian làm việc rất
nhiều nhưng tôi luôn nhiệt tình tham gia đầy đủ các hoạt động do Bệnh viện
tổ chức. Tôi thường xuyên tham gia đi khám bệnh tình nguyện cho người dân
nghèo ở vùng sâu vùng xa, tham gia tư vấn khám sức khỏe cho cộng đồng.
Các hoạt động trên giúp tôi hiểu rõ thêm về cuộc sống của người dân, giúp tôi
ý thức rõ ràng hơn trách nhiệm đối với cộng đồng của mình.
Ngoài ra tôi còn luôn có ý thức tự trau dồi kiến thức cho bản thân, tham
gia các khóa học, tập huấn ngắn hạn ở các cơ sở đào tạo có uy tín như tại
Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Việt Đức và Trường Đại học Y Hà
Nội. Những lần học tập và tiếp xúc này đã giúp tôi hoàn thiện bản thân, nâng
cao trình độ chuyên môn cũng như tăng cường các mối quan hệ và giao lưu
với bạn bè đồng nghiệp.
5.2. Kiến thức, sự hiểu biết và sự chuẩn bị của thí sinh trong vấn đề
dự định nghiên cứu
Sau khi tốt nghiệp đại học ra trường, tôi được nhận vào công tác tại Khoa
Ngoại Tiết niệu của bệnh viện. Trong quá trình làm việc tại khoa, tôi được gặp
nhiều trường hợp bệnh nhân bị dị tật lỗ tiểu lệch thấp ở Thái Nguyên và các tỉnh
Miền núi phía bắc, phần lớn các bệnh nhân này có hoàn cảnh kinh tế tương đối
khó khăn. Tuy nhiên do còn thiếu các phương tiện trong phẫu thuật và trình độ
của phẫu thuật viên nên có rất nhiều trường hợp BN phải chuyển lên tuyến trên
để phẫu thuật, hoặc có làm phẫu thuật nhưng tỷ lệ biến chứng còn cao. Vì vậy tôi
đã được cử đi học về phẫu thuật tạo hình niệu đạo điều trị lỗ tiểu lệch thấp tại
Bệnh viện Nhi Trung ương. Sau đó tôi đã triển khai phẫu thuật thành công cho
nhiều bệnh nhân tại bệnh viện tuy nhiên vẫn có tỷ lệ rò niệu đạo sau mổ.
Với kinh nghiệm làm phẫu thuật Hypospadias đã 3 năm, vì vậy tôi đã tích
lũy cho mình một số kiến thức và sự hiểu biết về Hypospadias. Ngoài ra để
chuẩn bị kiến thức trong vấn đề dự định nghiên cứu, tôi đã tìm đọc các tài liệu
tham khảo trong và ngoài nước, xin ý kiến các thầy, tìm gặp các đồng nghiệp đã
nghiên cứu hoặc có kinh nghiệm nghiên cứu về vấn đề này để học hỏi thêm kiến
thức và đưa ra nội dung nghiên cứu phù hợp và có tính khả thi. Nếu được trúng
tuyển nghiên cứu sinh của trường Đại học Y Hà Nội và được tiến hành hành lấy
số liệu tại Bệnh viện Nhi Trung ương, là những nơi có điều kiện về phương pháp
nghiên cứu đạt chuẩn cho các đề tài nghiên cứu, tôi sẽ hết sức cố gắng tận dụng
thời gian để học tập vì đây là môi trường tuyệt vời cho việc học, nghiên cứu, làm
việc để nâng cao trình độ chuyên môn. Bản thân tôi nhận thấy mình đã sẵn sàng
cho đề tài nghiên cứu sinh của mình.
5.3. Các tồn tại
Tôi nhận thấy bên cạnh sự giảng dạy, giúp đỡ của các thầy cô và các bạn
đồng nghiệp, bản thân mình cần phải tự rèn luyện, tích cực chủ động nhiều
hơn nữa trong học tập và nghiên cứu để đáp ứng với các yêu cầu ngày càng
cao của thực tiễn công tác. Quá trình làm nghiên cứu sinh tại trường Đại học
Y Hà Nội sẽ giúp tôi bổ sung kiến thức và kỹ năng chuyên môn, khả năng
nghiên cứu khoa học, nâng cao đạo đức nghề nghiệp, nhằm phục vụ tốt hơn
trong công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân.
6. Dự kiến việc làm và các nghiên cứu tiếp theo sau khi tốt nghiệp
Sau khi học xong nghiên cứu sinh, tôi sẽ tiếp tục công việc của một bác
sĩ tại Bệnh viện ĐKTW Thái Nguyên. Tôi sẽ nhanh chóng áp dụng các kiến
thức đã học vào công tác điều trị để tăng tỷ lệ thành công khi phẫu thuật cho
BN. Bên cạnh đó, trên cơ sở những hiểu biết sâu hơn trong công tác nghiên
cứu khoa học, tôi sẽ tiếp tục tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu có tính thực
tiễn áp dụng tại Bệnh viện giúp nâng cao hiệu quả trong điều trị. Đồng thời
tôi cũng có trách nhiệm hướng dẫn, đào tạo các thế hệ sinh viên đại học, học
viên sau đại học trong và ngoài chuyên ngành các kiến thức chuyên môn, giúp
nâng cao chất lượng cán bộ y tế.
7. Đề xuất người hướng dẫn
Hướng dẫn 1: PGS. TS Trần Ngọc Bích
Hướng dẫn 2: TS Phạm Duy Hiền
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BN
:
Bệnh nhân
BQĐ
:
Bao quy đầu
DV
:
Dương vật
LTLT
:
Lỗ tiểu lệch thấp
NMBQĐ
:
Niêm mạc bao quy đầu
PT
:
Phẫu thuật
TSM
:
Tầng sinh môn
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
14
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lỗ tiểu lệch thấp (LTLT - hypospadias) là một dị tật tiết niệu bẩm sinh
mà lỗ tiểu đổ ra bất thường ở mặt dưới của quy đầu, của dương vật, bìu hoặc
tầng sinh môn và thường kèm theo biến dạng của dương vật như cong, xoay
trục hay lún gục vào bìu [1]. Đây là một trong những dị tật tiết niệu hay gặp ở
trẻ em với tỷ lệ 5,2 - 8,2/1000 ở trẻ trai [2].
Dị tật lỗ tiểu lệch thấp tuy không gây nguy hiểm nhưng ảnh hưởng
nhiều đến tâm lý cũng như sinh hoạt hàng ngày, làm giảm chất lượng cuộc
sống. Đối với những trẻ bị dị tật này, khi còn nhỏ trẻ đi tiểu khó khăn, thường
rụt rè, hay bị trêu chọc. Khi trưởng thành, ngoài những ảnh hưởng về tiểu
tiện, bệnh sẽ gây trở ngại cho khả năng hoạt động tình dục, ảnh hưởng đến
khả năng sinh sản, luôn mang một tâm lý tự ti về bản thân và những lo lắng
về tương lai nòi giống…
Phẫu thuật LTLT là một trong những phẫu thuật khó, dễ thất bại hoặc
để lại di chứng cần phải sửa chữa nhiều lần, gây tốn kém và ảnh hưởng đến
tâm lý bệnh nhi [3], [4]. Cho đến nay trên thế giới có nhiều phương pháp phẫu
thuật lỗ tiểu lệch thấp đã được mô tả. Mục đích của phẫu thuật là đưa miệng
sáo niệu đạo ra đỉnh dương vật giúp trẻ có thể đi tiểu được ở tư thế đứng, tái
tạo lại hình thái của dương vật và trong một số trường hợp nặng nhằm cải
thiện chức năng hoạt động tình dục [2].
Hiện nay ở Việt Nam, tại các bệnh viện lớn như Bệnh viện Nhi Trung
ương, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Nhi đồng 1 và 2 đã áp dụng điều trị
LTLT bằng nhiều kỹ thuật với nhiều loại chất liệu khác nhau để tạo hình niệu
đạo như: Vạt da niêm mạc quy đầu có cuống mạch hoặc tự do, mảnh ghép da
tự do, mảnh ghép niêm mạc bàng quang, mảnh ghép niêm mạc miệng [5] đã
đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, tỷ lệ biến chứng rò niệu đạo theo
15
Nguyễn Thanh Liêm là 17,6% [6], [7] và Trần Ngọc Bích trong phẫu thuật
một thì là 17,1% [8].
Tại Bệnh việnNhi Trung ương đang sử dụng chất liệu vạt da niêm mạc
bao quy đầu (NMBQĐ) có cuống mạch để tái tạo niệu đạo. Để đánh giá toàn
diện hơn những ưu, nhược điểm và kết quả phẫu thuật chúng tôi thực hiện đề
tài: “Đánh giá kết quả điều trị lỗ tiểu lệch thấp thể dương vật bằng vạt da
- niêm mạc bao quy đầu có cuống trục ngang”, nhằm mục tiêu như sau:
1. Đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình niệu đạo điều trị lỗ tiểu lệch thấp
thể dương vật bằng vạt da - niêm mạc bao quy đầu có cuống trục
ngang.
2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng tới kết quả phẫu thuật tạo hình niệu
đạo điều trị lỗ tiểu lệch thấp thể dương vật bằng vạt da - niêm mạc bao
quy đầu có cuống trục ngang.
16
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu và phôi thai học
1.1.1. Phôi thai học của dương vật - niệu đạo và sự hình thành LTLT
Vào tuần lễ thứ 8 của thai nhi, cơ quan sinh dục nam và nữ được biệt
hóa. Màng niệu sinh dục phía trước thủng tạo ra lỗ niệu dục nguyên thủy nằm
ở phía gốc - mặt bụng của sinh dục đúng chỗ đáy chậu tiếp với mặt dưới
dương vật. Nó có dạng giống như một cái khe, tiếp với rãnh niệu sinh dục ở
ngay mặt dưới củ sinh dục tới tận rãnh quy đầu. Lá niệu sinh dục nằm ngay ở
đáy rãnh ấy. Dưới ảnh hưởng của Androgen, củ sinh dục phát triển dài ra
thành dương vật. Khe và rãnh niệu sinh dục cũng kéo dài theo.
Vào tuần lễ thứ 12 (thai nhi dài 40 - 50mm), hai bờ khe niệu sinh dục
tự đến gắn liền nhau, khép lại rồi đến rãnh niệu sinh dục khép lại thành
ốngtiến từ sau ra trước làm cho lỗ thông ra ngoài của ống ngày càng gần về
phía quy đầu. Còn sự hình thành niệu đạo quy đầu có thể được hình thành
theo cơ chế như trên. Ở bờ dưới là biểu mô dày của quy đầu xuất hiện một
rãnh dọc, rồi trong khi phần đuôi của bao quy đầu được hình thành, hai bờ của
rãnh ấy được khép lại thành ống. Sự khép ống cũng từ sau ra trước, ống này
tiếp nối với ống niệu đạo dương vật [4], [9], [10], [11].
Dị tật LTLT hình thành là do rãnh niệu sinh dục không khép hoặc khép
không hết. Nếu khe niệu sinh dục không khép ngay từ vị trí thông ra ngoài thì
lỗ tiểu đổ tại tầng sinh môn (TSM), nếu quá trình khép ống dừng lại hoặc bị
gián đoạn chỗ nào thì lỗ tiểu đổ ra ngoài ở chỗ đó. Do vậy vị trí lỗ tiểu thấp
có thể nằm từ TSM tới quy đầu [12], [13], [14], [15].
Tổ chức xơ ở bụng dương vật được hình thành là do sự xơ hóa trung
mô mà đáng lẽ nó tạo vật xốp từ quy đầu tới vị trí lỗ tiểu thấp [12].
17
Rãnh niệu đạo nằm trên da từ vị trí lỗ tiểu thấp đến rãnh quy đầu - bao
quy đầu và nối với rãnh niệu đạo quy đầu. Rãnh này là rãnh niệu sinh dục từ
bào thai không phát triển bình thường để tạo thành ống niệu đạo.
1.1.2. Giải phẫu bình thường của dương vật (DV)
DV là cơ quan niệu sinh dục của nam giới.
Hình 1.1. Cấu tạo giải phẫu của dương vật [16]
1.1.2.1. Vị trí, kích thước của dương vật
DV nằm ở phần trước của TSM, phía trên của bìu, phía trước và dưới
của khớp mu.
Kích thước DV thay đổi tùy thuộc vào tuổi, cá thể và trạng thái.
1.1.2.2. Cấu tạo dương vật
Gồm hai phần:
- Phần sau hoặc gốc của DV chếch lên cao và ra trước được cố định:
18
+ Chỗ bám của những vật hang trên ngành ngồi mu.
+ Dây treo DV: Ở trên dính vào khớp mu và sát bên đường trắng giữa,
dưới dính vào vỏ trắng ở giữa (hai bên tĩnh mạch mu sâu DV), mỗi bên tỏa ra
một mảnh ở mảnh bên vật hang, hai mảnh này tụ lại ở đường giữa tạo nên
một đai làm chỗ bám cho DV.
- Phần trước DV hoặc DV thật sự: Tự do, di động, hình thể phụ thuộc
vào trạng thái. DV thật sự có hai phần: thân DV và quy đầu.
+ Thân DV: Ở trạng thái bình thường có hình trụ, ở trạng thái cương có
hình lăng trụ tam giác.
- Hai bờ hai bên giới hạn bởi hai thể hang.
- Bờ dưới (gọi là bụng): có niệu đạo ở trong thể xốp.
+ Quy đầu: Phình to ra trước tạo thành hình nón. Cấu tạo do sự phình
ra của thể xốp, được niêm mạc che phủ, đỉnh có lỗ tiểu. Phần thấp, phình to ra
(bao phủ rộng lên thân DV) tạo nên một chỗ lồi rõ là vành quy đầu, tách với
thân DV một rãnh làrãnh quy đầu bao quy đầu, phía dưới trên đường giữa có
một nếp da gọi là hãm quy đầu.
+ Bao quy đầu (BQĐ): BQĐ bao xung quanh quy đầu và tiếp với hãm, liên
tiếp với da DV, mặt trong của BQĐ là niêm mạc, BQĐ có thể dài hoặc ngắn.
- Nhữngtạng cương: gồm thể hang, thể xốp và quy đầu.
Hai thể hang: Tạo thành cặp và đối xứng, hình trụ nằm sát cạnh nhau
hai bên của đường giữa, ở phía sau phần gốc của ngành ngồi mu,chạy trên
suốt chiều dài của DV, sắp xếp kiểu nòng súng, tạo thành hai máng dọc giữa:
+ Máng phía trên có tĩnh mạch lưng sâu, động mạch lưng và thần kinh
lưng của DV.
+ Máng phía dưới (hoặc niệu đạo) rộng và sâu nhất chứa thể xốp và
niệu đạo.
19
Thể xốp: Đơn độc, nằm ở giữa trong máng phía dưới của hai thể hang,
giống hình trụ ở trong là niệu đạo (niệu đạo xốp), ở phía sau thể xốp phình to
gọi là hành DV. Hành DV được giới hạn bởi cơ hành hang và cân đáy chậu
nông ở thấp, ở phía sau bởi lớp giữa cân đáy chậu, ở phía trên bởi hai cơ hành
hang và liên tiếp với quy đầu ở phía trước.
Những thể hang và những thể xốp được bao bọc từ trong ra ngoài bởi
một cân trắng (cân Buck), cân Coll, lớp tế bào lỏng lẻo, chứa mạch máu và
thần kinh nông, cân nông và da.
- Niệu đạo: Chạy xuyên qua suốt chiều dài của thể xốp (niệu đạo xốp).
Niệu đạo chạy chếch vào thể xốp, từ sau ra trước, lúc đầu tổ chức xốp chỉ bọc
ở mặt dưới và sau đó mới bọc xung quanh. Vì thế đoạn đầu của niệu đạo
không được che đậy ở mặt trên.
1.1.2.3. Mạch máu và thần kinh của dương vật
Động mạch: Gồm hai nhóm động mạch: động mạch sâu cấp máu cho
những tổ chức cương và động mạch nông cấp máu cho các bao.
Động mạch sâu: Những tổ chức cương được tưới máu bởi những ngành
của động mạch thẹn trong, là nhánh của động mạch chậu trong. Động mạch
thẹn trong chia ra các nhánh đáy chậu sâu và đáy chậu nông, nhánh đáy chậu
sâu chia ra làm 4 động mạch:
- Động mạch sâu của DV (động mạch hang) chạy xuyên qua mỗi một
thể hang hai bên: động mạch chạy trên toàn bộ thể hang (động mạch trục) cho
ra rất nhiều nhánh xoắn: động mạch hình xoắn.
- Động mạch của hành DV (động mạch hành niệu đạo) cung cấp máu
cho phần trước của thể xốp (tới quy đầu) và phần niệu đạo DV.
- Động mạch lưng DV: là ngành tận của động mạch thẹn trong, động
mạch chạy ở mặt lưng của thể hang (của từng bên tĩnh mạch lưng sâu), chúng
nối với nhau ở phần thấp của quy đầu, tạo thành một vòng động mạch cho các
20
nhánh của quy đầu hãm và BQĐ. Trên đường đi, động mạch cho rất nhiều các
ngành bên cho thể hang và thể xốp.
- Động mạch nông: Các mạch máu nuôi dưỡng các bao là những nhánh
chạy trong lớp tế bào lỏng lẻo, tách từ động mạch thẹn ngoài (nhánh của động
mạch đùi chung), động mạch đáy chậu nông (nhánh của động mạch thẹn
trong) và động mạch lưng DV.
Tĩnh mạch
Tĩnh mạch sâu
- Những tĩnh mạch nằm trong rãnh phía trên của thể hang đổ vào đám
rối tĩnh mạch bàng quang.
- Trên đường đi, tĩnh mạch lưng sâu của DV nhận các nhánh:
+ Trên: Những nhánh của thể hang
+ Bên: Các nhánh của thể xốp và bao xung quanh những thể hang
Tĩnh mạch nông: Tĩnh mạch lưng nông nằm ở mặt lưng của DV, tận
cùng ở rễ của DV, đổ vào tĩnh mạch hiển lớn (tĩnh mạch hiển trong).
Hệ thống bạch mạch
- Bạch mạch sâu: Chạy dọc theo tĩnh mạch lưng sâu, đổ vào hạch bẹn
sâu hoặc trực tiếp vào hạch đùi ngoài.
- Bạch mạch nông: Chạy dọc theo tĩnh mạch lưng nông, đổ vào hạch
bẹn nông nhóm giữa.
Thần kinh
Những tổ chức cương được chi phối bởi các nhánh:
- Thần kinh thẹn (thần kinh thẹn trong): nhánh tận của đám rối bẹn,
gồm các rễ S2, S3, S4 và cho thần kinh đáy chậu và thần kinh lưng DV.
- Đám rối hạ vị dưới (nhánh quanh động mạch, đi cùng với động mạch
sâu của DV).
Những bao được chi phối bởi các nhánh tách từ:
- Xem thêm -