Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đẩy mạnh CNH - HDH nông nghiệp, nông thôn ở việt nam thời kì đổi mới ...

Tài liệu đẩy mạnh CNH - HDH nông nghiệp, nông thôn ở việt nam thời kì đổi mới

.DOC
32
574
127

Mô tả:

ÚP ngÀY 22/12/2017 mÔn ĐƯỜNG lỐI cÁCH mẠNG cỦA ĐẢNG
A. LỜI MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm. Tăng thu nhập cho cư dân nông thôn tạo tiền đề để giải quyết hàng loạt vấn đề về chính trị - xã hội của đất nước, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định phải “Đặc biệt coi trọng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”. Trong những năm gần đây nhờ có đổi mới nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy vậy nông nghiệp hiện nay vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn, có nhiều vấn đề về sản xuất và đời sống của nông dân đang nổi lên gay gắt. Do vậy việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương này của Đảng và Nhà nước là nhu cầu cấp thiết. Công nghiệp hoá- hiện đại hoá là một quá trình lâu dài, cần được tiến hành tuần tự, không nóng vội. Quá trình này được thực hiện không nhằm mục đích tự thân mà phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của nông thôn cũng như của cả nước. Vì vậy nếu ta không nhìn nhận và phân tích một cách sâu sắc quá trình chuyển đổi và phát triền của nền nông nghiệp hiện nay thì sẽ khó có thể tìn ra những giải pháp vi mô cũng như vĩ mô đúng và phát huy được hiệu quả trong quá trình công nghiệp hoá và hiện nền nông nghiệp của đất nước. Xuất phát từ thực tế đó, với vốn kiến thức đã có được cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của giảng viên “Trần Thị Mai Hương”, trong bài viết này em xin đề cập một số vấn đề có liên quan đến “ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓAHIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI”. 2. Đối tượng nghiên cứu. - Quá trình CNH – HDH nông nghiệp và nông thôn tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. 3. Phương pháp nghiên cứu. - Quan sát 1 - Liệt kê, so sánh đối chiếu với một số nước có nền nông nghiệp phát triển - Tham khảo một số tài liệu liên quan 4. mục đích nghiên cứu Nêu lên được những khó khăn thách thức của nền nông nghiệp Việt Nam trong thời kì đổi mới. Đề ra các giải pháp nhằm khắc phục những tồn đọng của nông nghiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa. 2 B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN 1. Khái niệm 1.1 nông nghiệp, nông thôn a. Nông nghiệp Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là ngành sản xuất ra của cải vật chất mà con người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng, vật nuôi để tạo ra sản phẩm như lương thực, thực phẩm... để thoả mãn các nhu cầu của mình. Nông nghiệp theo nghĩa rộng còn bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp. Như vậy, nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Những điều kiện tự nhiên như đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, bức xạ mặt trời... trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi. Nông nghiệp cũng là ngành sản xuất có năng suất lao động rất thấp, vì đây là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên; là ngành sản xuất mà việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra sản xuất nông nghiệp ở nước ta thường gắn liền với những phương pháp canh tác, lề thói, tập quán... đã có từ hàng nghìn năm nay. Ở các nước nghèo, nông nghiệp thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và thu hút một bộ phận quan trọng lao động xã hội. b. Nông thôn Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Nông thôn có thể được xem xét trên nhiều góc độ: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung của nền kinh tế về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế kinh tế... vừa có những đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp, nông thôn. Xét về mặt kinh tế - kỹ thuật, kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều ngành kinh tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ... trong đó nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu. Xét về mặt kinh tế - xã hội, kinh tế nông thôn cũng bao gồm nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể... Xét về không gian và lãnh thổ, kinh tế nông thôn bao gồm các vùng như: vùng chuyên canh lúa, vùng chuyên canh cây màu, vùng trồng cây ăn quả... 1.2. công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - Đồng chí Đỗ Mười cho rằng: “Chỉ khi nào nông thôn được CNH- HĐH khi học vấn kiến thức và công nghệ tiên tiến nằm trong tay nông thôn, được bà con sử dụng thành thạo và vững chắc thay cho “con trâu đi trước cái cày đi sau”, khi xưởng máy mọc lên khắp làng mạc, thị trấn; ngành nghề phát triển rộng khắp, một bộ phận đáng kể nông dân trở thành công nhân nông nghiệp, hình thành phát triển một cục diện mới. Có thể nói sự nghiệp CNH- HĐH được hoàn thành cơ bản trên phạm vi cả nước... Song song với việc phát triển nông nghiệp, cần quan tâm thích đáng đến phát triển công nghiệp nông thôn, mở mang tiểu 3 thủ công nghiệp, công nghiệp, xã hội, dịch vụ theo hướng cơ giới hoá, hiện đại hoá các ngành nghề, kể cả các nghề truyền thống ở từng địa phương. Xây dựng nông thôn mới, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng...” - GS.TS Đặng Ngọc Dinh cho rằng: “CNH nông thôn là một khái niệm rộng hơn, mang tính chất đa ngành. Trong khi nông nghiệp nông thôn chỉ là một ngành mà thông qua đó nông thôn được CNH. Công nghiệp hoá nông thôn không chỉ bao gồm sự phát triển của riêng công nghiệp nông thôn. Phát triển công nghiệp nông thôn không phải biện pháp duy nhất để tiến hành CNH nông thôn, cho dù đó là biện pháp nòng cốt. Trên thực tế, CNH nông thôn trước hết phải bắt đầu từ những biến đổi của chính bản thân sản xuất nông nghiệp thông qua việc tạo ra những tiền đề về năng suất và lao động dư thừa để hình thành duy trì và phát triển những hoạt động chuyên ngành... Phải từ chính sản xuất nông nghiệp mà công nghiệp hoá nông thôn.” Như vậy, tổng hợp lại tất cả các ý kiến thì: Công ngiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình hoàn thiện phương thức tổ chức, phương thức quản lý và ừng dụng tiến bộ khoa học -công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm xóa bở cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn truyền thống, xây dựng cơ cấu kinh tế và kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nông thôn hiện đại, đưa nông thôn phát triển nhanh và bền vững. Đây là một quá trình gồm hai mặt: - Thứ nhất, đây là quá trình xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở vật chấtkỹ thuật để chuyển đổi một cách căn bản từ lao động thủ công là chính sang lao động sử dụng máy móc với công nghệ tiên tiến hiện đại trong tất cả các lĩnh vực và ngành nghề ở nông thôn. - Thứ hai, đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội nông thôn từ kinh tế thuần nông khép kín, phụ thuộc chặt chẽ và đất canh tác sang nền kinh tế phát triển toàn diện gắn nông nghiệp với công nghiệp và các ngành phi nông nghiệp khác trên địa bàn nông thôn, từng bước đô thị hóa nông thôn. 2. Tính tất yếu tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam 2.1. Vai trò cuả nông nghiệp nông thôn Năm 1961, trong cuốn sách “Vai trò của nông nghiệp trong phát triển kinh tế”. Hai nhà kinh tế học Joshnton và Meller giới thiệu năm đóng góp quan trong của nông nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế: - Nông nghiệp cung cấp lương thực và đầu và các nguyên liệu đầu vào cho các ngành khác của nền kinh tế. Độ co dãn của thu nhập đối với cầu về lương thực ở các nước đang phát triển khá cao, tức là khi mức sống tăng lên thì nhu cầu tiêu dung lương thực tăng nhanh. Trong tình hình đó, nếu sản xuất nông nghiệp nội địa không tự đáp ứng được nhu cầu thì các nước đang phát triển phải 4 bỏ ngoại tệ để nhập khẩu lương thực thay vì nhập máy móc, nguyên liệu phát triển công nghiệp. - Lĩnh vực nông nghiệp là nguồn thu ngoại tệ quan trộng ở những quốc gia có lợi thế so sánh sản xuất một số mặt hàng nông sản xuất khẩu. - Lĩnh vực nông nghiệp là thị trường quan trọng cho các ngành khác trong nền kinh tế như sản xuất hàng tiêu dùng. - Lĩnh vực nông nghiệp là nguồn cung cấp lao động cho khu vực công nghiệp. - Lĩnh vực nông nghiệp tạo ra một lượng vốn thặng dư để đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá. 2.2. Tính tất yếu khách quan phải thực hiện công nghiệp hoá – hiên đại hoá nông nghiệp. Xuất phát từ nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp phổ biến sản xuất nhỏ, lạc hậu và đang ở trình độ thấp, đó là cơ sở vật chất kĩ thuật còn lạc hậu, lao động xã hội đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp, tự túc và thu nhập của người dân còn thấp, đời sống mọi mặt của họ còn hết sức khó khăn, trong khi đó đến nay nhiều nước trên thế giới đã có nền nông nghiệp phát triển cao, mọi hoạt động sản xuất đã được cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hóa, hoá học hoá. Nhờ đó năng suất ruộng đất, năng suất lao động của họ rất cao, tạo sự phân công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, do yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội đất nước, nhu cầu về nâng cao đời sống con người đó là xã hội càng phát triển đời sống con người càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực và thục phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Như vậy chỉ có một nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao mới hy vọng đáp ứng được nhu cầu tăng lên thường xuyên đó. Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, trước hết là quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá các quan hệ kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất thương mại, trao đổi thông tin khoa học kĩ thuật, chuyển giao công nghệ…buộc chúng ta phải đẩy 5 nhanh việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp để chúng ta có thể tận dụng vốn, khoa học kĩ htuật kinh nghiệm quản lý nước ngoài vào trong hoàn cảnh thực tiễn vận dụng vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nước ta nhằm tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào tình trạng “bãi rác công nghiệp” của thế giới, dẫn đến cuộc sống đói nghèo,lệ thuộc vào kinh tế nước ngoài… Như vậy đứng trước những yêu cầu đổi mới đang diễn ra trước mắt ta cần khẳng định trong bối cảnh chung của thế giới hiện nay, công nghiệp hoá hiện đại hoá là xu hướng phát triển chung của thế giới. Trình độ công nghiệp hóa hiện đại hoá biểu hiện trình độ phát triển của xã hội. Vì vậy công nghiệp hoá hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nói riêng là con đường đúng đắn mà Đảng ta đã chọn trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của mình, nó là “nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, nó là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực. 2.3. Tầm quan trọng của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. a. Đại hội đảng III của Đảng khẳng định ra sức phát triển nông nghiệp. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, cá thể tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Chỉ có tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền công nghiệp hiện đại phù hợp với điều kiện và đặc điểm của nước ta, chúng ta mới tạo ra được cái cốt vật chất của chủ nghĩa xã hội, biến lao động thủ công năng suất thấp thành lao động cơ khí, có năng suất cao, tạo ra cơ cấu công - nông nghiệp hiện đại, và mới thúc đẩy được nông nghiệp và công nghiệp nhẹ phát triển mạnh mẽ, tạo ra được một lực lượng sản xuất mới, một năng suất lao động xã hội cao, cho phép chúng ta vượt qua những khó khăn ban đầu để đi lên. Nhưng muốn phát triển công nghiệp, muốn tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa lại phải có những điều kiện tiên quyết như lương thực, thực phẩm, 6 lao động,... mà những điều kiện đó phụ thuộc vào sự phát triển của nông nghiệp. Lênin nói rằng: “…không thể nói rằng, tích luỹ “không phụ thuộc” vào sản xuất vật phẩm tiêu dùng, chỉ bởi một lẽ là muốn mở rộng sản xuất thì cần phải có tư bản khả biến mới, và do đó cần phải có vật phẩm tiêu dùng”. Ở nước ta Hồ Chủ Tịch đã nói một cách đơn giản dễ hiểu rằng: “Vì nước ta là một nước nông nghiệp, mọi việc đều phải dựa vào nông nghiệp” cho nên “các cơ quan nhà nước phải quan tâm hơn nữa đến nông nghiệp, phát huy nhiều hơn nữa tác dụng của ngành mình trong sản xuất nông nghiệp”. b. Cải thiện dần nông dân thành công nhân, nông thôn thành thành thị, mức sống thu nhập người dân tăng nhanh bảo đảm mọi hoạt động sinh hoạt giải lao vui chơi giải trí, mọi thông tin cập nhật đến người dân. Song song với thu nhập tăng lên thì người dân trở nên có ý thức hơn dẫn đến trật tự an toàn xã hội ở nông thôn. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn tạo cho tay nghề lao động thuần thục hơn kỹ năng kỹ xảo khéo léo hơn, năng suất lao động tăng nhanh. 2.4. Thực tiễn từ một số nước tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. a. Nhật Bản- nông nghiệp phát triển tạo đà công nghiệp hoá. Như mọi quốc gia Âu Mỹ trước đây, quá trình công nghiệp hoá ở Nhật bắt đầu bằng một thời gian dài tăng trưởng nhanh sản xuất nông nghiệp. Tăng năng suất nông nghiệp trên nền tảng sản xuất quy mô nhỏ. Trước công cuộc duy tân, như mọi nước châu Á, nền kinh tế Nhật là nền nông nghiệp sản xuất nhỏ tiểu nông phong kiến năng suất thấp, địa tô cao. Nhật luôn bị hạn chế bởi tài nguyên đất đai ngày càng ít và dân số ngày càng đông. Diện tích trung bình một hộ nông dân Nhật năm 1878 là 1ha và năm 1962 chỉ còn 0,8 ha. Mặc dù lĩnh vực công nghiệp phát triển nhanh ghê gớm nhưng mức độ thu hút lao động cũng rất hạn chế. Từ năm 1878 đến năm 1912 là thời kỳ công nghiệp Nhật tăng trưởng nhảy vọt nhưng tổng số lao động nông nghiệp chỉ 7 giảm rất ít từ 15,5 xuống 14,5 triệu người, công nghiệp tăng trưởng gần như chỉ thu hút phần lao động thêm ra do tăng dân số tự nhiên. Tuy nhiên, muốn tạo đà công nghiệp hoá, nhất thiết phải tăng năng suất nông nghiệp, trong hoàn cảnh đất chật người đông, cách duy nhất là thâm canh tăng năng suất. Một chiến lược phát triển khôn khéo và hiệu quả đã được Nhật thực hiện thành công để đạt mục tiêu khó khăn: đưa nông nghiệp đi ngay vào phát triển theo chiều sâu từ giai đoạn tăng trưởng ban đầu. - Khoa học kĩ thuật nông nghiệp được coi là biện pháp hàng đầu ngay từ thế kỷ 19. Nhật chú trọng phát triển các công nghệ thu hút lao động và tiết kiệm đất như kỹ thuật tưới nước, dùng phân bón và lai tạo giống tạo nên năng suất cây trồng cao. b. Đài Loan Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Đài Loan rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Thu nhập bình quân xuống dưới 200 USD/người, lạm phát cao, dân số tăng 3,5%/năm; tỷ lệ đất nông nghiệp trên đầu người thấp 0.2 ha/người; tỷ lệ thất nghiệp lên tới 50%. Bắt đầu từ thập kỷ 50, kinh tế Đài Loan đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, liên tục và bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển đổi ổn định từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, đưa Đài Loan thành nền kinh tế công nghiệp mới của châu Á. Những yếu tố tạo nên sự thần kỳ của kinh tế Đài Loan là: Đầu tư phát triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm cơ sở để phát triển công nghiệp, chiến lược công nghiệp hoá hướng ngoại, phát triển công nghiệp đều giữa các vùng, chính quyền hỗ trợ hợp lý. Phát triển công nghiệp của Đài Loan không tập trung ở các trung tâm đô thị mà trải đều trên khắp đảo và trong các thị trấn nông thôn. Bên cạnh đó, chính sách của chính quyền cũng hỗ trợ các ngành công nghiệp nông thôn phát triển. Nhờ đó công nghiệp nông thôn của Đài Loan phát triển mạnh mẽ, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng tài trợ cho quá trình công nghiệp hoá, tạo công ăn việc làm, cải thiện thu nhập cho khu vực nông thôn, và giảm khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Trong thập kỷ 60, công nghiệp nông thôn của Đài Loan đã đóng góp 60% thu nhập cho khu vực nông thôn, tạo 8 công ăn việc làm cho khoảng 20% lao động nông thôn, và đóng góp 60% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước. 3. Những quan điểm chính về đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết của Đảng đã khẳng định 5 quan điểm chính cần quán triệt về đẩy nhanh công nghiêp hoá, hiện đại hoá nông nghiêp, nông thôn trong giai đoạn tới: - Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ hiệu quả cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. - Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao, bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. - Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hoá, các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn. - Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế xã hội trong qua trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nhằm giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của người dân nông thôn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; gìn giữ, phát huy truyền thống văn hoá và thuần phong mỹ tục. - Kết hợp chặt chẽ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương. Đầu tư phát triển kinh tế xã hội 9 ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu hải đảo phù hợp với chiến lược quóc phòng và chiến lược an ninh quốc gia. Ngày 7-11-2016, các đại biểu Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2017, trong đó có đặt ra chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2017 sẽ tăng khoảng 6,7% so với năm 2016. 4. Nội dung công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn thời kỳ đổi mới Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, quá trình công nghiệp hóahiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn cần tập trung vào một số nội dung chính sau: 4.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. - Chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp đa canh đi đôi với việc hình thànhcác vùng sản xuất chuyên canh quy mô lớn. Tình trạng độc canh thuần nông là độc canh của nền sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc. Hậu quả của nó là không tạo được sức bật cho sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nong nghiệp theo hướng tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và sản phẩm biến nông nghiệp sản xuất chủ yếu là lúa gạo và hoa màu thành nông nghiệp hàng hóa đa dạng sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. Chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nên nông nghiệp đa canh- là một xu hướng cơ bản của công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phá bỏ cơ cấu lạc hậu, hướng vào phát triển nền nông nghiệp đa dạng về cây con phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết của đất nước cũng như địa phương, nhằm tạo giá trị thu nhập cao. Sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nông nghiệp phải thực hiện ba nhiệm vụ và trực tiếp: Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đảm bảo tối đa nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng giá trị nông sản xuất khẩu. Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý cho nông nghiệp và nông thôn sẽ 10 cho phép lựa chọn những công nghệ thích hợp để phát huy thế mạnh của nông nghiệp, nông thôn nhờ đó sẽ khai thác tốt nguồn lực hiện có ở nông thôn tạo sức bật mới trong nông thôn. - chuyển nên nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ trạng thái khép kín sang nên nông nghiệp đa hàng hóa, hướng mạnh vào xuất khẩu. Phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, mở rộng phân công hợp tác lao động là xu thế tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển chung của các nước đang phát triển. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa là giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lâm nghiệp và ngư nghiệp trong tổng giá trị xản xuất nông nghiệp. - Giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và dịch vụ nông thôn. Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên nền năng suất lao động và hiệu quả thường không ổn định, việc phát triển nông nghiệp với công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có ý nghĩa to lớn trong việc làm tăng hiệu quả kinh tế nông thôn, tạo việc làm cho người lao động nâng cao mức thu nhập và đời sống cho nhân dân mà trước hết là cư dân nông thôn. Vì vậy công nghiệp hóa- hiện đại hóa phải tác động tích cực vào nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển kinh tế nông thôn tổng hợp bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp thương mại, du lịch và dịch vụ, trong đó giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị các ngành sản xuất nông nghiệp. Từ đó một bộ phận nông nghiệp sẽ được giải phóng và chuyển sang hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng đó sẽ làm cho nông thôn thuần nông với một kết cấu đa dạng và năng động, người nông dân sẽ gần thoát khỏi sự phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, tạo sự phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn. 4.2. ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp Để đạt được mục tiêu lớn của công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là cải tạo nền nông nghiệp thủ công lạc hậu, năng suât thấp, tự cấp tự 11 túc thành nên nông nghiệp cơ khí, có năng suất cao, khối lượng nông sản lớn, xây dựng nông thôn mới hiện đại thì nền nông nghiệp nông thôn phá được cơ giới hóa, thủy lợi hóa và sinh học hóa. Trong sản xuât nông nghiệp, trình độ của công cụ là điều kiện trực tiếp quyết định hiệu quả và năng suất lao động. do vậy, muốn có một nền nông nghiệp bền vững, năng suất lao động cao thì không thể dựa vào những nông cụ truyền thống, thô sơ, mà phải thay thế cơ bản lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Chỉ có trang bị các công cụ cơ giới cho nông nghiệp trong tất cả các khâu, từ sản xuất đến thu hoạch, vận chuyển chế biến thì mới xóa được tình trạng nghèo nàn và lạc hậu ở khu vực nông thôn nới riêng và nền kinh tế nói chung. Đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuât nông nghiệp không khí làm tăng năng suất lao động nông nghiệp, mà còn tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn qua việc giải phóng một số bộ phận lao động nông thôn khỏi lĩnh vực nông nghiệp. hơn nữa, năng suất lao động tăng lên, đất trồng được giải phóng, vì thế có thể tăng thêm mùa vụ, tăng sản lượng và giá trị thu nhập. Điện khí hóa là điều kiện tiên quyết để các công cụ cơ giới hóa phát huy tác dụng. sự phát triển trong lĩnh vực điện năng tạo cơ hội sử dụng điện rộng rãi trong sản xuất. Do đó, từ đó làm tăng sức sản xuất của các công cụ lao động. trong những năm tới cần chú trọng xây dựng hệ thống các trạm điện có công suất khác nhau đến các huyện, xã, thôn trên phạm vi toàn quốc theo hướng phủ kín mạng lưới đến 100% số xã có chất lượng điện đảm bảo về công suất và cường độ. Với một nền nông nghiệp lúa nước như Việt Nam chúng ta hiện nay, điều kiện cơ bản nhất cho sản xuất là vấn đề thủy lợi. Năng suất cây trồng, vật nuôi cao hay thấp phụ thuộc vào việc cung cấp đầy đủ nước cho nó một cách khoa học hay không. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải thường xuyên tu bổ, nâng cấp hệ thống, trạm bơm, kênh mương, hồ đập để giải quyết vấn đề cung ứng tưới tiêu, đảm bảo yêu cầu đáp ứng kịp thời cho sản xuất nông nghiệp. 12 Sự phát triển của công nghệ sinh học có vai trò ngày càng lớn đối với nên kinh tế nông nghiệp. Nó không chỉ tác động đến việc cải tạo giống cây con hay tạo ra những loại giống mới có năng suất, chất lượng cao, mà còn tác động rất lớn đến khâu chế biến, bảo quản sản phẩm. Vì vậy, công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam hiện nay cần đẩy mạnh việc áp dụng các thành tựu của cách mạng sinh học để tạo ra nhiều loại cây trồng, con giống có năng suât chất lượng cao, áp dụng công nghệ sản xuất phân vi sinh thay thế dần các loại phân hóa học, các hóa chất độc hại với người và gia súc. Tập trung vào khâu giống và khâu sau thu hoạch để nâng cao giá trị nông phẩm. Đây là con đường làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, vừa tạo được nông phẩm sạch đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. 4.3. phát triển công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp, nông thôn Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công nghiệp với cá trình độ phát trển khác nhau phân bố ở nông thôn, gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp nông thôn có tác động tích cực và có tác động tích cực và có tác động tới toàn bộ phân công lao động nông thôn tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy mạnh sản xuất hàng hóa ở nông thôn. Phát triển công nghiệp nông thôn là quá trình có tính chất quy luật bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội theo vùng lãnh thổ. Sự phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản có sự tác động mạnh tới sự phát triển của sản xuất nông nghiệp và đời sống cư dân nông thôn. Quy mô, tốc độ, và cơ cấu phát triển công nghiệp chế biến phụ thuộc vào trình đo phát triển của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Nhưng mặt khác, nhờ phát triển các ngành công nghiệp chế biến mà các ngành nông, lâm, ngư nghiệp được phát triển theo xu hướng đa ngành, chuyên canh năng suất cao, tỷ suất hàng hóa lớn. Khôi phục và phát triển các nghành truyền thống và các ngành nghề tiểu thủ công là nội dung phát triển công nghiệp nông thôn. Sự phát triển các nghành 13 nghề tiểu thủ công nghiệp có ưu thế là sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ nên nó khai thác được lợi thế của mỗi vùng, mỗi địa phương. Sự phát triển công nghiệp các làng nghề ở nông thôn sẽ làm thức dậy những tềm năng to lớn và nguồn vốn trong dân cư về một thị trường rộng lớn, một nguồn lao động dồi dào. Đồng thời, kèm theo sự phát triển của nhiều hoạt động dịch vụ, thương mại, xây dựng, vận tải, thông tin, văn hóa. Sự phát triển các dịch vụ này vừa thúc đẩy nông nghiệp và nông thôn phát triển, vừa thu hút sự lao động dư thừa ở nông thôn, làm thay đổi cơ cấu lao động ở nông thôn nói riêng và cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung. Vì vậy, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa việc kết hợp phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn ngay từ đầu là hết sức cần thiết đối với nước ta. 4.4. Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn Công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là sự nghiệp của toàn dân, nhưng trước hết và trực tiếp là sự nghiệp của nông dân. Vì vậy, trình độ của nông dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý các cấp ở nông thôn có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành của quá trình này. Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn đòi hỏi phải nâng cao trình độ dân trí cho dân cư nông thôn, đặc biệt là đối với lực lượng lao động, mà điều này chỉ có được sự tác động tích cực của hệ thống giáo dục đào tạo. việc phổ cập giáo dục cho nông thôn là điều kiện đầu tiên tạo cho nông dân khả năng tiêp cận với những thành tựu khoa học- kỹ thuật hiện đại trên thế giới, từ đó cho phép họ nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác, tăng năng suất lao động. Đây là cơ sở người nông dân làm chủ hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Lựa chọn các phương án sản xuất tối ưu, hiệu quả cao. Cùng với việc phát triển hệ thống giáo dục, cần phải chú ý đến việc phát triển truyền thanh truyền hình, thư viện, nhà văn hóa để nâng cao trình độ cho người lao động ở nông thôn. hệ thống này sẽ cung cấp và cập nhật những thông tin về khuyến nông cho lực lượng lao động nông thôn, nhờ đó tiếp cận được những phương 14 thức canh tác tiên tiến. tuy nhiên, để làm tốt vấn đề này cần xây dựng các trung tâm khuyến nông, trung tâm chuyển giao công nghệ, xây dựng các trung tâm dạy nghề ở nông thôn để đào tạo đội ngũ lao động văn hóa tay nghề cao, năng động trong sản xuất kinh doanh và tiếp thu khoa học- kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và thúc đẩy qua trình này sớm đi đến thành công. Một bộ phận có vai trò không nhỏ đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ hợp tác xã. Dưới tác động của cơ chế thị trường, sự tồn vong của một số ngành nghề truyền thống đòi hỏi sự phát huy tinh thần chủ lực, năng động, sang tạo của các cấp ngành ở địa phương. Vì vậy, trí thức hóa đội ngũ cấn bộ quản lý cho các địa phương vừa là điều kiện, vừa là mục đích của công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. 4.5. Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội hiên đại ở nông thôn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn có nội dung là xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống ở nông thôn. nói tới xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật- xã hội ở nông thôn là nói tới những điều kiện phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt ở nông thôn như điện, nước, giao thông, nông thôn,… Trong tiến trình phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng, vai trò của kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội ngày càng được khẳng định thiếu hệ thống thông tin, viễn thông hiện đại, thiếu hệ thống giao thông xuyên suốt,…xã hội khó có thể phát triển mạnh. Phải thấy rằng, sự hình thành và phát triển các hình thức vùng sản xuất chuyên canh hàng hóa tập trung quy mô lớn, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến chỉ có thể có được khi hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại. Bởi vậy việc xây dựng cơ sở hạ tầng trở thành nội dung quyết đinh sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng và công nghiệp hóa đất nước nói chung. 15 Cùng với việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, cần quan tâm xây dựng mạng lưới đô thị nhỏ phù hợp với điều kiện của từng vùng nông thôn, đó là những trung tâm giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa có tác động lớn tới việc nâng cao đời sống vật chất ở nông thôn, xóa dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội ở nông thôn phát triển sẽ tạo sự thay đổi về vật chất của bộ mặt nông thôn và đặt nền tảng cho một tiến trình phát triển lâu dài, hiện đại. Đây cũng là thách thức để xóa bỏ sự cách biệt về địa lý, xã hội, hình thành những cơ sở cho việc tăng cường giao lưu kinh tế- văn hóa, xóa bỏ sự khép kín của nông thôn truyền thống, tạo cơ hội cho nông dân tiếp cận được với những dịch vụ mới và đưa nông dân vào sự chuyển động chung của tiến trình phát triển hiện đại. 16 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CNHHDH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI 1. Những thuận lợi và khó khăn trong việc tiến hành công nghiệp hóahiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn 1.1 thuận lợi Nhờ sự quan tâm của Nhà nước thể hiện bằng các chủ trương, chính sách đúng đắn, trong những năm đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu. Liên tục trong nhiều năm nông nghiệp đạt mức tăng trưởng khá cả về giá trị, sản lượng. Vì vậy, từ chỗ là một nước thường xuyên thiếu lương thực, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn (hiện đứng thứ 2 trên thế giới, năm 2011 có thể xuất khẩu tới 7 triệu tấn), đồng thời bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Ngoài gạo, Việt Nam còn chiếm vị thế cao trong số các nước xuất khẩu về cà phê, cao su, hạt điều. Giá trị xuất khẩu những mặt hàng nông sản khác như thủy sản, chế biến gỗ cũng ngày càng cao và trở thành các sản phẩm chủ lực trong cơ cấu xuất khẩu của đất nước. Cơ cấu nông nghiệp cũng chuyển dịch theo hướng tích cực, gia tăng sản phẩm có giá trị kinh tế, có lợi thế cạnh tranh. Trong nông nghiệp đã hình thành được một số vùng sản xuất tập trung quy mô lớn. Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp và nông thôn được tăng cường. Chẳng hạn, công tác thủy lợi hóa đã được thực hiện hết sức mạnh mẽ, đến nay 94% diện tích lúa, 41% diện tích hoa màu trong cả nước được tưới tiêu. Việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp triển khai khá rộng rãi (70% diện tích lúa được sử dụng máy móc). Công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học được ứng dụng góp phần tăng chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp nước ta hiện nay tuy có tỷ trọng giảm đi trong cơ cấu kinh tế của đất nước, song giá trị tuyệt đối ngày càng tăng và đóng góp được 20% GDP cho đất nước... Sự phát triển trong nông nghiệp thực sự là cơ sở quan trọng tạo tiền đề vật chất để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đại bộ phận nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo (Việt Nam được thế giới công nhận là điểm sáng 17 trong thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo) và làm thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại hơn. 1.2. Thách thức - Thách thức lớn nhất của nông nghiệp là khả năng cạnh tranh, năng suất, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam còn thấp. Sở dĩ như vậy do sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn chủ yếu là nhỏ lẻ, manh mún, việc ứng dụng khoa học công nghệ, cũng như phát triển công nghiệp chế biến nông sản chưa cao như những nước khác trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù thời gian qua nhiều người đã hài lòng và tự hào rằng chúng ta tuy sản xuất nhỏ lẻ nhưng vẫn đạt được những thành tích lớn trong việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, lại có nhiều sản phẩm có số lượng xuất khẩu khá, chiếm vị thế cao trên thị trường quốc tế, song thực sự nếu muốn tiến lên sản xuất hàng hóa lớn, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp theo chủ trương của Đảng và Nhà nước thì kiểu sản xuất manh mún này chắc chắn không thể phù hợp. Bởi, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cạnh tranh trên thị trường sẽ ngày càng quyết liệt, yêu cầu của người tiêu dùng đối với hàng nông sản ngày càng cao (như chất lượng tốt, giá rẻ, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ được môi trường sinh thái...). - Sự gắn kết giữa sản xuất và thị trường trong nông nghiệp còn rất yếu. Nhà nước đã có những chủ trương khuyến khích việc liên kết "4 nhà" trong nông nghiệp nhằm giúp đỡ người nông dân yên tâm sản xuất. Nhưng, trong thực tế việc liên kết này còn rất lỏng lẻo, chưa đạt được kết quả như mong muốn và các "nhà” chưa thực sự giúp ích cho nông dân. "Nhà doanh nghiệp" được người nông dân trông đợi nhất trong việc tiêu thụ sản phẩm chẳng những chưa làm tốt vai trò của mình, mà lại là "nhà” bị coi hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình liên kết, không bảo đảm sự công bằng lợi ích cho nông dân. Do đó có thực tế trong nông nghiệp Việt Nam là khi được mùa nông dân không bán được hàng, lúc mất mùa, thiên tai, dịch bệnh thì không được gì. Ở hoàn cảnh nào nông dân cùng là người bị thua thiệt và vì vậy, luôn có tình trạng nông dân thường xuyên thay đổi 18 cây trồng, vật nuôi, không yên tâm tích lũy kinh nghiệm, sản xuất ổn định lâu dài. - Theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XI, nền nông nghiệp của đất nước sẽ phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiệu quả, bền vững, tuy vậy, để làm được điều này, thách thức lớn đặt ra là người nông dân sẽ được gì, đâu là động lực để duy trì sự phát triển bền vững. Bởi, nông dân là đối tượng, đồng thời cũng là chủ thể của nông nghiệp. Một khi thu nhập của người nông dân quá thấp so với thu nhập chung trong xã hội, khoảng cách đời sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng doãng rộng thì sẽ đưa đến kết quả không ai muốn làm nông dân. Thực tế này đã được các nước trên thế giới giải quyết rất tốt và đến nay tuy nhiều nước có số người làm lao động nông nghiệp thấp nhưng vẫn tạo ra được năng suất cao, sản lượng lớn, bảo đảm cung cấp ổn định cho nhu cầu trong nước mà vẫn xuất khẩu. Người nông dân ở những nước này có thu nhập không kém gì những người làm các nghề khác nên họ yên tâm, yêu nghề và có vị thế chính trị trong đất nước. Ở Việt Nam, thu nhập, đời sống, vị thế chính trị của người nông dân đều không bằng những nhóm người khác nên đây sẽ là thách thức lớn trong thời gian tới. Song để giải quyết được những thách thức trên chúng ta còn phải đối mặt với nhiều sức ép khác, đó là: - Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Tính đến thời điểm năm 2011, cả nước chỉ còn hơn 9 triệu ha, trong đó có khoảng 4 triệu ha là đất trồng lúa. Trung bình mỗi năm từ 1996 - 2010 có khoảng 70.000 ha đất nông nghiệp bị lấy để xây dựng đô thị, phát triển công nghiệp. Nhiều thửa ruộng được coi là "bờ xôi ruộng mật" cũng bị trưng dụng. Vì vậy, đất nông nghiệp tính bình quân đầu người đã bị giảm xuống còn 900m2, trong đó đất trồng lúa chỉ còn 465m2. Chưa kể, đất đai nông nghiệp còn bị chia nhỏ rất manh mún, mỗi hộ gia đình có tới 67 mảnh ruộng, rất khó tìm được hộ có diện tích đất tới 3 ha. Đây chính là sức ép lớn cho nông nghiệp một khi muốn tiến lên sản xuất lớn, sử dụng máy móc kỹ 19 thuật hiện đại, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cho nông nghiệp. - Không chỉ vấn đề đất đai, áp lực về lao động trong nông nghiệp cũng ngày càng lớn. Thực tế, ở nhiều địa phương hiện nay tuy có số nông dân đông, nhưng hầu hết những người có sức khỏe đều rời quê ra các đô thị tìm việc kiếm sống. Vì thế vào những ngày mùa cần nhiều lao động các vùng thôn quê rất thiếu nhân lực, phải thuê với giá cao. Do đó vấn đề đặt ra tuy nông thôn thừa lao động, thiếu việc làm nhưng có khi lao động vẫn là sức ép đối với nông nghiệp. Ngoài ra, để tiến lên sản xuất lớn khu vực nông thôn còn thiếu hẳn lực lượng lao động có tay nghề, làm nông nghiệp giỏi. - Về vấn đề vốn, do sản xuất nhỏ lẻ nên nông dân rất thiếu vốn và dù được ngân hàng, hay các dự án cho vay để sản xuất thì mức tiền cũng rất thấp, thời gian hoàn trả ngắn. Một số hộ gia đình khác tuy có thu nhập nhờ xuất khẩu thủy sản cà phê, cao su... hay được bồi thường đất đai song lại chưa biết sử dụng đầu tư sản xuất mà chủ yếu mua sắm tiêu dùng. Trong khi đó, đầu tư của nước ngoài hầu như không đáng kể do những khó khăn về kết cấu hạ tầng, độ rủi ro cao của lĩnh vực đặc thù này. Còn các chương trình dự án của Nhà nước tuy khá nhiều, số vốn đầu tư không ít song hiệu quả lại rất thấp. Tóm lại, vấn đề vốn đang là một sức ép không nhỏ đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn nước ta. 2. Thực trạng phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở nước ta 2.1. Một số thành tựu đạt được a. Giải quyết được vấn đề lương thực, đủ ăn, có dự trữ và xuất khẩu. Từ một nông thôn nghèo, một quốc gia triền miên thiếu đói, thường xuyên phải nhập khẩu lương thực (năm 1979 nhập 1.994.000 tấn, năm 1980 nhập 2.244.000 tấn ), đến năm 2016 đã trở thành quốc gia đủ ăn, có dự trữ và xuất khẩu gạo. Từ đó cho đến nay, sản lượng lương thực liên tục tăng. Sản lượng gạo xuất khẩu ra thị trường thế giới đứng hàng thứ 3 thứ 4 thế giới. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan