TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƢ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
LÊ KIM THẮM
DẠY HỌC TIẾNG VIỆT 10
BAN CƠ BẢN
Luận văn tốt nghiệp Đại học
Ngành Sư phạm Ngữ văn
Cán bộ hƣớng dẫn :
Th.S TRẦN ĐÌNH THÍCH
Để thực hiện luận văn này, bản thân tôi đã nhận được sự hướng dẫn rất tận
tình của Th.S Trần Đình Thích. Với tư cách là một giảng viên có nhiều năm kinh
nghiệm, cộng với sự am hiểu tường tận về lĩnh vực phương pháp dạy - học, thầy đã
giúp đỡ, chỉ dẫn tôi rất cụ thể và khoa học.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất đến thầy. Không chỉ vì thầy đã
giúp tôi hoàn thành luận văn mà còn vì thầy đã cho tôi nhiều kinh nghiệm quý báu
trong việc nghiên cứu phương pháp dạy - học, cũng như giúp tôi càng tâm huyết hơn
với nghề giáo.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, khép lại chặng đường bốn năm học tập và
nghiên cứu trên giảng đường khoa Sư Phạm trường Đại học Cần Thơ, tôi cũng xin
chân thành cảm ơn sự giảng dạy tận tình của tất cả các thầy cô, đặc biệt là các thầy cô
ở bộ môn Ngữ văn. Cảm ơn bạn bè đã nhiệt tình chia sẻ, động viên và cổ vũ tôi trong
học tập cũng như trong cuộc sống.
Cần Thơ, ngày 02 tháng 5 năm 2013
Lê Kim Thắm
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
ĐỀ CƢƠNG TỔNG QUÁT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÂN MÔN
TIẾNG VIỆT TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Vị trí của phân môn Tiếng Việt THPT
1.1. Tiếng Việt với tư cách là môn học
1.2. Tiếng Việt trong mối tương quan với các môn học khác
1.2.1. Quan hệ giữa phân môn Tiếng Việt với phân môn Văn và Làm văn
1.2.2. Quan hệ giữa phân môn Tiếng Việt với các môn học khác
2. Mục tiêu của phân môn Tiếng Việt THPT
2.1. Phát triển tri thức
2.2. Phát triển ngôn ngữ
2.3. Phát triển năng lực tư duy
3. Chƣơng trình Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 10
3.1. Phân phối chương trình
3.2. Cấu tạo và nội dung chương trình
3.2.1. Cấu tạo chương trình
3.2.2. Nội dung chương trình
3.3. Những đổi mới về phần Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 10
3.4. Mục tiêu của chương trình Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 10
CHƢƠNG II : DẠY - HỌC TIẾNG VIỆT 10 BAN CƠ BẢN
1. Cơ sở lí luận của dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
1.1. Quan điểm lấy HS làm trung tâm
1.2. Năm định hướng trong quá trình dạy - học của Marzano
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
1.2.1. Định hướng 1 : Thái độ và sự nhận thức tích cực về việc học
1.2.2. Định hướng 2 : Thu nhận và tổng hợp kiến thức
1.2.3. Định hướng 3 : Mở rộng và tinh lọc kiến thức
1.2.4. Định hướng 4 : Sử dụng kiến thức có hiệu quả
1.2.5. Định hướng 5 : Rèn luyện thói quen tư duy
1.3. Tổ chức học hợp tác (thảo luận nhóm) trong dạy - học Ngữ văn
1.3.1. Khái niệm học hợp tác
1.3.2. Một số điểm cần lưu ý khi tổ chức học hợp tác
1.4. Các nguyên tắc dạy - học Tiếng Việt THPT
1.4.1. Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy
1.4.2. Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp
1.4.3. Nguyên tắc chú ý đến trình độ tiếng Việt vốn có của HS
1.4.4. Nguyên tắc so sánh và hướng tới cả dạng nói lẫn dạng viết
1.5. Một số phương pháp dạy - học Tiếng Việt thường được sử dụng
1.5.1. Phương pháp thông báo - giải thích
1.5.2. Phương pháp giao tiếp
1.5.3. Phương pháp phân tích ngôn ngữ
1.5.4. Phương pháp rèn luyện theo mẫu
2. Thiết kế giáo án dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
2.1. Lí thuyết chung về soạn giáo án
2.1.1. Khái niệm
2.1.2. Những điểm cần lưu ý trong quá trình soạn giáo án
2.1.3. Các bước soạn giáo án
2.2. Thiết kế giáo án cho một số bài Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 10
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ SINH HOẠT
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TIẾNG VIỆT
NHỮNG YÊU CẦU VỀ SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
C. PHẦN KẾT LUẬN
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ
CÁC KÍ HIỆU SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI
1. Các từ viết tắt
GV : giáo viên
HS : học sinh
SGK : sách giáo khoa
SGV : sách giáo viên
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
2. Các kí hiệu đƣợc sử dụng
?
GV hỏi HS
GV thông báo – giải thích kiến thức
A
GV tổng kết, nhận xét
Cá nhân HS trả lời câu hỏi
Các HS cùng nhau thảo luận nhóm và trình bày kết quả theo sự gợi ý của GV
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
1. Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là ngôn ngữ của dân tộc Kinh, đồng thời cũng là tiếng phổ thông
của tất cả các dân tộc anh em sống trên đất nước Việt Nam. Trải qua biết bao thăng
trầm, ngày nay tiếng Việt đã khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế.
Là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của nước Việt, tiếng Việt không chỉ có
mặt trong giao tiếp hằng ngày mà còn có mặt trong các lĩnh vực : chính trị, kinh tế,
khoa học, văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao… Riêng lĩnh vực giáo dục, từ năm
1945, tiếng Việt được dùng làm ngôn ngữ chính thức trong giảng dạy, học tập và
nghiên cứu từ bậc mẫu giáo đến bậc cao học. Nó là phương tiện để con người truyền
đạt và tiếp nhận tri thức, cũng là phương tiện giáo dục đạo đức, chính trị, tình cảm, lối
sống… Đặc biệt, ngày càng có nhiều người nước ngoài học tiếng Việt, sử dụng tiếng
Việt để giao tiếp và nghiên cứu. Điều đó chứng tỏ tiếng Việt có vai trò rất quan trọng
trong giao tiếp của xã hội Việt Nam nói riêng và trên trường quốc tế nói chung.
Khi xét Tiếng Việt với tư cách là một phân môn trong môn Ngữ văn, ta sẽ thấy
rằng : nó cung cấp cho HS những tri thức bổ ích về ngôn ngữ. Nhờ những tri thức ấy,
HS sẽ am hiểu tiếng Việt sâu hơn và thêm trân trọng, giữ gìn tiếng nói dân tộc. Ngoài
ra, Tiếng Việt không chỉ làm công cụ tư duy mà còn làm công cụ giao tiếp – tạo thành
chức năng kép chỉ có ở phân môn Tiếng Việt. Qua những bài học phổ thông, HS tự rút
ra kĩ năng sử dụng tiếng Việt phù hợp trong từng hoàn cảnh khác nhau. Từ đó, các em
sẽ dễ dàng tiếp nhận cũng như diễn đạt mọi kiến thức khoa học khác trong nhà trường.
Nói cách khác, phân môn Tiếng Việt là nền tảng để HS hoàn thành tốt nhiệm vụ học
tập của mình.
Không chỉ phục vụ cho học tập, phân môn Tiếng Việt còn là một trong những
nhân tố làm nên vị trí của con người trong xã hội. Thông qua cách nói năng, ứng xử,
trình bày…, người khác sẽ đánh giá được trình độ, văn hóa, tính cách của chúng ta.
Tóm lại, nhiệm vụ của phân môn Tiếng Việt không những vừa phát triển tri thức,
vừa phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho HS, hơn nữa, nó còn là nền tảng phát triển con
người.
Tuy phân môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng như thế, nhưng những bài
học Tiếng Việt chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ. Ở cấp THPT, xét trong chương trình Ngữ văn
10 Ban cơ bản, Tiếng Việt chỉ chiếm 16 tiết trong tổng số 105 tiết, tức 15,2%.
Trang 1
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
Tiếng Việt thực chất là môn học thực hành, mục đích cuối cùng là làm sao để HS
giao tiếp tốt hơn. Nếu người GV xem nặng bề nổi kiến thức, không quan tâm đến thực
hành thì phân môn Tiếng Việt sẽ trở nên nhàm chán, khô khan. Trên thực tế, phân môn
này thường giảm hứng thú cho người dạy lẫn người học. GV thường dạy theo cách an
toàn nhất, đó là sử dụng những ví dụ, câu hỏi sẵn có trong SGK để giảng dạy. Còn HS
lệ thuộc vào sách tham khảo trên thị trường để đáp ứng yêu cầu của GV. Khả năng tư
duy của các em dần hạn chế. Vì thế, tình trạng sai chính tả, sai ngữ pháp, không biết
cách diễn đạt…, của HS vẫn còn phổ biến.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói : “Ngày nay, sự hiểu biết của con
người luôn luôn đổi mới. Cho nên dù học được trong nhà trường bao nhiêu đi chăng
nữa cũng chỉ là rất hạn chế. Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan trọng là rèn luyện
bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm tòi phương
pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất của mình.” [20; Tr 132]. Không chỉ
riêng Thủ tướng, chủ trương đổi mới phương pháp dạy - học là vấn đề luôn được quan
tâm. Trong khi đó, những bất cập trong dạy – học nói chung và dạy - học Tiếng Việt
nói riêng vẫn tồn tại. Chính vì vậy, đề tài Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản được
chọn nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề dạy - học Tiếng Việt THPT, mỗi
công trình sẽ nghiên cứu những khía cạnh khác nhau. Dưới đây là một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu.
Trong quyển Tiếng Việt trong trường học (tập II), Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1997, Lê Xuân Thại đã có bài viết Bồi dưỡng hứng thú của HS đối với môn Tiếng
Việt. Tác giả cho rằng : “Dạy Việt ngữ học, người GV dần dần từng bước dẫn dắt HS
đi sâu vào chiều sâu của ngôn ngữ, của tiếng Việt, hiểu được những điều bí ẩn đằng
sau các hiện tượng, tức là hiểu được cái cơ chế vận hành của ngôn ngữ” [18; Tr 18].
Chẳng hạn, khi dạy về lịch sử tiếng Việt, GV có thể hướng dẫn HS tìm thấy lai lịch
của những từ mất nghĩa, mờ nghĩa từ ngôn ngữ cùng cội nguồn. Ví dụ, từ ỏi (trong ít
ỏi) cũng có nghĩa là ít đối với tiếng Mường, từ ống (trong súng ống) cũng có nghĩa là
súng trong tiếng Thái,… Mặt khác, “khi truyền thụ kiến thức về tiếng Việt cho HS
THPT, GV nên cố gắng sáng tạo và vận dụng những phương tiện trực quan” [18; Tr
Trang 2
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
20]. Tuy những ý kiến của tác giả không thể xem là phương pháp dạy - học Tiếng Việt
cụ thể nhưng đó là những cách thức bổ ích khiến cho HS có thể hứng thú học Tiếng
Việt.
Trong quyển Tiếng Việt trong trường học (Lê Xuân Thại chủ biên), Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, Nguyễn Thế Lịch đã có bài viết Phương diện ngôn
ngữ học của việc dạy và học Tiếng Việt ở bậc THPT. Tác giả phân tích rõ tình trạng,
nguyên nhân dạy và học Tiếng Việt trường phổ thông hiện nay. Bài viết cũng bám sát
hai chức năng của Tiếng Việt : dạy Tiếng Việt làm công cu tư duy, dạy Tiếng Việt làm
công cụ giao tiếp. Đến vấn đề phương pháp giảng dạy Tiếng Việt, tác giả cho rằng :
“Tiếng Việt là môn học thực hành thì cũng phải sử dụng phương pháp dạy thực hành”
[17; Tr 92]. Khi xây dựng phương pháp, cần chú ý một số nguyên tắc như : dạy Tiếng
Việt dựa trên cơ sở vốn ngôn ngữ tự nhiên của HS và vốn ngôn ngữ đã được nhà
trường trang bị ; dạy Tiếng Việt theo phương châm “phát hiện lại”, gắn bó hơn nữa nội
dung với phương pháp. Bởi không có phương pháp nào chung cho mọi người, phương
pháp phải cụ thể và phương pháp gắn liền với nội dung, nội dung là linh hồn của
phương pháp ; nguyên tắc cuối cùng khi xây dựng phương pháp là dạy Tiếng Việt theo
đúng tính chất môn thực hành.
Bài viết Dạy Tiếng Việt là dạy một hoạt động và bằng hoạt động (Tạp chí
Ngôn ngữ , số 4 – 2001) của tác giả Lê A đã đề cập đến vấn đề “Dạy cái gì? Dạy như
thế nào?” [24; Tr 61]. Tác giả nêu lên thực trạng giảng dạy Tiếng Việt và kết luận rằng
: “Dạy Tiếng Việt là dạy cho các em một hoạt động, hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ, một loại hoạt động cơ sở của mọi hoạt động của con người” [24; Tr 62]. Về cách
dạy Tiếng Việt, dù có áp dụng phương pháp, thủ pháp nào đi nữa thì nhìn chung vẫn
theo trình tự sau : huy động, xây dựng ngữ liệu chứa các dấu hiệu của khái niệm; tổ
chức cho HS quan sát, phân tích ngữ liệu; trừu tượng hóa, khái quát hóa và phát biểu
khái niệm; củng cố bằng hệ thống bài tập. Song song với những quá trình trên, theo tác
giả, có thể tiến hành một số thao tác cơ bản như : thao tác phân tích – phát hiện, thao
tác phân tích – chứng minh, thao tác phân tích – phán đoán, thao tác phân tích – tổng
hợp. Ngoài ra, “để đa dạng hóa hoạt động nhận thức và gây hứng thú cho HS, GV có
thể sử dụng mô hình dạy học nêu vấn đề, sử dụng các Gráp” [24; Tr 64]. Bài viết của
tác giả thể hiện những phương pháp, thủ pháp cơ bản nhất khi dạy - học Tiếng Việt.
Trang 3
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
Trong bài Một số phương pháp đặc trưng của việc dạy học Tiếng Việt trong
nhà trường (Tạp chí Giáo dục, số 41 - 2002), tác giả Nguyễn Quang Ninh cho rằng
“Đối tượng nhận thức trong việc dạy học Tiếng Việt chính là tiếng Việt, là những quy
luật, nguyên tắc, công thức… của tiếng Việt, được xây dựng trên cơ sở của những
mục đích dạy học nhất định, bởi thế cần có phương pháp dạy học riêng” [22; Tr 21].
Theo tác giả, phương pháp dạy - học Tiếng Việt đặc trưng nhất là: phương pháp phân
tích ngôn ngữ, phương pháp giao tiếp và phương pháp dạy theo mẫu. Ở mỗi phương
pháp, tác giả phân tích cụ thể những khía cạnh như : cơ sở xây dựng phương pháp,
những nguyên tắc, quy trình thực hiện, cũng như hiệu quả đạt được khi sử dụng những
phương pháp ấy vào dạy - học Tiếng Việt.
Trong bài viết Góp một vài cách thức cụ thể vào việc giảng dạy Tiếng Việt
phổ thông trung học (Tạp chí Ngôn ngữ, số 3 - 2004), GS.TS Diệp Quang Ban cho
rằng : có nhiều cách thức giảng dạy Tiếng Việt, nếu không tính đến môi trường cụ thể
thì có thể thực hiện bài giảng Tiếng Việt theo những gợi ý sau : giảng bằng cách lần
lượt trình bày theo SGK, cách này được gợi ý nhiều trong SGV, với người dạy, cách
này được chuộng hơn ; cách dạy linh hoạt hơn và cũng mất thì giờ chuẩn bị nhiều hơn
là cách giảng theo từng khái niệm hay vấn đề ; giảng theo cách lập sơ đồ của nội dung
tiết học ; giảng thông qua việc phân tích ví dụ và bài tập. Tác giả phân tích rõ lợi ích
của từng cách giảng cụ thể, đồng thời dẫn chứng ví dụ rõ ràng.
Trong Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa
lớp 10, trung học phổ thông, môn Ngữ văn (Phan Trọng Luận chủ biên), Nxb Giáo
dục, 2006 lưu ý hai vấn đề về phương pháp dạy - học Tiếng Việt : dạy - học theo
nguyên tắc tích hợp và phát huy tính tích cực, chủ động của HS trong học tập. Dù áp
dụng phương pháp dạy - học Tiếng Việt nào thì tiến trình dạy - học vẫn gồm ba bước :
bước một, HS đọc ngữ liệu, tìm hiểu, phân tích ngữ liệu theo hệ thống câu hỏi hay yêu
cầu trong SGK ; bước hai, GV dẫn dắt HS hình thành kiến thức và kĩ năng ; bước ba,
luyện tập thực hành để củng cố, mở rộng kiến thức và kĩ năng.
Phương pháp dạy học Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2009, do Lê A
chủ biên đã nghiên cứu những vấn đề chung về phương pháp dạy - học Tiếng Việt và
phương pháp dạy - học các hợp phần Tiếng Việt ở THPT. Sách đưa ra vị trí, nhiệm vụ
và các nguyên tắc dạy - học Tiếng Việt, từ đó phân tích những phương pháp dạy - học
Trang 4
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
Tiếng Việt. Những phương pháp thường được sử dụng là : phương pháp thông báo –
giải thích, phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp rèn luyện theo mẫu, phương
pháp giao tiếp. Ngoài ra sách còn đề cập một số thủ pháp thường được sử dụng trong
dạy - học Tiếng Việt, gồm có : thủ pháp phân tích và tổng hợp, thủ pháp so sánh đối
chiếu, thủ pháp khái quát hóa, quy loại và phân loại, tạo tình huống có vấn đề.
Mỗi hợp phần khác nhau thì có những phương pháp dạy - học cụ thể khác nhau.
Ở phần hai, sách chia thành năm mục, trong đó có bốn mục đề cập đến phương pháp
dạy các hợp phần Tiếng Việt : phương pháp dạy những vấn đề lí thuyết chung về tiếng
Việt và ngôn ngữ, phương pháp dạy - học từ ngữ, phương pháp dạy - học ngữ pháp,
phương pháp giảng dạy phong cách học. Nhìn chung, đây là tài liệu hoàn chỉnh nhất
nghiên cứu về phương pháp dạy - học Tiếng Việt.
Bài viết Ngữ liệu trong dạy học Tiếng Việt ở trường phổ thông (Tạp chí
Giáo dục số 236, kì 2 – 4/2010) của TS. Phạm Thị Anh đã giới thiệu rõ các quy trình
phân tích ngữ liệu khi dạy - học Tiếng Việt . Những tri thức trong phân môn Tiếng
Việt thường trừu tượng, nếu không bắt đầu từ ngữ liệu cụ thể (còn gọi là mẫu) thì việc
hình thành khái niệm sẽ hết sức khó khăn. Nói cách khác, ngữ liệu chính là “một cách
thức, một phương tiện trực quan của Tiếng Việt” [23; Tr 17]. Mặt khác, từ việc phân
tích mẫu, phân môn Tiếng Việt còn hướng đến việc rèn luyện theo mẫu, học theo mẫu
để phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS. Trở lại quy trình phân tích ngữ liệu, trong
một giờ Tiếng Việt thường trải qua bốn bước : bước một, hướng dẫn HS phân tích ngữ
liệu thông qua việc tạo tình huống có vấn đề ; bước hai, sắp xếp, khái quát hóa các đặc
trưng của khái niệm. Việc làm này chính là bước tổng hợp những nội dung từ phân
tích ngữ liệu ; bước ba, trình bày định nghĩa, khái niệm ; bước bốn, cụ thể hóa, củng cố
khái niệm bằng những ngữ liệu mới. Đây chính là công đoạn luyện tập – thực hành.
Phân tích ngữ liệu là việc làm thường xuyên và quen thuộc trong giờ học Tiếng Việt,
những quy trình kể trên là tài liệu bổ ích cho GV vì nó được tác giả trình bày khá chi
tiết.
Tác giả Vũ Thị Sao Chi với bài viết Về vấn đề dạy học phần Phong cách
ngôn ngữ trong chương trình Ngữ văn THPT (Tạp chí Ngôn ngữ số 1 – 2012) đã chia
sẻ : “Với mong muốn cùng chia sẻ, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong dạy học
Tiếng Việt, chúng tôi xin đưa ra một vài ý kiến nhỏ về việc dạy học phần phong cách
Trang 5
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
ngôn ngữ ở cấp THPT” [26; Tr 44]. Theo tác giả, trước khi dạy các bài phong cách
chức năng ngôn ngữ, rất cần có bài giới thiệu khái quát về phong cách ngôn ngữ với
những nội dung cơ bản như : sự phân loại phong cách chức năng ngôn ngữ, yêu cầu
đối với việc lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ cho đúng phong cách. Về nội dung kiến
thức cần được dạy cho một phong cách ngôn ngữ, tác giả đã trình bày hai nội dung cơ
bản. Thứ nhất, khái niệm phong cách ngôn ngữ (nên dạy theo cách quy nạp) và kĩ năng
lựa chọn, sử dụng phương tiện ngôn ngữ cho mỗi phong cách. Thứ hai, tác giả cho
rằng GV nên giúp HS phân biệt được các phong cách ngôn ngữ. Đây là vấn đề mà
SGK “chưa tính đến” hoặc “còn xem nhẹ” [26; Tr 50]. Tác giả nêu ra một số cách giúp
HS phân biệt các phong cách ngôn ngữ. Chẳng hạn sử dụng thủ pháp so sánh – độc
lập, tức là so sánh với những phong cách khác bằng ví dụ cụ thể. Hoặc tăng cường
dạng bài tập phát hiện lỗi sai về các phong cách ngôn ngữ. Hoặc sau khi học về các
phong cách ngôn ngữ, GV thiết kế bài luyện tập chung nhằm củng cố kiến thức và rèn
kĩ năng phân định các phong cách ngôn ngữ cho HS.
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy - học là vấn đề được quan tâm hàng đầu
trong sự nghiệp giáo dục. Những công trình nghiên cứu về vấn đề này vô cùng phong
phú, trong đó có việc nghiên cứu phương pháp dạy - học Tiếng Việt. Do thời gian và
phạm vi nghiên cứu có hạn, người viết chỉ trình bày một số công trình đã được đề cập
ở trên.
3. Mục đích, yêu cầu
Việc nghiên cứu đề tài Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản nhằm :
- Giúp giáo viên tìm ra những phương pháp dạy - học tích cực hơn, tạo hứng thú học
Tiếng Việt cho HS.
- Về phía HS, khi được dạy những phương pháp mới sẽ hăng say học tập, nâng cao
trình độ hiểu biết về tiếng Việt. Từ đó, HS sẽ khắc phục được các lỗi thông thường khi
sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản được nghiên cứu trong phạm vi
: các bài học thuộc phân môn Tiếng Việt, in trong SGK Ngữ văn 10 (tập 1, tập 2), Ban
cơ bản. Cụ thể là :
Trang 6
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Văn bản.
Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
Thực hành các phép tu từ : ẩn dụ và hoán dụ.
Khái quát lịch sử Tiếng Việt .
Những yêu cầu về sử dụng Tiếng Việt .
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
Thực hành các phép tu từ: phép điệp, phép đối
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Thu thập các tài liệu liên quan đến phương pháp dạy - học Tiếng Việt ở bậc THPT.
- Sắp xếp, phân tích, so sánh các tài liệu.
- Chọn lọc những tài liệu phục vụ nghiên cứu.
- Tổng kết những phương pháp dạy - học tích cực hiện nay và soạn giáo án thể
nghiệm.
Trang 7
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
B. PHẦN NỘI DUNG
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
CHƢƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ
PHÂN MÔN TIẾNG VIỆT TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Vị trí của phân môn Tiếng Việt THPT
Chương trình giáo dục của HS cấp THPT bao gồm nhiều môn học. Các
môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn gồm có : Ngữ văn, Lịch Sử, Địa lí,…
Các môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên gồm có : Toán, Lý, Hóa,… Trước hàng
chục môn học như thế, phân môn Tiếng Việt sẽ đứng ở vị trí như thế nào, có mối quan
hệ ra sao với các môn học còn lại. Vấn đề này sẽ được trình bày thành hai khía cạnh :
thứ nhất, với tư cách là một môn học, Tiếng Việt sẽ thực hiện một số chức năng nhất
định ; thứ hai, Tiếng Việt được đặt trong mối tương quan với các môn học khác, cụ thể
là phân môn Văn, phân môn Làm văn và những môn học tự nhiên và xã hội khác.
1.1. Tiếng Việt với tƣ cách là môn học
Với tư cách là một môn học, Tiếng Việt cung cấp cho HS những tri thức về
: ngôn ngữ học, hệ thống tiếng Việt, quy tắc hoạt động và những sản phẩm của nó
trong mọi hoạt động giao tiếp. Đây là những kiến thức chuyên sâu của tiếng Việt. Chỉ
đến khi HS bước vào giai đoạn THPT thì các em mới thực sự tìm hiểu sâu về những tri
thức nói trên. Am hiểu bản chất của tiếng Việt, HS sẽ có ý thức giữ gìn sự trong sáng
cho tiếng Việt thông qua việc sử dụng nó phù hợp với từng hoàn cảnh, từng yêu cầu
khác nhau trong cuộc sống.
Với người Việt Nam, tiếng Việt còn dùng để giao tiếp, nên phân môn Tiếng Việt
còn đảm nhận thêm một chức năng quan trọng mà các môn học khác không có, đó là
chức năng trang bị cho HS công cụ giao tiếp. Học tốt phân môn này, HS sẽ tiếp nhận,
diễn đạt mọi kiến thức khác trong nhà trường dễ dàng hơn.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng : Tiếng Việt là một trong những
môn học có tầm quan trọng đặc biệt trong các môn thuộc ngành khoa học xã hội và
nhân văn. Dạy và học tốt Tiếng Việt sẽ dẫn đến sự phát triển năng lực tư duy, năng lực
ngôn ngữ của mọi thế hệ, góp phần giữ gìn và phát huy tiếng nói dân tộc.
Trang 8
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
1.2. Tiếng Việt trong mối tƣơng quan với các môn học khác
Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành được biên soạn theo nguyên tắc tích
hợp. Vì thế, Tiếng Việt có quan hệ mật thiết, gắn bó máu thịt với hai phân môn Văn và
Làm văn. Không dừng ở đó, Tiếng Việt cũng tác động qua lại với các môn học khác.
1.2.1. Quan hệ giữa phân môn Tiếng Việt với phân môn Văn và Làm văn
- Quan hệ giữa phân môn Tiếng Việt với phân môn Văn
Tuy Tiếng Việt và Văn có quan hệ gần gũi nhất nhưng cả hai phân môn đó
không thể xem là một. Nếu xét về nội dung giảng dạy, “đối tượng giảng dạy của môn
Văn là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ của dân tộc và nhân loại từ cổ chí kim, còn
nội dung giảng dạy của môn Tiếng Việt là hệ thống ngôn ngữ (tiếng Việt), những quy
luật hành chức của tiếng Việt trong giao tiếp và các sản phẩm lời nói bằng tiếng Việt,
hệ thống các kĩ năng cần thiết để giao tiếp xã hội” [1; Tr 9]. Nếu xét về phương pháp
dạy - học, cả hai phân môn này cũng khác biệt rõ rệt, “dạy văn tác động nhiều đến
cảm xúc, còn dạy tiếng lại tác động nhiều đến tư duy và trí tuệ của HS” [1; Tr 9]
Trở lại mối quan hệ giữa Văn và Tiếng Việt, bên cạnh chức năng tư duy,
chức năng giao tiếp, ngôn ngữ còn có chức năng thẩm mĩ. Ngôn ngữ chính là chất liệu
làm nên tác phẩm văn học. Để tạo nên những vần thơ, những áng văn hay, các tác giả
sẽ lựa chọn những ngôn ngữ chuẩn xác, hoàn hảo nhất. Một tính cách, một phong
cảnh, một tình cảm, một triết lí sống… tất cả đều được thể hiện bằng ngôn ngữ. Chính
vì thế, muốn khám phá hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ trong tác phẩm văn chương, đòi
hỏi HS phải phân tích, khám phá cái hay, cái đặc sắc của nghệ thuật ngôn từ. Trong
bài viết Vận dụng tri thức về nghĩa tường minh và nghĩa hàm ý trong dạy - học tác
phẩm văn chương cho HS THPT, tác giả Phạm Thị Anh đã viết : “Nhiệm vụ hàng đầu
của môn Ngữ văn là hình thành và rèn luyện cho HS năng lực đọc hiểu văn bản văn
học, từ hiểu câu chữ đến hình tượng, từ hiểu hình tượng đến biết khái quát tư tưởng
tác phẩm, nắm bắt giá trị thẩm mĩ và giá trị lịch sử. Tuy nhiên, để có năng lực đọc, HS
cần phải có vốn tiếng Việt, có khả năng diễn đạt vốn tri thức ấy bằng lời văn của
mình. Trong vốn tiếng Việt ấy, nghĩa tường minh, nghĩa hàm ý, cách phân tích, lĩnh
hội nghĩa tường minh và nghĩa hàm ý có ý nghĩa rất quan trọng chi phối đến việc
khám phá, đọc hiểu văn bản, đặc biệt là văn bản văn chương” [21; Tr 48]. Như vậy,
Trang 9
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
thông qua yêu văn chương, hăng say tìm tòi văn chương, HS sẽ càng thêm yêu tiếng
Việt vì tiếng Việt có vai trò rất quan trọng trong việc đọc hiểu văn bản.
Ngược lại, khi dạy Tiếng Việt, GV cần những ngữ liệu cụ thể (hay còn gọi
là mẫu) để diễn giảng các khái niệm trừu tượng. Những ngữ liệu này thường lấy từ các
tác phẩm văn học mà HS đã được học, vì nó là những ngữ liệu chuẩn và quen thuộc
đối với HS. Thông qua những ngữ liệu đó, HS dễ dàng hình thành và khắc sâu khái
niệm có trong bài học. Đây là phương pháp giảng dạy theo lối quy nạp thường được sử
dụng trong các tiết học Tiếng Việt. Vì vậy, có thể kết luận rằng : tác phẩm văn học sẽ
là ngữ liệu tuyệt vời trong giờ dạy - học Tiếng Việt.
Tóm lại, phân môn Tiếng Việt và phân môn Văn bổ trợ cho nhau. Tiếng
Việt tạo điều kiện cho HS khám phá nghệ thuật ngôn từ trong Văn học, còn tác phẩm
văn chương là những ngữ liệu buộc phải có nhằm giúp HS cụ thể hóa kiến thức về
ngôn ngữ.
- Quan hệ giữa Tiếng Việt với Làm văn
Những kiến thức và kĩ năng tiếng Việt là công cụ giúp hoàn thiện lời văn
của HS. Chẳng hạn, học về câu sẽ làm cho lời văn của HS trong sáng, mạch lạc; học
về các biện pháp tu từ làm cho lời văn thêm sinh động, trau chuốt; học về các phong
cách chức năng ngôn ngữ để lời văn phù hợp với hoàn cảnh. Ngay bài làm văn số 1
của lớp 10, SGK đã hướng dẫn HS rằng : “Ôn luyện những kiến thức và kĩ năng về
tiếng Việt (đặc biệt là về câu và các biện pháp tu từ) để lời văn của bài làm phù hợp
với yêu cầu bộc lộ cảm nghĩ của cá nhân” [10; Tr 26].
Ngược lại, Làm văn như một cách thức hoàn thiện ngôn ngữ cho HS. Càng
thực hành Làm văn, GV hoặc bản thân HS càng nhận ra ưu, nhược điểm về ngôn ngữ
của HS. Từ đó, GV có thể hướng dẫn HS cách rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ sao cho phù
hợp.
Sự phối hợp giữa ba phân môn Tiếng Việt – Văn – Làm văn có thể hiểu như
sau : trên cơ sở những ngữ liệu từ văn bản văn học, qua sự phân tích, HS có thể rút ra
nhận xét, kết luận về các hiện tượng ngôn ngữ. Từ đó, HS vận dụng những tri thức
ngôn ngữ vào phân tích văn bản văn học hoặc ứng dụng vào Làm văn. Kết quả của quá
trình dạy - học này là tạo ra kiến thức và kĩ năng tổng hợp ở HS.
Trang 10
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
1.2.2. Quan hệ giữa phân môn Tiếng Việt với các môn học khác
Như đã nói ở trên, khi học tốt phân môn Tiếng Việt, HS sẽ dễ dàng tiếp
nhận và diễn đạt mọi kiến thức khác trong nhà trường. Đây chính là mối tương quan
giữa phân môn Tiếng Việt với các môn học khác. Một HS thiếu quan tâm đến việc rèn
luyện năng lực Tiếng Việt thường gặp những khó khăn trong việc lĩnh hội kiến thức,
bởi chưa thể hiểu trọn vẹn lời giảng của GV. Hoặc nếu HS biết tự nghiên cứu các bài
học, nhưng kĩ năng ngôn ngữ hạn chế thì HS ấy vẫn gặp khó khăn trong việc diễn đạt
cách hiểu của mình. Tựu trung lại, các em vẫn không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ học
tập cho bản thân nếu kĩ năng ngôn ngữ kém.
Ngoài ra, các môn học khác cũng có tác dụng ngược trở lại đến phân môn
Tiếng Việt. Tri thức khoa học được thể hiện thông qua các khái niệm, thuật ngữ…Khi
HS làm quen với những khái niệm, thuật ngữ mới mẻ, cũng chính là lúc HS trau dồi
vốn từ vựng tiếng Việt của mình. Mặt khác, được tiếp xúc với nhiều môn khoa học,
HS sẽ thấy được cách diễn đạt phong phú của tiếng Việt trong các phong cách khác
nhau. Từ đó, HS có thể rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt theo phong cách ngôn
ngữ phù hợp.
2. Mục tiêu của phân môn Tiếng Việt THPT
Tác giả Lê A cho rằng : đưa Tiếng Việt vào THPT không chỉ nhằm mục
đích “chữa cháy” tình trạng yếu kém về kĩ năng viết và nói của HS, hơn hết, “HS
THPT phải đạt trình độ cao hơn trong tri thức về tiếng Việt cũng như năng lực hoạt
động ngôn ngữ bằng tiếng Việt” [1; Tr 11]. Như vậy, Tiếng Việt sẽ có hai mục tiêu
chính là : phát triển tri thức và phát triển ngôn ngữ.
2.1. Phát triển tri thức
Khi Tiếng Việt đóng vai trò là một môn học, nó sẽ giúp HS tiếp tục nâng
cao, hoàn chỉnh hóa những tri thức như : những tri thức có tính chất lí thuyết về hệ
thống các đơn vị tiếng Việt (ở lớp 10 có các bài như : Văn bản, Đặc điểm của ngôn
ngữ nói và ngôn ngữ viết), về ngữ nghĩa, phong cách (ở lớp 10 các em được học
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật), về nghệ thuật
ngôn từ. Ngoài ra, Tiếng Việt còn cung cấp những tri thức cơ bản về quá trình phát
triển của tiếng Việt (bài Khái quát lịch sử tiếng Việt),...
Trang 11
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
Khi đã hoàn thành mục tiêu dạy tri thức, Tiếng Việt lại tiếp tục hoàn thành
mục tiêu phát triển ngôn ngữ. Nghĩa là HS phải đạt một trình độ tối thiểu về tri thức
ngôn ngữ để có thể vận dụng tri thức ấy vào đời sống. Hai mục tiêu trên không tách rời
nhau, trái lại, nó đan xen, cộng hưởng với nhau để hoàn thiện ngôn ngữ cho HS.
2.2. Phát triển ngôn ngữ
Như đã nói ở trên, Tiếng Việt tiếp tục làm nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ.
Tiếp tục nâng cao, hoàn chỉnh hóa năng lực hoạt động ngôn ngữ mà HS cấp THCS đã
hình thành nhưng chưa đạt đến mức độ tự giác, chủ động cao. HS THPT cần có năng
lực lĩnh hội tốt các ngôn bản, bao hàm năng lực phân tích, bình luận các giá trị chân,
thiện, mĩ trong tác phẩm văn học. HS THPT cũng cần có năng lực tạo lập tốt các ngôn
bản, bao hàm năng lực nói và viết đúng chuẩn mực tiếng Việt, biết làm cho ngôn bản
của mình thích hợp với từng hoàn cảnh, mục đích khác nhau. Nói cách khác, HS biết
áp dụng đúng các phong cách chức năng ngôn ngữ vào đời sống.
2.3. Phát triển năng lực tƣ duy
Ngoài hai mục tiêu trên, Tiếng Việt còn hướng tới mục tiêu rất quan trọng,
đó là phát triển năng lực tư duy cho HS. Ở mục tiêu này, Tiếng Việt giúp HS biết huy
động và tổ chức những tri thức cần thiết cho một đề tài, biết tự đặt vấn đề và giải quyết
vấn đề, biết diễn đạt kết quả tư duy của mình một cách rành mạch, chặt chẽ, có sức
thuyết phục cao. Sự nâng cao năng lực tư duy thông qua nâng cao năng lực ngôn ngữ
có tác dụng hết sức quan trọng đến đào tạo năng lực lao động của thanh niên trong đời
sống, cũng như năng lực học tập của họ ở bậc đại học.
Cuối cùng, thông qua việc thực hiện các mục tiêu nói trên, cùng với các bộ
môn khác trong nhà trường, phân môn Tiếng Việt góp phần hình thành cho HS thế
giới quan khoa học, những phẩm chất tốt đẹp của thế hệ Việt Nam như : lòng yêu quê
hương, đất nước, yêu gia đình, bạn bè, ý thức trách nhiệm trước cuộc sống, ý thức chủ
động sáng tạo, lòng yêu quý vá ý thức giữ gìn, phát triển bản sắc giàu đẹp của tiếng
Việt - một thứ của cải vô cùng phong phú, vô cùng lâu đời của dân tộc.
Chương trình Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 10 cũng hướng đến những
mục tiêu chung của chương trình Tiếng Việt THPT. Những mục tiêu của phần Tiếng
Việt 10 sẽ được phân tích ở phần sau (xem trang 19).
Trang 12
Dạy - học Tiếng Việt 10 Ban cơ bản
3. Chƣơng trình Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn 10
3.1. Phân phối chƣơng trình
Ngữ văn 10 được dạy - học trong 105 tiết, học kì I có 54 tiết và học kì II có
51 tiết. Riêng phần Tiếng Việt chiếm 16 tiết, học kì I có 8 tiết và học kì II có 8 tiết. Số
tiết đó được trải dài trong 35 tuần học của HS. Sau đây là bảng liệt kê những tiết học
Tiếng Việt :
STT
Tiết học
Bài học Tiếng Việt
Tiếng Việt
Học kì I
1
Tiết 3
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
2
Tiết 5
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếp theo)
3
Tiết 6
Văn bản
4
Tiết 10
Văn bản (tiếp theo)
5
Tiết 28
Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
6
Tiết 36
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
7
Tiết 42
Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (tiếp theo)
8
Tiết 46
Thực hành phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ
Học kì II
9
Tiết 66
Khái quát lịch sử Tiếng Việt
10
Tiết 74, 75
Những yêu cầu về sử dụng Tiếng Việt
11
Tiết 83, 84
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
12
Tiết 92
13
Tiết 100, 101
Thực hành các phép tu từ: phép điệp và phép đối
Ôn tập Tiếng Việt
3.2. Cấu tạo và nội dung chƣơng trình
3.2.1. Cấu tạo chƣơng trình
Kiến thức và kĩ năng của phần Tiếng Việt được phân bố theo hai loại bài
chủ yếu sau:
Trang 13
- Xem thêm -