Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dạy học thơ hai-cư theo thể loại ở trường trung học phổ thông...

Tài liệu Dạy học thơ hai-cư theo thể loại ở trường trung học phổ thông

.PDF
106
798
111

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ VÂN ANH DẠY HỌC THƠ HAI-CƢ THEO THỂ LOẠI Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Thái Nguyên, năm 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ VÂN ANH DẠY HỌC THƠ HAI-CƢ THEO THỂ LOẠI Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành: Lí luận và phƣơng pháp dạy học Văn - Tiếng Việt Mã số: 60.14.01.11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hữu Bội Thái Nguyên, năm 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác. Các thông tin, số liệu trích dẫn trong luận văn đều đã được trích rõ nguồn gốc. Thái Nguyên, tháng năm 2013 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Vân Anh XÁC NHẬN XÁC NHẬN CỦA TRƢỞNG KHOA CHUYÊN MÔN CỦA CÁN BỘ HƢỚNG DẪN Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ i MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục…………………………………………………...…………………………………………………………………………………............………. i Danh mục chữ viết tắt………………………………………………………………………………………………………………...…....…..iii PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………….…………………………………………….…….…1 PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………………………...…………..……………………………..…….…7 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ DẠY HỌC THƠ HAI-CƢ THEO THỂ LOẠI …………...………………………………………………….. 7 1.1 Cơ sở lí luận…………………………………………………………………………….……………………………….………....………..……7 1.1.1 Nguồn gốc và quá trình phát triển của thơ hai- cư………………………………..………...……………….7 1.1.1.1 Nguồn gốc thơ hai-cư………………………………………………………………...……………………………...………...….7 1.1.1.2 Quá trình phát triển của thơ hai-cư……………………………………………………………………...………….…8 1.1.2 Đặc điểm nội dung……………………………………………………………………………………..…………………...….……10 1.1.2.1 Thơ hai-cư hướng về vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống con người………...… 11 1.1.2.2 Thơ hai-cư mang đậm yếu tố Thiền………………………...………………………………………….....………14 1.1.3 Đặc điểm nghệ thuật……………………………………………………………………………………….…………...………..….19 1.1.3.1 Về hình thức bài thơ………………………………………………………………………..……..………………....…..……....21 1.1.3.2 Về ngôn ngữ thơ………………………………………………………………………………..……………………………....….21 1.1.3.3 Về hình ảnh thơ………………………………………………………………………………………………..…...…….……….....22 1.2 Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………………………..………………….……………..…….…………...24 1.2.1 Thơ hai-cư trong chương trình và sách giáo khoa Việt Nam….………………………....……...25 1.2.2 Học sinh Việt Nam với việc học thơ hai-cư…………………………………………………..….……....….….25 1.2.3 Giáo viên Việt Nam với việc dạy thơ hai-cư……………………………………………………………..……27 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ ii CHƢƠNG 2: ĐỊNH HƢỚNG DẠY HỌC CÁC BÀI THƠ HAI-CƢ TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 …………………………………………………………………………….…...…...…33 2.1 Giới thiệu khái quát các bài thơ hai-cư được lựa chọn vào chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn 10 bậc THPT…………………………………………………………………..…………………………….…33 2.2 Định hướng dạy học các bài thơ hai-cư trong chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn 10 bậc THPT …………………………………………………………………………………………………………..………38 2.2.1 Định hướng dạy học của sách giáo viên……………………………………………..………………..…….……..38 2.2.2 Định hướng dạy học của sách tham khảo…………………………………………………………………….…...48 2.2.3 Định hướng dạy học của luận văn…………………………………………………………………………………....…57 CHƢƠNG 3: THIẾT KẾ DẠY HỌC CÁC BÀI THƠ HAI-CƢ TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 ……………………………………….…………………….…………………. 70 3.1 Thiết kế dạy học các bài thơ hai-cư ở sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Bộ cơ bản)…..70 3.2 Thiết kế dạy học các bài thơ hai-cư ở sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Bộ nâng cao)…..86 PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………………………………………………………………………………....98 THƢ MỤC THAM KHẢO…………………………………………………………………………………………………….….…..99 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ iii DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT THPT: Trung học phổ thông THCS: Trung học cơ sở GV : Giáo viên HS : Học sinh SGK : Sách giáo khoa SGV : Sách giáo viên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1 Lý do lý thuyết Đến với đất nước Nhật Bản là đến với xứ sở huyền bí của Thần đạo với vô số các tập tục và nghi lễ; với vẻ đẹp lãng mạn của những cánh hoa anh đào nở rộ nên còn gọi là “Xứ sở hoa anh đào”; với những “Thiếu nữ duyên dáng trong tà áo Kimônô”. Đây còn là xứ sở dũng mãnh của “Truyền thống võ sĩ đạo” và “Kiếm đạo”, của những môn phái võ thuật nổi tiếng như: Sumo, akido, karate, judo. Trên sân khấu kịch Nô là những gương “Mặt nạ” người trầm lặng không nói và bất động. Chúng ta sẽ bị chìm đắm trong những trang tiểu thuyết dài hàng nghìn trang hay những vần thơ hai-cư cực ngắn. Hiện nay, văn học Nhật Bản đang nở rộ trên thế giới với những tên tuổi lỗi lạc đã mang những giải Nôbel văn học cho đảo quốc Mặt trời mọc như: Kawabata, oe… Nhưng linh hồn thật sự của văn học và văn hóa Nhật Bản là thơ hai-cư. Đây là một thể thơ độc đáo có đặc trưng rất riêng. Với lí do đó, chúng tôi đã chọn đề tài “Dạy học thơ hai-cư theo thể loại ở trường THPT” với hi vọng góp thêm tiếng nói nhỏ bé để tìm hiểu sâu thêm về đặc trưng thể loại thơ hai-cư và lý thuyết về dạy thơ hai-cư. 1.2 Lý do thực tiễn - Thơ hai-cư mới được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Bộ cơ bản và bộ nâng cao) nên người dạy và người học gặp rất nhiều khó khăn: Sự hạn chế về tư liệu tham khảo, sự cách biệt về phong tục tập quán đến nếp sống, nếp cảm, nếp nghĩ đều khác với thế hệ học sinh Việt Nam hôm nay. Đặc biệt hàng rào ngôn ngữ là một trong những yếu tố làm tăng thêm những trở ngại, khó khăn đối với giáo viên và học sinh khi đến với thơ hai-cư. Bởi thực tế giáo viên và học sinh không biết tiếng Nhật, vì vậy khó có điều kiện hiểu hết ý nghĩa ngôn từ mang độ hàm súc cao của các văn bản thơ. Vậy làm sao để dạy thơ hai-cư có hiệu quả? Xuất phát từ thực tiễn đó đã thôi thúc chúng tôi chọn đề tài “Dạy học thơ hai-cư theo thể loại ở trường THPT”. - Thơ hai-cư là thể loại thơ cổ của Nhật Bản nên độc giả là học sinh Việt Nam còn rất xa lạ với thể thơ này. Vậy người giáo viên phải làm thế nào để rút ngắn khoảng cách, đưa thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay đến được gần hơn với thế giới nghệ thuật vi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 2 diệu của thơ hai-cư? Đây là một lí do nữa để chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu này với mong muốn góp thêm một tiếng nói, tìm ra giải pháp khắc phục những khó khăn, trăn trở của giáo viên và học sinh khi đến với thơ hai-cư. 2. Lịch sử vấn đề 2.1 Lịch sử nghiên cứu thơ hai-cƣ ở Việt Nam Lịch sử nghiên cứu về thơ hai-cư ở Việt Nam đang dừng lại ở một mức độ khiêm tốn với lượng sách ít ỏi và một số gương mặt các nhà nghiên cứu, dịch giả tiêu biểu như: Phan Nhật Chiêu, Vĩnh Sính, Thanh Châu, Đoàn Lê Giang, Hữu Ngọc, Lê Thiện Dũng, Nguyễn Thị Mai Liên…Những công trình của các tác giả đã cung cấp cho ta một cái nhìn tương đối toàn diện về thơ hai-cư trên cả hai mặt nội dung và nghệ thuật. Quy mô nghiên cứu thơ hai-cư bao gồm cả ba hình thức: Dịch thuật, viết sách và viết báo. Hai công trình đáng chú ý nhất mang tính chuyên sâu về thơ hai-cư là hai cuốn sách “Ba nghìn thế giới thơm” của Nhật Chiêu (Nxb Văn nghệ, 2007) và “Haikư - Hoa thời gian” của Lê Từ Hiển và Lưu Đức Trung (Nxb Giáo Dục, 2007). Cuốn “Ba nghìn thế giới thơm” của Nhật Chiêu tập hợp gần như đầy đủ các bài báo, tạp chí mà ông đã từng công bố liên quan đến thơ hai-cư và thơ Nhật Bản. Còn cuốn “Haikư - Hoa thời gian” của Lê Từ Hiển và Lưu Đức Trung là một tài liệu quý dành cho giáo viên, học sinh THPT và những ai yêu thể thơ độc đáo này. Cuốn sách được chia làm ba phần với ba nội dung chính: Vài định hướng tiếp cận thơ haikư trong chương trình THPT, Hương sắc Haikư - những nẻo đường góp nhặt và Dạo bước vườn thơ. Bên cạnh nội dung khá phong phú, cách thức trình bày của cuốn sách “Haikư - Hoa thời gian” rất sinh động với nhiều hình ảnh minh họa. Ngoài hai công trình nói trên, nội dung nghiên cứu thơ hai-cư còn được đề cập tới trong những giáo trình về văn học Nhật Bản, các cuốn sách giới thiệu văn hóa văn học Nhật Bản như: “Văn học Nhật Bản, từ khởi thủy đến 1868” - Nhật Chiêu (Nxb Giáo Dục, 2003), “Nhật Bản trong chiếc gương soi” - Nhật Chiêu (Nxb Giáo dục TP. Hồ Chí Minh, 1997), “Câu chuyện văn chương phương Đông” - Nhật Chiêu (Nxb Giáo dục, 2002), “Xuôi dòng văn học Nhật Bản” - Nguyễn Thị Mai Liên, (Nxb Đại học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 3 sư phạm, 2003), “Phác thảo những nét tương đồng và dị biệt của ba thể thơ: Tuyệt cú, hai-cư và lục bát” - Nguyễn Thị Bích Hải trong cuốn “Văn học so sánh, nghiên cứu và triển vọng” (Nxb Sư phạm Hà Nội, 2005), “Dạo chơi vườn văn Nhật Bản” - Hữu Ngọc (Nxb Giáo dục, 1992)…Thêm vào đó, có khoảng hơn 20 bài viết đăng trên báo, tạp chí, tuy không chuyên sâu nhưng cũng cung cấp cho người đọc một số hiểu biết cơ bản về thơ hai-cư. Tiêu biểu là các bài viết: “Cảm nhận về thơ hai-cư” (Ngô Văn Phú - Tác phẩm mới, số 4/1992), “Một số đặc điểm của thơ hai-cư Nhật Bản” (Hà Văn Lưỡng, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 4/2001), “Thế giới trong thơ hai-cư” (Hà Văn Minh, Báo Xuân Điện Bàn, 2000)…Ngoài ra, trên mạng Internet ta cũng thấy có đăng tải nhiều bài viết về thơ hai-cư. Đáng chú ý là loạt bài hai-cư “Một chút lịch sử” của Nguyễn Nam Trân. Cùng với việc giới thiệu thơ hai-cư, một số nhà nghiên cứu đã dịch các công trình, cuốn sách về thơ hai-cư ở nước ngoài. Đại diện cho hướng đi này là Lê Thiện Dũng với bản dịch “Tiếng Việt Hài cú nhập môn” của Haroldg Henderson, Thanh Châu với bản dịch tiếng Việt “Thiền trong hội họa - Một cách cảm nghiệm thơ hai-cư thông qua hội họa” của Chimyo Horioka, Siewart W.Holmes. 2.2 Lịch sử nghiên cứu phƣơng pháp giảng dạy thơ hai-cƣ ở Việt Nam Hai-cư là một thể thơ độc đáo và mới mẻ. Nội dung, nghệ thuật thi pháp thơ haicư vô cùng thâm diệu. Để lôi cuốn người đọc vào thế giới vi diệu của thơ hai-cư vẫn là câu hỏi bỏ ngỏ. Vì vậy việc dạy và học thơ hai-cư đang trở thành vấn đề gây được sự chú ý cho giới nghiên cứu, phê bình trong và ngoài nước. Ta có thể kể tới cuốn “Bashô và thơ haikư”, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đưa ra phương hướng tiếp cận thơ hai-cư như sau: “Muốn cảm thụ được một bài thơ hai-cư, muốn nhận biết được cái hay, cái đẹp khác thường của nó, cần tới một sự nỗ lực cảm thụ bằng trí tưởng tượng phong phú và phóng khoáng, bằng sự suy tưởng gắn liền với việc khai thác các hình ảnh thị giác, thính giác, kết hợp với sự hiểu biết về văn hoá Nhật Bản. Đối với người nước ngoài thơ hai-cư không dễ tiếp thu song lại rất quen thuộc đối với người Nhật Bản. Vì thế đối với người Nhật, Ba-sô là nhà thơ hai-cư tiêu biểu nhất của đất nước mặt trời mọc”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 4 Trong cuốn “Haikư hoa thời gian” của Lưu Đức Trung. Tác giả đã nêu ra định hướng tiếp cận thơ hai-cư: “Hãy đọc thơ hai-cư bằng đôi mắt của chính mình, gạt bỏ mọi suy lí tạp niệm, tinh lọc cảm quan, nhìn vào bản tính của chính mình, biểu hiện mình, để có được trong đời một nụ cười trong suốt” [12 - 25]. Trên báo “Văn học và tuổi trẻ” (Số tháng 4 (185) /2009), tác giả Lưu Đức Trung tiếp tục đưa ra một số định hướng tiếp cận thơ hai-cư trong chương Ngữ văn THPT theo bốn bước: Tích hợp văn hoá, tiếp cận văn bản, so sánh - đối chiếu, vận dụng - thực hành. Trong các bài “Nghiên cứu văn học” chúng tôi còn tìm thấy những gợi mở về phương hướng tiếp cận thơ hai-cư: “Thơ hai-cư ngắn gọn, hàm súc. Mỗi bài thơ chỉ có ba câu, mười bảy âm tiết thường diễn tả một ấn tượng, một trạng thái tâm hồn thông qua một âm thanh hình ảnh. Thể thơ này ý ở ngoài lời, trọng tâm thơ là cái mà người đọc cảm thấy chứ không phải đọc được, không nằm trong câu chữ mà nằm trong cái nó để trống”. Có thể khẳng định đây là những công trình nghiên cứu có tính chất định hướng, gợi mở, đưa ra nhiều cách hiểu và khám phá thơ hai-cư rất thiết thực trong công tác giảng dạy. Bên cạnh đó nhiều nhà nghiên cứu cũng đưa ra những ý kiến của mình về giảng dạy thơ hai-cư, như tác giả Hoàng Hữu Bội trong cuốn “Thiết kế dạy học Ngữ Văn 10” (Nxb Giáo dục 2006) cũng đã đề cập tới vấn đề phương pháp giảng dạy một số bài thơ hai-cư theo đúng đặc trưng của nó bằng cách trả lời các câu hỏi như sau: “Bài thơ tả cảnh gì trước mắt?(Mỗi bài thơ hai-cư bao giờ cũng nói về một cảnh vật trước mắt), khoảnh khắc mà cảnh vật miêu tả? Nghệ thuật lựa chọn chi tiết, nét đặc sắc của cảnh vật được biểu hiện như thế nào?, phát hiện quý ngữ (từ chỉ mùa) ở đây là từ nào?, ý nghĩa của những từ ngữ này?, Phát hiện tứ thơ của bài thơ (Mỗi bài thơ bao giờ cũng có một tứ thơ nhất định để thể hiện một cảm xúc hoặc suy tư nhất định). Phát hiện nét thiền tông và nét văn hoá phương Đông thấm đẫm trong bài thơ ở điểm nào? Đồng thời giáo viên cần vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy truyền thống như: Diễn giảng, giảng bình với các phương pháp dạy học hiện đại như: đọc sáng tạo, tái hiện, gợi tìm. Bùi Thị Nga - tác giả của luận văn “Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản đọc thêm theo đặc trưng loại thể trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 THPT” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 5 (Trường ĐHSPTN/ 2008) cũng nhất trí về phương pháp giảng dạy một số bài thơ haicư theo đặc trưng thể loại của tác giả Hoàng Hữu Bội. Qua một số công trình nghiên cứu về thơ hai-cư có thể khẳng định: Các bài nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh rất khác nhau về cách tiếp cận thể thơ hai-cư. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào bàn về vấn đề “Dạy học thơ hai-cư theo thể loại ở trường THPT”. Vì vậy chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài trên với hi vọng giúp người đọc có những hiểu biết toàn diện về đặc trưng thể loại thơ hai-cư (Về cả nội dung và nghệ thuật) và tìm ra một phương pháp dạy học thơ hai-cư có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu đặc trưng thể loại thơ hai-cư về mặt nội dung và nghệ thuật, cách tiếp cận và khám phá văn bản thơ hai-cư vừa phù hợp với đặc trưng thể loại, vừa phù hợp với bạn đọc thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay. - Tìm ra một phương án tối ưu để dạy học thơ hai-cư cho học sinh Việt Nam ở bậc THPT. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tƣợng nghiên cứu Hoạt động dạy và học của thầy và trò trong giờ học các bài thơ hai-cư trong sách giáo khoa Ngữ văn 10. Tổ chức dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh các văn bản thơ hai-cư phù hợp với đặc điểm tiếp nhận của học sinh Việt Nam ngày nay. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Những bài thơ hai-cư của Ba-sô và Bu-son trong sách giáo khoa Ngữ Văn 10 (Bộ cơ bản và bộ nâng cao). 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1 Nghiên cứu trên bình diện lý thuyết: Về đặc trưng thể loại thơ ha-cư, về phương pháp dạy học thơ hai-cư. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 6 5.2 Nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu thực tiễn giáo viên với việc dạy thơ hai-cư và học sinh học thơ hai-cư gặp khó khăn gì? Học sinh Việt Nam hiểu biết, tiếp nhận thơ hai-cư như thế nào? 5.3 Tổ chức thực nghiệm sƣ phạm: Tiến hành thiết kế bài học. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 6.1 Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết Phương pháp tổng hợp lý luận: Sử dụng phương pháp tổng hợp lý luận nhằm đưa ra những cơ sở lý luận về thơ hai-cư, đặc trưng của thơ hai-cư, tìm hiểu đặc điểm cảm thụ của học sinh trung học phổ thông để đưa ra nội dung, phương pháp, biện pháp dạy học cụ thể về văn bản thơ hai-cư trong sách giáo khoa Ngữ văn 10. 6.2 Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn 6.2.1 Phương pháp thống kê Sử dụng phương pháp thống kê để xử lý số liệu thu thập được trong quá trình điều tra khảo sát. 6.2.2 Phương pháp điều tra khảo sát Sử dụng phương pháp này để điều tra hứng thú và khả năng cảm thụ của học sinh đối với việc học các văn bản thơ hai-cư. Qua đó nắm được thực trạng việc dạy và học thơ hai-cư đang diễn ra như thế nào ở trường phổ thông hiện nay. Từ đó nhằm đề xuất được những hướng khám phá, khai thác thơ hai-cư có hiệu quả. 6.2.3 Phương pháp thực nghiệm sư phạm Sử dụng phương pháp này trong quá trình thiết kế bài học. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề dạy học thơ hai-cư theo thể loại. Chương 2: Định hướng dạy học các bài thơ hai-cư trong sách giáo khoa Ngữ văn 10. Chương 3: Thiết kế dạy học các bài thơ hai-cư trong sách giáo khoa Ngữ văn 10. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 7 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ DẠY HỌC THƠ HAI-CƢ THEO THỂ LOẠI Ở chương này, luận văn sẽ trình bày cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài. Dựa vào các công trình nghiên cứu về thơ hai-cư của các nhà khoa học, chúng tôi sẽ trình bày về: Nguồn gốc, quá trình phát triển, đặc điểm nội dung, nghệ thuật của thơ hai-cư để làm cơ sở lý luận cho đề tài. Đồng thời chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế dạy học thơ hai-cư để làm cơ sở thực tiễn cho vấn đề dạy học thơ hai-cư theo thể loại ở trường THPT. 1.1 Cơ sở lý luận 1.1.1 Nguồn gốc và quá trình phát triển của thơ hai-cƣ 1.1.1.1 Nguồn gốc thơ hai-cƣ Hai-cư là một thể thơ độc đáo của xứ sở Phù tang. Cho nên, nói đến văn học Nhật Bản người ta không quên nói đến thơ hai-cư. Ngày nay, thơ hai-cư không còn là của riêng dân tộc Nhật Bản mà đã trở thành thể thơ của quốc tế. Thơ hai-cư chủ yếu bắt nguồn từ thể thơ đoản ca (Tanka) xuất hiện ở thế kỉ XIII. Đoản ca (Tanka) gồm 31 âm tiết (Onji): 5-7-5-7-7, chia làm hai vế: Vế đầu có ba câu 17 âm tiết (5-7-5), vế sau hai câu 14 âm tiết (7-7). Đoản ca là loại thơ xướng họa. Vế đầu có một người khởi xướng, vế sau do người khác họa theo, những người sau đó lại nối tiếp như kiểu của hai người trước, cứ thế mà kéo dài hàng trăm, hàng ngàn câu, sau này được gọi là liên ca (Renga). Liên ca (Renga) được phổ biến đầu tiên trong cung đình của các vương gia quý tộc. Nội dung thường mang tính giải trí, mua vui, trào lộng, nhiều khi dung tục tầm thường. Trong Shuishu “Thập di tập 997” có bài: “Qua rồi nửa đêm chờ nhau chi nữa cho thêm ưu phiền”. Một tiểu thư đã gửi cho người tình của mình phần đầu bài tanka với ba câu như trên với ý trách móc người yêu lỗi hẹn. Sau đó, người ấy nhận được và làm tiếp phần còn lại thành một bài tanka trọn vẹn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 8 “Muốn gặp em trong mộng nhưng rồi anh ngủ quên”. Một bài tanka được sáng tác như trên gọi là renga. Về sau, thể thơ này được nhiều thế hệ thi sĩ sáng tạo, phát triển nên được phổ biến trong các tầng lớp xã hội. Thơ renga trở thành niềm say mê đến mức được tôn thờ như một tín ngưỡng "Thiêng liêng hóa". Người ta mua các bài thơ renga từ các nhà thơ đem đến vườn chùa để cầu phúc trước khi đi chiến đấu hay sinh nở. Đến thế kỉ XVII, Matsuô Ba-sô đã cách tân nội dung và hình thức thể thơ này. Ông rứt vế đầu 17 âm tiết xây dựng thành một bài thơ độc lập mang đậm chất suy tư, trữ tình. Mới đầu Ba-sô gọi hokku hoặc haikai, về sau ghép lại thành hai-kư. Một bài thơ hai-cư chỉ có 3 câu, 17 âm tiết (Theo tiếng Nhật), do đó đòi hỏi lời thơ phải cực ngắn, ý hàm súc cô đọng, câu chữ đa nghĩa có nhiều ẩn ý bên trong. Trên thế giới cũng có nhiều thể thơ ngắn như: Tứ tuyệt (Trung Quốc), Si-giô (Triều Tiên), Ru-bai (I-ran)…nhưng hai-cư vẫn là ngắn nhất. 1.1.1.2 Quá trình phát triển của thơ hai-cƣ Nằm trên một quốc đảo xinh đẹp, thiên nhiên mĩ lệ, con người tinh tế, nền thơ ca Nhật bản được hình thành khá sớm với những vần thơ waka (Hay còn gọi là hòa ca hoặc tanka) nhỏ nhắn, cô đọng trong 31 âm tiết. Để rồi, từ 31 âm tiết này, người Nhật lại sáng tạo thêm thể thơ hai-cư vẻn vẹn chỉ gói trọn 17 âm tiết, một thể thơ ngắn nhất thế giới song lại làm chúng ta kinh ngạc vì “Nhỏ nhoi là vậy, thơ hai-cư vẫn có thể chứa đựng ba nghìn thế giới”. Thơ hai-cư có một quá trình ra đời lâu dài và phát triển mạnh mẽ. Thơ hai-cư bắt đầu được sáng tác với tư cách một thể thơ độc lập tách khỏi bài Waka từ thế kỉ XVI, được hoàn thiện và định hình dưới bàn tay của Matsuô Ba-sô vào thế kỉ XVII. Cho đến nay, thơ hai-cư đã trải qua chặng đường dài sáu thế kỉ vận động, phát triển. Thơ hai-cư đạt tới đỉnh cao gắn với tên tuổi của nhà thơ Matsuô Ba-sô. Sau Ba-sô còn có rất nhiều nhà thơ đã chọn hai-cư làm “Con đường” để bước vào trong nghệ thuật, vào trong một lối sống, vào một “Đạo” và mang những triết lí sâu sắc gọi là “Hài cú đạo” (Haikudo) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 9 hay “Haiku no michi”. Đó là các nhà thơ Buson (1716 - 1784): “Thi sĩ của mùa xuân”, Issa (1762 - 1826): “Nhà thơ của nhân tình”, Shiki (1867 - 1902): “Kẻ đại ngu”...Đối với họ sáng tác thơ hai-cư không chỉ là niềm vui mà còn là lối sống. Thơ hai-cư đến với họ bằng “Con đường”, tức cái đạo mà thơ hai-cư chứa ở trong nó. Đấy là con đường sâu thẳm trong cái bình thường giản dị nhất giữa cuộc đời như Tagore đã từng nói “Trong vội vã, ta bỏ quên những bông hoa bên giậu ven đường”. Từ Nhật Bản, thơ hai-cư làm một cuộc du hành sang trời Tây và đã được các nhà nghiên cứu, các độc giả nồng nhiệt đón nhận. Từ những năm đầu thế kỉ XIX, tại phương Tây thơ hai-cư bắt đầu được truyền bá ra nước ngoài. Thơ ca phương Tây trong những tìm kiếm và thể nghiệm của mình đã nhiều lần đi theo phong thái hai-cư. Người ta dịch thơ hai-cư từ tiếng Nhật, rồi nghiên cứu, khám phá những gì mà linh hồn thơ hai-cư chất chứa. Giới yêu thơ còn sáng tác thơ hai-cư bằng tiếng dân tộc mình như nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã viết: “Nói một cách chừng mực hơn, thơ haicư mà Ba-sô đã hoàn thiện bằng thiên tài của mình, trở nên thể thơ quốc tế trong thế kỉ XX. Bên ngoài Nhật Bản, hai-cư chẳng những được nghiên cứu rộng rãi mà còn được các nhà thơ ở nhiều xứ khác nhau sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có cả Paul Eluard của Pháp, Octavio Paz của Tây Ban Nha và George Seferis của Hi Lạp”. Từ đó, thơ hai-cư quay về lại phương Đông, đến Việt Nam. Ở Việt Nam, từ trước năm 1945 đến năm 1975, một số nhà thơ lớn như: Vũ Hoàng Chương, Hàn Mặc Tử, Phạm Văn Ký, Chế Lan Viên đã tiếp cận thơ hai-cư. Sau năm 1975, Nhật Chiêu là người có nhiều công trình nghiên cứu thơ hai-cư nhất. Tiếp sau Nhật Chiêu phải kể đến Lưu Đức Trung - là một trong những người khởi xướng dòng thơ hai-cư Việt. Ông là một trong số rất ít chuyên gia hàng đầu ở Việt Nam về văn học phương Đông (Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Lào, Campuchia). Hiện nay ông là người khởi xướng và thành lập Câu lạc bộ thơ hai-cư Việt. Đã từ rất lâu ở nước ta đã tiếp nhận thơ haicư, tìm hiểu thơ hai-cư, nhưng dùng tiếng việt để sáng tác thể thơ này thì phải đến khi thành lập Câu lạc bộ thơ hai-cư Việt của Lưu Đức Trung mới có. Ban đầu thơ hai-cư việt còn lạ lẫm bởi tâm lý chưa quen thưởng thức cái mới, cái lạ. Song, hiện nay tiếng thơ hai-cư đã gặp được nhiều người đồng cảm, nhanh chóng được cộng hưởng như tìm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 10 được tri kỷ tri âm.Tuy nhiên, so với nền thơ ca đời Đường (Trung Quốc), thơ hai-cư nói chung, thơ Ba-sô nói riêng được biết tới ở nước ta khá muộn màng. Bởi vì, văn học Nhật Bản mới đến được với chúng ta trong khoảng một thế kỉ nay (Từ những năm đầu thế kỉ XX đến bây giờ), còn việc nghiên cứu và giảng dạy nền văn học này mới hơn 50 năm, mà đặc biệt là vào những thập niên cuối thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI. Thơ hai-cư ngày nay càng trở nên gần gũi với nhiều dân tộc, tiếp tục vượt qua rào cản của ngôn ngữ, xóa bỏ mọi khoảng cách. Cho đến nay, thơ hai-cư đã lan truyền đến khoảng hơn 50 nước với 30 ngôn ngữ khác nhau gồm tiếng Anh và ngôn ngữ bản địa. Sự phổ biến của thơ hai-cư được ví von “Thời đại của hai-cư”, khi phong trào thơ hai-cư ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành loại hình văn học nghệ thuật đại chúng hiếm có trên thế giới. 1.1.2 Đặc điểm nội dung Về phương diện nội dung của thơ hai-cư , các nhà nghiên cứu văn học đã xem xét ở các yếu tố sau: * Trong cuốn “Haikư - hoa thời gian” hai nhà nghiên cứu Lê Từ Hiển và Lƣu Đức Trung đã xem xét nội dung của thơ hai-cƣ ở yếu tố: Đề tài, cảm thức thẩm mỹ [12 - 8]. Về đề tài: Đề tài thơ hai-cư ưa chuộng những sự vật nhỏ bé, đa dạng với những rung cảm chân thành, giản dị, hồn nhiên mang sắc thái rất Nhật Bản. Đề tài thơ hai-cư là thế giới tự nó trong khoảnh khắc mang tính gợi cảm. Hai-cư rất giống loại tranh thủy mặc mà người Nhật ưa chuộng. Nó là một nét vẽ bất chợt hướng về thiên nhiên bốn mùa, phản ánh vẻ đẹp và cảm xúc nội tâm của con người, thường được gọi chung là quý đề. Về cảm thức thẩm mỹ: Những cảm thức thẩm mĩ in bóng trong thơ hai-cư là: Sabi (Tịch lặng), Yugen (U huyền), Wabi (Đơn sơ), Aware (Bi cảm). * Trong cuốn “Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868” nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã xem xét nội dung của thơ hai-cƣ ở yếu tố: Quý ngữ, đề tài, cảm thức thẩm mỹ [2 - 271]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 11 Về quý ngữ (Yếu tố mùa): Các nhà thơ hai-cư hầu như lúc nào cũng đưa mùa vào thơ và các từ ngữ liên hệ đến mùa được gọi là kigo (Quý ngữ). Cách dùng kigo trở thành quy luật và hầu như các tuyển tập hai-cư đều quen sắp xếp các bài thơ theo từng mùa. Về đề tài: Đề tài mà thơ hai-cư ưa chuộng là những sự vật nhỏ nhoi như: Bụi cám, tôm cá, dế mèn…Đó là những cảnh thiên nhiên trộn lẫn với sinh hoạt thường ngày, có vẻ vô nghĩa nhưng đầy sự sống. Về cảm thức thẩm mĩ: Hai-cư là thơ ca của cảm thức thẩm mĩ và trực giác tâm linh: Sabi (Tịch), Wabi (Đà), Karumi (Khinh). * Trong hiểu biết của ngƣời làm luận văn, thơ hai-cƣ có những đặc điểm về nội dung nhƣ sau: - Thơ hai-cư hướng về vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống con người. - Thơ hai-cư mang đậm yếu tố Thiền. 1.1.2.1 Thơ hai-cƣ hƣớng về vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống con ngƣời Thơ hai-cư là thơ của thiên nhiên bốn mùa. Mỗi bài thơ chỉ ghi lại một phong cảnh với một vài sự vật cụ thể thường là những hình ảnh bình dị, quen thuộc với người Nhật Bản. Đó có thể hình ảnh âm thanh gợi liên tưởng về mùa trong năm hay những từ ngữ trực tiếp chỉ bốn mùa (Được gọi là quý ngữ). Quý ngữ rất phong phú trong thế giới hai-cư có thể là violet, ếch, hoa mơ, anh đào cho mùa xuân; đom đóm, ve, cầu vồng, những cơn mưa cho mùa hạ; lá đỏ, cỏ lau, Asagao (Triệu nhan), trăng cho mùa thu; tuyết trắng cho mùa đông....sự có mặt của quý ngữ khiến cho bài thơ có tính hàm súc, sức ám thị tinh tế - vốn là đặc trưng quan trọng của thơ hai-cư. Chính cảm thức về mùa (Quý đề) cho ta cảm nhận được sự hô ứng giữa con người với thiên nhiên, với đất trời tạo nên một nhất thể lí tưởng: Không gian - thời gian - con người. Trong mỗi bài thơ, thiên nhiên hiện lên với mọi vẻ đẹp vốn có của nó từ cái ban sơ, mộc mạc đến những gì tinh tú, kiêu sa, lộng lẫy đầy quyến rũ cũng như sắp đi vào phai tàn và gợi lên những rung cảm sâu xa trong lòng người. Bằng tài năng của mình các nhà thơ hàng đầu Nhật Bản về thơ hai-cư đã cho ra đời hàng loạt các bài thơ rực rỡ hương sắc bốn mùa. Mỗi bài thơ là một bức tranh tuyệt mỹ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 12 Ba-sô là bậc thầy về thơ hai-cư. Trong thơ ông phần nhiều miêu tả thiên nhiên, đặc biệt thường nói đến bốn mùa: Xuân - hạ - thu - đông để phản ánh tâm trạng và tư tưởng của mình. Phần lớn các bài thơ hai-cư của Ba-sô là hình ảnh thiên nhiên với niềm vắng lặng, hiu hắt, không có những niềm vui để lộ, không có những sắc màu rạng rỡ mà sâu lắng một nỗi buồn, những trải nghiệm thẳm sâu của một thiền sư - lữ nhân trên bước phiêu du. Mỗi bài thơ của Ba-sô ghi lại một mùa trong năm, được tạo ra bởi một ấn tượng khá đậm nét và chọn lựa những từ mùa (Quý ngữ) thích hợp. Qua đó khiến độc giả cảm thụ bài thơ theo cách cảm nhận riêng của mình. Trong thơ Ba-sô, mùa xuân hiện diện với sự tàn phai của những cánh hoa anh đào: “ Từ bốn phương trời xa cánh hoa đào lả tả gợn sóng hồ Bi-oa”. Mùa thu hiện diện với âm thanh hiu hắt của tiếng gió thu, tiếng mưa rơi tí tách: “Cây chuối trong gió thu tiếng mưa rơi tí tách vào chậu ta nghe tiếng đêm”. Mùa hè hiện diện với âm thanh của tiếng ve ngân lên trong một không gian hoàn toàn u tịch: “Vắng lặng u trầm thấm sâu vào đá tiếng ve ngâm”. Mùa đông hiện diện với những cánh đồng vắng vẻ, hoang lạnh: “Nằm bệnh giữa cuộc lãng du mộng hồn còn phiêu bạt những cánh đồng hoang vu”. Thơ Ba-sô thiên về tả bốn mùa thiên nhiên, còn Buson thích nói nhiều về mùa xuân. Buson viết trên 2000 bài thơ nhưng phần nhiều viết về mùa xuân nên ông được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 13 mệnh danh là “Thi sĩ mùa xuân”. Thiên nhiên mùa xuân trong thơ Buson thường mộc mạc, bình dị, hồn nhiên và tươi mát: "Gần xa đâu đây nghe tiếng thác chảy lá non tràn đầy". Buson miêu tả sức sống của mùa xuân như dòng thác đang chảy, mùa xuân đang hiển hiện trước mắt ta với lá non đang tràn đầy. Một mùa xuân đang sinh sôi nảy nở, cây cối đâm chồi nảy lộc. Thiên nhiên mùa xuân trong thơ ông luôn rạo rực, trữ tình, giàu màu sắc: “Dưới mưa xuân lất phất áo tơi và ô cùng đi”. Bài thơ hiện ra trước mắt người đọc hình ảnh mưa xuân lất phất. Dưới mưa xuân có hai người cùng đi, một mặc áo tơi, một che ô. “Áo tơi” trong bài chỉ người con trai, “Ô” chỉ người con gái. Đôi tình nhân này đang sánh vai cùng nhau đi trong mưa xuân. Đọc những vần thơ viết về mùa xuân của thi sĩ Buson chúng ta lại càng thêm yêu hơn thiên nhiên, cuộc sống và không khỏi rạo rực lòng mình. Thơ hai-cư không chỉ phản chiếu thiên nhiên bốn mùa mà còn phản chiếu biết bao điều về cuộc sống của con người. Đó là ước mơ bình dị được đi, được hòa vào thiên nhiên của thi sĩ Ba-sô: “Đi nữa bạn ơi ngắm nhìn tuyết đổ cho dầu ta rơi”. Đó còn là nỗi nhớ quê hương da diết của thi nhân trên những bước đường phiêu lãng: “Chim đỗ quyên hót ở Kinh đô mà nhớ Kinh đô”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/ 14 Trên bước đường phiêu lãng, Ba-sô đã đi qua nhiều nơi, từ những đô thị ồn ào náo nhiệt của những người thị dân... đến những cánh đồng khô cằn, những làng quê xơ xác của những người nông dân cơ cực đói nghèo, Ba-sô tận mắt nhìn thấy mọi thảm cảnh diễn ra ngay trước mắt mình. Ông ghi lại một cách lặng lẽ các sự việc vào những bài thơ hai-cư dung dị quen thuộc. Trong thơ ông có đủ hình ảnh của những kiếp người đau khổ, lầm than như: Từ những người nông dân lam lũ, em bé nghèo sớm gặp bất hạnh, những người đánh cá, những cô gái bán thân, những người lính bỏ thây nơi chiến địa, cho đến những người bạn yêu thơ yểu mệnh... Trong thơ Ba-sô thường mượn hình ảnh của thiên nhiên để nói lên số phận của con người: “Tiếng rao người bán cá hòa trong tiếng chim cu vang vang mùa hạ”. Cuộc sống nghèo khổ, người lao động phải làm việc vất vả trong thời tiết khắc nghiệt của mùa hè nóng bức. Tiếng rao của người bán cá hòa vào tiếng chim cu tạo thành điệp khúc mùa hè. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ gợi cho ta những liên tưởng gần gũi trong cuộc sống. Đó là những cảnh vật nguyên sơ, nhỏ bé, bình dị nhưng lại ẩn chứa hiện thực của cuộc sống con người. 1.1.2.2 Thơ hai-cƣ mang đậm yếu tố Thiền Thơ hai-cư có một mối nhân duyên đẹp đẽ với Thiền. Mặc dù phần lớn các thi sĩ sáng tác thơ hai-cư không xuất gia nhưng họ yêu mến và hiểu biết sâu sắc về Thiền tông. Và mặc dù trong thơ hai-cư không có những thuật ngữ Thiền, điển cố Thiền…nhưng có thể khẳng định tư tưởng Thiền tông đã thấm đẫm trong những bài thơ hai-cư. Các thi sĩ xứ sở Phù tang không chỉ thể hiện triết lí Thiền trong thơ mà còn sử dụng mĩ học Thiền vào nghệ thuật biểu đạt. Tìm hiểu về Thiền sẽ là một trong những chìa khóa để mở cánh cửa bước vào thế giới bí ẩn của thơ hai-cư. * Nguồn gốc của Thiền: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan