Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dạy học tác giả, tác phẩm thơ mới trong chương trình ngữ văn trung học phổ thông...

Tài liệu Dạy học tác giả, tác phẩm thơ mới trong chương trình ngữ văn trung học phổ thông

.DOC
150
1510
145

Mô tả:

0 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH THÁI THỊ HOÀNG HÀ DẠY HỌC TÁC GIẢ, TÁC PHẨM THƠ MỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC 1 NGHỆ AN - 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH THÁI THỊ HOÀNG HÀ DẠY HỌC TÁC GIẢ, TÁC PHẨM THƠ MỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn và Tiếng Việt Mã số: 60 14 01 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ HỒ QUANG NGHỆ AN - 2014 LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Lê Thị Hồ Quang, người đã định hướng cho tôi trong việc lựa chọn đề tài, đồng thời đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi cũng xin được chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, Đại học Vinh, đặc biệt là thầy cô trong ban chủ nhiệm khoa, các thầy cô trong tổ Phương pháp giảng dạy đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành được luận văn này. Xin được cám ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp, các em học sinh và người thân trong gia đình đã quan tâm, khích lệ, động viên tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin chân thành cám ơn! Nghệ An, tháng 10 năm 2014 Tác giả Thái Thị Hoàng Hà BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT GV: Giáo viên HS: Học sinh Nxb: Nhà xuất bản SGK: Sách giáo khoa SGV: Sách giáo viên THCS: Trung học cơ sở THPT: Trung học phổ thông PPDH: Phương pháp dạy học TN: Thực nghiệm Các chú thích tài liệu trích dẫn: Số thứ tự tài liệu đứng trước, số trang đứng sau. Ví dụ: [23,13] nghĩa là số thứ tự của tài liệu trong mục Tài liệu tham khảo là 23, nhận định trích dẫn nằm ở trang 13 của tài liệu này. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1. Lý do chọn đề tài...................................................................................... 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................... 3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu............................................................ 4. Phạm vi tài liệu khảo sát......................................................................... 5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................ 6. Đóng góp của luận văn............................................................................ 7. Cấu trúc của luận văn............................................................................. Chương 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.................................................. 1.1. Giới thuyết về Thơ mới........................................................................ 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT......................................... 1.2.1. Cơ sở lý luận................................................................................... 1.2.2. Cơ sở thực tiễn................................................................................ Chương 2. TỔ CHỨC DẠY HỌC TÁC GIẢ, TÁC PHẨM THƠ MỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THPT............................................... 2.1. Dạy học tác giả Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT ..................................................................................................................... 2.1.1. Một số định hướng dạy học tác giả Thơ mới................................. 2.1.2. Một số phương pháp, biện pháp dạy học tác giả Thơ mới............. 2.1.3. Một số hoạt động cần chú ý trong giờ dạy học tác giả Thơ mới .................................................................................................................. 2.2. Dạy học tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT........................................................................................................... 2.2.1. Định hướng dạy học tác phẩm Thơ mới......................................... 1 2.2.2. Một số phương pháp, biện pháp dạy học tác phẩm Thơ mới .................................................................................................................. 2.2.3. Một số hoạt động cần chú ý trong giờ dạy học tác phẩm Thơ mới .................................................................................................................. Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM......................................................... 3.1. Mục đích, yêu cầu của hoạt động thực nghiệm sư phạm................ 3.1.1. Mục đích thực nghiệm.................................................................... 3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm...................................................................... 3.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian thực nghiệm và quy trình thực nghiệm......................................................................................................... 3.2.1. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm................................................. 3.2.2. Thời gian thực nghiệm................................................................... 3.2.3. Quy trình thực nghiệm.................................................................... 3.3. Thiết kế Giáo án thực nghiệm............................................................ 3.3.1. Giáo án thứ nhất: Xuân Diệu (SGK 11, tập 2, nâng cao)............... 3.3.2. Giáo án thứ hai : Vội vàng - Xuân Diệu (SGK 11, tập 2)............. 3.3.3. Giáo án thứ ba: Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử (SGK 11, tập 2) .................................................................................................................. 3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm......................................................... 3.4.1 Tiêu chuẩn đánh giá...................................................................... 3.4.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm về phía giáo viên......................... 3.4.3. Đánh giá thực nghiệm từ phía học sinh........................................ 3.4.4. Đánh giá chung............................................................................. 3.5. Kết luận thực nghiệm....................................................................... KẾT LUẬN.................................................................................................. TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... PHỤ LỤC 1................................................................................................... PHỤ LỤC 2................................................................................................... PHỤ LỤC 3................................................................................................... 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Thơ trữ tình là một trong ba phương thức phản ánh hiện thực cơ bản nhất và thường là hình thái văn học đầu tiên trong các nền văn học dân tộc. Do đặc trưng của thể loại, thơ trữ tình có khả năng phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu, lại thường có dung lượng nhỏ bé, ngắn gọn, dễ cảm, dễ thuộc. Thơ đòi hỏi sự tiếp nhận dựa trên những tri thức cụ thể, những kinh nghiệm và cả những khám phá mang tính trực giác. Dạy học văn chương, đặc biệt với thể loại thơ, là một hoạt động đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của giáo viên và học sinh. 1.2. Thơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Ngay khi vừa ra đời, nó đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc; bên cạnh đó Thơ mới cũng là hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả qua từng thời kỳ lịch sử xã hội. Trải qua một lịch sử đầy thăng trầm, Thơ mới đã được thống nhất nhìn nhận là cuộc cách mạng thi ca lớn trong lịch sử văn học Việt Nam. Thơ mới là sản phẩm của văn hóa dân tộc, kết quả của quá trình nền văn hóa Việt Nam truyền thống phải duy tân để vượt lên mình, khẳng định mình trong cuộc tiếp xúc Đông Tây, cuộc Âu hóa có tính đặc thù của thế giới hiện đại. 1.3. Trong phần Đọc văn của chương trình Ngữ văn THPT hiện hành, Thơ mới có một vị trí, ý nghĩa khá quan trọng. Song việc dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới cũng đang đặt ra không ít thách thức với cả giáo viên lẫn học sinh. Do vậy, việc dạy đọc - hiểu loại văn bản này rất xứng đáng có được một sự đầu tư, tìm hiểu kĩ lưỡng hơn. Những tìm tòi, nghiên cứu về phương pháp dạy đọc - hiểu tác giả, tác phẩm Thơ mới nếu thành công, sẽ góp phần thiết 2 thực vào việc đổi mới phương pháp và nâng cao hiệu quả dạy học văn trong nhà trường phổ thông ở nước ta hiện nay. 1.4. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay chưa có công trình nào tập trung đi sâu tìm hiểu về vấn đề dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới. Vì vậy, chúng tôi quyết định chọn Dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT làm đề tài nghiên cứu của luận văn. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề phương pháp dạy học văn nói chung và dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới nói riêng đã được nhiều nhà giáo, cũng như các nhà nghiên cứu khác quan tâm. Có khá nhiều công trình nghiên cứu đã được các tác giả đề cập đến vấn đề này. Chúng tôi xin điểm qua những công trình nghiên cứu chủ yếu. Về các công trình, bài viết bàn về vấn đề dạy học thơ trữ tình trong nhà trường THPT. Trước hết, cần kể đến công trình Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (1971) của nhóm tác giả Trần Thanh Đạm, Đàm Gia Cẩn, Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai. Công trình này đã giới thiệu một số kiến thức cơ bản nhất về loại thể văn học chủ yếu trong chương trình văn học ở bậc THPT. Đồng thời các tác giả cũng đề xuất các phương pháp, biện pháp dạy học tác phẩm văn học theo đặc trưng loại thể khá cụ thể. Trong dạy học thơ trữ tình, các tác giả lưu ý, cần chú ý đến đặc trưng của thơ, đặc biệt là mạch cảm xúc chủ đạo, hình tượng nhân vật trữ tình, ngôn ngữ biểu cảm và giàu nhạc tính: ‘‘Thơ vừa có hình vừa có nhạc. Hình sinh ra từ ý nghĩa, nhạc sinh ra từ âm điệu của ngôn ngữ. Hình thì lắng đọng, nhạc thì vang ngân. Giảng bất cứ bài thơ nào là giảng hai phương diện ấy của hình tượng thơ, từ đó mà đón hết tình ý và lĩnh hội hết tác dụng giáo dưỡng và giáo dục của thơ’’ [86-87, 25]. Có thể nói đây là công trình đầu tiên đi sâu nghiên cứu về loại thể văn học và vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể. 3 Công trình thứ hai là Phương pháp dạy học văn (1987) của nhóm tác giả Phan Trọng Luận (chủ biên), Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt. Công trình này có vai trò mở đường cho các công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học văn. Có thể nói đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về phương pháp dạy học văn. Tuy nhiên, phần phương pháp dạy học văn bản thơ trữ tình tác giả chưa đề cập đến một cách cụ thể. Hơn nữa cuốn sách ra đời cách đây khá lâu, chương trình phổ thông đã trải qua nhiều lần cải cách, chỉnh lí, do đó phần nào nó chưa bám sát được thực tế chương trình. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương trong bài viết Giảng dạy thơ trữ tình hiện đại trong nhà trường đã chỉ ra sự khác biệt giữa thơ và các thể loại khác. Nhà nghiên cứu này cho rằng: ‘‘Vì thơ ngắn hơn thể loại khác (tự sự, kịch) nên các tác giả có thể thể hiện cảm xúc về con người, cuộc sống, thiên nhiên… tập trung hơn thông qua hình tượng thơ, đặc biệt thông qua ngôn ngữ nghệ thuật, qua dòng thơ, qua vần điệu, tiết tấu…[42]. Tác giả cũng đưa ra quy trình hướng dẫn, phân tích thơ trong nhà trường theo các bước sau: - Bước 1: Phân tích tiêu đề bài thơ và giọng điệu chủ đạo của tác phẩm - Bước 2: Đọc và quan sát bước đầu để nắm chắc bài thơ - Bước 3: Xác định chủ đề bài thơ - Bước 4: xác định hình tượng thơ và âm điệu chủ đạo - Bước 5: Nghiên cứu các cấp độ hình tượng của bài thơ [42] Năm 2006, tác giả Nguyễn Thị Dư Khánh trong cuốn Thi pháp học và vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường đã chỉ ra một số yếu tố thi pháp thơ và gợi dẫn phân tích văn bản thơ từ góc nhìn thi pháp học: ‘‘ Nếu nói văn học phản ánh hiện thực thì hiện thực trong thơ trữ tình chủ yếu là hiện thực tâm hồn của chính nhà thơ, người tạo ra văn bản. Đây là sự khác biệt căn bản giữa phương thức tự sự và trữ tình: tự sự chủ yếu là kể chuyện ngoài đời (khách thể), trữ tình chủ yếu để bày tỏ, bộc lộ cảm xúc của chủ thể. (…). Đối với thơ trữ tình, một thể loại mang 4 tính chủ quan đậm nét, giàu nhạc tính, và có sự tham dự đáng kể của yếu tố vô thức, thì vấn đề cảm thụ, vấn đề đọc, nhất là đọc thành tiếng phải được quan tâm trước nhất trong dạy và học văn. Quá trình ấy cũng phù hợp với quy luật nhận thức có tính biện chứng trong nhận thức nói chung [45,99]. Về các công trình, bài viết bàn về vấn đề phương pháp dạy học Thơ mới trong nhà trường THPT. Trước tiên, phải kể đến bài viết Văn chương lãng mạn và việc dạy học một số tác phẩm văn chương lãng mạn trong SKG môn Văn cải cách ở trường THPT của tác giả Hoàng Thị Nghĩa (đăng trong Kỉ yếu hội thảo khoa học về SGK Tiếng Việt và văn học THPT cải cách, khoa Ngữ văn, Đại học Cần Thơ, năm 1992). Ở bài viết này tác giả đã đề xuất một số định hướng cách dạy các tác phẩm Thơ mới trong chương trình như Vội vàng của Xuân Diệu, Tống biệt hành của Thâm Tâm… Tiếp đó, bài viết Thơ mới trong chương trình môn văn - Phổ thông trung học của tác giả Tào Văn Ân đã đề cập đến những bài thơ mới trong chương trình Ngữ văn lớp 11 (SGK Cơ bản và Nâng cao). Tuy nhiên ở đây tác giả chủ yếu bàn về phương diện nội dung của Thơ mới, chẳng hạn về cái mới của thơ mới và nỗi buồn, cô đơn của các bài thơ mới trong chương trình môn Văn phổ thông trung học. Bài viết này không đề cập trực tiếp đến vấn đề phương pháp dạy đọc - hiểu tác giả, tác phẩm Thơ mới. Cuốn Thơ mới trong trường phổ thông (2008) của tác giả Phan Huy Dũng, Lê Huy Bắc là một công trình nghiên cứu công phu và hữu ích về vấn đề giảng dạy các tác phẩm Thơ mới trong nhà trường. Trong cuốn sách này, các tác giả biên soạn theo chương trình tích hợp của sách giáo khoa hiện hành, bao gồm các tác phẩm thơ mới được tuyển chọn trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Tuy nhiên cuốn sách chưa đề xuất các phương pháp, biện pháp cụ thể trong dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới. Còn có thể kể đến sáng kiến kinh nghiệm Dạy tốt thơ lãng mạn 19321945 ở lớp 11 (2009) của cô giáo Bùi Thị Dung. Tác giả này đã có những lưu 5 ý thiết thực khi dạy học Thơ mới trong chương trình THPT. Đó là phải xuất phát từ đặc trưng thể loại và tính riêng biệt độc đáo của các bài thơ, cùng với đặc điểm tiếp nhận của học sinh để có những biện pháp cụ thể nhằm vừa phân tích tác phẩm một cách đúng hướng vừa phát huy tính năng động tích cực học sinh. Tác giả viết: “Muốn dạy học tốt Thơ mới giáo viên nên có những lưu ý sau: - Khi dạy thơ lãng mạn cũng nên cố gắng trang bị thêm cho học sinh những kiến thức cơ bản về đặc trưng của thể loại để các em hiểu được nguyên tắc tổ chức của hình tượng và ngôn từ thơ. - Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh những cách hiểu khác nhau xung quanh bài thơ nhưng sau đó chỉ chọn một cách hiểu phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh để triển khai. - Giáo viên thiết kế bài dạy theo hướng mở để gợi sự suy luận của học sinh, phát huy tính độc lập sáng tạo trong tiếp nhận nhưng không để học sinh thoát ly hình tượng [20]. Bài viết Thơ mới lãng mạn và nhà trường phổ thông Việt Nam (2012) của tác giả Đỗ Ngọc Thống cũng định hướng đọc hiểu văn bản Thơ mới theo thể loại: “Thơ mới có một phong cách riêng, có tư tưởng và những đặc trưng thi pháp nổi bật, vì thế nó cần có một cách đọc, cách giải mã phù hợp. Dạy đọc hiểu văn bản Thơ mới trong nhà trường chính là giúp HS biết cách giả mã, biết cách đọc đúng Thơ mới thông qua bài thơ cụ thể, tiêu biểu, để từ đó người đọc biết tự đọc, tự khám phá các bài Thơ mới khác” [65]. Ngoài ra, có thể kể đến các sách tham khảo, hướng dẫn dạy học văn như: Thiết kế bài giảng Ngữ văn 11 của Nguyễn Văn Đường; Để học tốt; Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường, Kỹ năng đọc hiểu văn bản Ngữ văn của Nguyễn Kim Phong v.v. Tuy nhiên, tất cả những công trình này đều mới chỉ dừng lại ở việc khám phá, phân tích một tác phẩm cụ thể chứ chưa đưa ra được phương pháp chung nhất cho việc dạy đọc hiểu tác giả , tác phẩm Thơ mới trong nhà trường phổ thông hiện nay. 6 Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo bổ ích cho rất nhiều giáo viên, học sinh. Dù chưa trực tiếp bàn sâu vào vấn đề dạy đọc hiểu tác giả, tác phẩm Thơ mới trong chương trình THPT nhưng những công trình này đã đem lại những gợi ý vô cùng quý giá giúp chúng tôi thực hiện đề tài của mình. 3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là vấn đề dạy đọc hiểu tác giả, tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu việc dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT hiện nay. - Đề xuất những định hướng có tính khả thi về việc dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT theo sự đổi mới phương pháp dạy học hiện đại. - Thiết kế giáo án thử nghiệm và thực nghiệm sư phạm trên một số đơn vị trường THPT. 4. Phạm vi tài liệu khảo sát Phạm vi tài liệu khảo sát của luận văn là toàn bộ các văn bản về tác giả và tác phẩm Thơ mới trong SGK Ngữ Văn THPT, cụ thể là trong SGK 11 chương trình Cơ bản và nâng cao. Địa bàn khảo sát là ba trường phổ thông: THPT Quang Trung, THPT Nguyễn Xuân Ôn, THPT Diễn Châu 2. 5. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, luận văn được tiến hành với các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết - Phương pháp thống kê - phân loại - Phương pháp phân tích - tổng hợp 7 - Phương pháp so sánh - đối chiếu 5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp điều tra - phỏng vấn - Phương pháp thực nghiệm sư phạm 6. Đóng góp của luận văn 6.1. Về mặt lí luận Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lí thuyết về dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT. Luận văn đề xuất một số định hướng cụ thể và thiết thực trong dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới trong trường trung học phổ thông. 6.2. Về mặt thực tiễn Luận văn vận dụng những vấn đề lí thuyết trên vào việc thiết kế một số bài thơ mới tiêu biểu, tiến hành phỏng vấn điều tra thực tế dạy học Thơ mới trong trường THPT. Từ đó luận văn góp phần thiết thực để hạn chế những bất cập và nâng cao chất lượng dạy học Thơ mới trong nhà trường phổ thông hiện nay. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở khoa học của việc dạy đọc hiểu tác giả, tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT Chương 2: Tổ chức dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 8 Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Giới thuyết về Thơ mới Thơ mới trước hết là tên gọi của một phong trào thơ Việt Nam hiện đại xuất hiện vào đầu thế kỉ XX. Thơ mới là một thuật ngữ mang tính quy ước. Phan Khôi là người đầu tiên tạm dùng từ thơ mới để chỉ loại thơ mà ông muốn đề xướng với mục đích “đem ý thật có trong tâm khảm tả ra bằng những câu có vần mà không phải bó buộc với những niêm luật gì hết”. Loại thơ mới này dĩ nhiên là đối lập và khác biệt với thơ cũ - một khái niệm cũng lần đầu tiên xuất hiện theo logic của tư duy phân loại, dùng để chỉ lối thơ được viết theo nhãn quan cổ điển và hình thức luật Đường khuôn sáo trước đó. Với tư cách một phong trào thơ hiện đại, Thơ mới hình thành từ 1932 và phát triển mạnh mẽ đến Cách mạng tháng Tám 1945. Chỉ trong hơn mười năm tồn tại, nó đã hình thành nên một đội ngũ sáng tác đông đảo, với nhiều phong cách sáng tạo độc đáo và một số lượng tác phẩm đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm đạt đến đỉnh cao chất lượng, xứng đáng là mẫu mực thi ca của một thời. Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam, đã khẳng định: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” [62,54]. Những mầm mống của Thơ mới đã manh nha trong các sáng tác theo xu hướng cảm thương chủ nghĩa của Tản Đà, Đông Hồ, Tương Phố..., trước khi 9 Tình già của Phan Khôi - tác phẩm được xem như bài Thơ mới đầu tiên công bố trên báo Phụ nữ tân văn (số 122, 10/3/1932). Nhưng phải đợi đến sự xuất hiện của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp..., đặc biệt là những sáng tác của Thế Lữ (khoảng từ đầu năm 1933 đến cuối 1934), phong trào này mới thực sự khẳng định vị trí của mình trong đời sống văn học bấy giờ. Vào giữa những năm 30 của thế kỉ XX, Thơ mới tiếp tục phát triển đến đỉnh cao với những đại diện xuất sắc như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính và nhiều tác giả khác như Tế Hanh, Yến Lan, Nguyễn Đình Thư, Hồ Dzếnh, Phạm Hầu... Vào thời kì cuối (1940-1945), phong trào thơ này vẫn mở ra những hướng tìm tòi đáng chú ý: đi vào tâm linh, tôn giáo như Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên; kết hợp tính nhạc với những “chất liệu” của đời sống đô thị hiện đại trong thơ Vũ Hoàng Chương; xu hướng cách tân hình thức của các nhóm thơ như Xuân Thu nhã tập, Dạ đài... Trong hơn mười năm tồn tại, Thơ mới đã có những góp hết sức tích cực trên nhiều phương diện cho nền thơ Việt Nam hiện đại. Không chỉ dừng lại với ý nghĩa lịch sử của một phong trào sáng tác, với những cách tân trên nhiều phương diện thi hứng, thi pháp, Thơ mới đã tạo ra một loại hình thơ mới, khác hẳn với loại hình thơ trung đại trước đó, và điều này đã khiến nó có một ảnh hưởng hết sức to lớn tới các thời kì phát triển tiếp theo của nền thơ trữ tình Việt Nam. Có thể khẳng định, chính phong trào này đã tạo một bước bứt phá nghệ thuật mạnh mẽ theo hướng hiện đại hoá, đưa thơ Việt Nam hoà nhập cùng nền thơ thế giới. Với sự thức tỉnh ý thức cá nhân, Thơ mới đã góp phần làm phong phú tâm hồn con người, mở ra những thế giới mênh mông của ý thức và vô thức và muôn vàn cung bậc đầy hương sắc của cảm xúc trữ tình, đem lại sinh khí mới cho thơ ca Việt Nam. Xuất hiện vào đầu thế kỉ XX, trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam phong kiến thuộc địa, Thơ mới chịu tác động rõ nét của nền thơ hiện đại phương Tây, đặc biệt là thơ ca hiện đại Pháp. Vào thời điểm này, ở 10 phương Tây, trào lưu thơ lãng mạn đã đi qua, thơ tượng trưng cũng đã bắt đầu lắng xuống và thơ siêu thực đang là hướng tìm kiếm, thử nghiệm mới. Nhiều nhà phê bình, nghiên cứu (Hoài Thanh, Phan Cự Đệ, Đỗ Đức Hiểu, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức...) đã chỉ ra những dấu ấn ảnh hưởng đậm nét của thơ Pháp vào Thơ mới khá cụ thể, nhất là dấu ấn của V. Hugo, Lamartine, Ch. Baudelaire, P. Verlaine... trong sáng tác của Phạm Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Bích Khê, Vũ Hoàng Chương v.v. (Tất nhiên, hình thành và phát triển trong cái nôi văn hoá chung của khu vực, phong trào thơ này cũng thu nhận những ảnh hưởng to lớn của nền thơ vĩ đại Trung Hoa với những đỉnh cao như thơ Đường, thơ Tống... Điều này đã dẫn đến sự đa dạng trong các khuynh hướng tìm kiếm, sáng tạo nghệ thuật của Thơ mới). Tóm lại, nói tới Thơ mới trước hết là nói tới một phong trào thơ Việt Nam hiện đại xuất hiện đầu thế kỉ XX. Đồng thời, nói tới thơ mới, còn có nghĩa là nói tới một loại hình thơ hiện đại đã được xác lập từ trong phong trào Thơ mới 1932 - 1945 và đến nay vẫn còn để lại những tác động, ảnh hưởng rõ nét tới sự phát triển của thơ trữ tình Việt Nam. 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc dạy học tác giả, tác phẩm Thơ mới trong chương trình Ngữ văn THPT 1.2.1. Cơ sở lý luận 1.2.1.1. Những thành tựu trong nghiên cứu Thơ mới Với hơn 80 tuổi đời, Thơ mới có một lịch sử tiếp nhận khá phong phú. Hầu như tất cả các khía cạnh của Thơ mới đều được các nhà nghiên cứu đề cập với số lượng công trình hết sức đồ sộ. Tuy nhiên, Thơ mới sau khi ra đời nó cũng có những bước thăng trầm của nó. Trong khoảng 30 năm (1945-1975), những đóng góp của Thơ mới đã không được đánh giá đúng mức. Trong bối cảnh cả nước tập trung chiến đấu giành độc lập, có những ý kiến cho rằng Thơ mới buồn, thậm chí ủy mị, không lợi cho tâm hồn các thế hệ thanh niên lên đường cứu nước. Có ý kiến 11 cho rằng Thơ mới trốn tránh thực tế vì thế nó mang yếu tố tiêu cực và Thơ mới chỉ là sản phẩm của giai cấp trí thức tiểu tư sản non kém, mơ mộng. Vì vậy việc nghiên cứu Thơ mới giai đoạn này còn ít, sự đánh giá chưa được thỏa đáng, nhất là về nội dung. Là người viết Thi nhân Việt Nam nhưng trong tập Nói chuyện thơ kháng chiến (1951), Hoài Thanh đã có nhận định về thơ lãng mạn trước Cách mạng: “Thấy buồn, thấy cô đơn, con người trong thơ cũ (chỉ Thơ mới trước Cách mạng) tìm đường đi trốn. Nhưng trốn đi đâu cũng không hết buồn, tủi và bơ vơ, cũng như trong thực tế trốn đi đâu cũng không thoát khỏi cái ách nặng nề của thực dân. Những vần buồn tủi bơ vơ ấy là những vần thơ có tội: nó xui con người ta buông tay cúi đầu (do đó làm yếu sức ta và làm lợi cho giặc. Sự thật khách quan là thế”. Vũ Đức Phúc khi viết Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại (1930 - 1945) đã phê phán: “Nhưng tại sao Thơ mới thường “buồn”? Vì nhiều lẽ. Là vì anh nghèo khó nên anh không thể thực hiện được cái lí tưởng tư sản của mình, cái lí tưởng đầy những vàng son châu báu, lụa là, hoa bướm, rượu - như hình ảnh của thơ các anh. Thơ tình của những nhà Thơ mới dày dạn với cuộc đời, phần nhiều là việc thi vị hóa những mối tình thoảng qua, ngắn ngủi, nói thẳng là cái tình vụng trộm kiểu tay ba, tình yêu giang hồ, việc làm sa ngã một thời gian mấy cô gái lương thiện, nghèo nàn, ngây thơ. Nhưng thường thường anh không có điều kiện để yêu và hưởng lạc nên hay ước mơ. Do đó thơ anh thường thể hiện những giấc mơ về cõi tiên, về quá khứ, ở đó có đủ rượu, gái đẹp, hoa, yến tiệc, quần áo đẹp như tiên, như cuộc đời của Đường Minh Hoàng, Trụ Vương, Dương Qúy Phi, Đát Kỷ. Nhưng mơ mãi sao được nên buồn... Bài thơ mới nào khá nhất cũng có yếu tố xấu về tư tưởng” [55,122]. Bị chi phối bởi nhãn quan chính trị, các ý kiến đó cơ bản nhìn nội dung Thơ mới, cái tôi trữ tình cá nhân trong Thơ mới ở góc độ phê phán. Khi đã bị 12 kết án về tư tưởng như thế thì Thơ mới khó lòng trở thành đối tượng khoa học được quan tâm nghiên cứu. Sau 1975, đặc biệt sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), dưới cái nhìn đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, Thơ mới cũng được quan tâm, đánh giá một cách khách quan và khoa học hơn. Cùng với nhiều hội thảo cấp quốc gia, các công trình, chuyên luận, các luận án, luận văn khoa học… nghiên cứu về Thơ mới với những nhận thức, đánh giá mới, đầy đặn và sâu sắc, liên tục xuất hiện. Xin dẫn ra đây một số công trình tiêu biểu: Con mắt thơ (Đỗ Lai Thúy); Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám 1945 (Lí Hoài Thu); Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kì trước 1945 (Lê Quang Hưng); Nguyễn Bính, thi sĩ của đồng quê (Hà Minh Đức); Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932-1945 (Lê Tiến Dũng); Giọng điệu trong thơ trữ tình (Nguyễn Đăng Điệp); Thơ mới, bình minh thơ Việt Nam hiện đại (Nguyễn Quốc Tuý); Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử (Chu Văn Sơn); Ba đỉnh cao Thơ mới: Xuân Diệu Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử (Chu Văn Sơn); Thi pháp thơ Huy Cận (Trần Khánh Thành); Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên (Hồ Thế Hà); Nguyễn Bính, hành trình sáng tạo thi ca (Đoàn Đức Phương), Kết cấu thơ trữ tình (nhìn từ góc độ loại hình) (Phan Huy Dũng); Thơ tình Xuân Diệu (Lưu Khánh Thơ); v.v. Đây là những chuyên luận, luận án nghiên cứu sâu về nhiều vấn đề nội dung, hình thức và phong cách nghệ thuật Thơ mới. Còn có thể kể đến rất nhiều các công trình - tuyển tập, tập hợp nghiên cứu về các tác giả Thơ mới, chẳng hạn: Xuân Diệu, về tác gia và tác phẩm (Nhóm tác giả), Nguyễn Bính, về tác gia và tác phẩm (nhóm tác giả), Tế Hanh, về tác gia và tác phẩm (nhóm tác giả), Hàn Mặc Tử, về tác gia và tác phẩm (nhóm tác giả), Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định (Nguyễn Toàn Thắng), Hàn Mặc Tử, tác phẩm phê bình và tưởng niệm (Phan Cự Đệ); Thơ mới lãng mạn Việt Nam
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất