Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngoại ngữ Anh ngữ phổ thông Đáp án translation 1,2 và 3....

Tài liệu Đáp án translation 1,2 và 3.

.PDF
80
18144
115

Mô tả:

Đáp án translation 1,2 và 3.
Teachers’ Guide The mediocre teacher tells The good teacher explains The superior teacher demonstrates The great teacher inspires William Arthur Ward (For questions and comments, please contact Phan Hien Giang at 8517244 or [email protected]) Unit 1. Task 1. LàM CHO TRƯờNG ĐạI HọC THựC Sự ĐEM LạI HIệU QUả 1. Trường đại học là nơi ta gửi gắm bao hi vọng, và cũng là một sự đầu tư đầy rủi ro cho tất cả chúng ta. Dù theo học chương trình trung cấp, đại học hay cao học, dù chương trình kéo dài hai năm hay tám năm, thì tất cả chúng ta dành thời gian đi học đều nhằm tự khẳng định bản thân và có được một tấm vé vào đời. Chúng ta đến trường với một mong ước thầm kín về những điều chúng ta sẽ học hỏi được. Chúng ta mong muốn sẽ được xã hội chấp nhận, tôn trọng và sử dụng. Chúng ta cũng hi vọng rằng việc học tập sẽ mở ra cho chúng ta những giải đáp kỳ diệu, giúp chúng ta thành công chắc chắn khi vào đời. Khi hoàn thành xong khoá học, chúng ta hi vọng rằng mọi sự đều trở nên rõ ràng; chúng ta sẽ thông minh sáng láng, và mọi kiến thức đều rộng mở trước mắt chúng ta. 2. Tôi đã từng tư vấn cho không biết bao nhiêu người - tất cả đều đã hi vọng vào điều kỳ diệu ấy, và nhiều người trong số họ đã thất vọng khi điều họ mong đợi chẳng bao giờ xảy ra. Nhiều năm sau họ mới nhận thấy rằng quá trình kỳ diệu ấy đơn giản là đã không trở thành hiện thực. 3. Tất cả chúng ta đều đã quen với việc thụ động ngồi chờ sự việc xảy đến với mình, chứ không biết chủ động đạt được những điều mình muốn. Chúng ta đã được học rằng nếu làm hết các bài tập thầy giao thì sẽ học giỏi, hay chí ít thì cũng đạt mức trung bình. Chúng ta đã được học rằng cần phải xem thầy giáo yêu cầu điều gì, thực hiện yêu cầu đó, và sau đó thì đợi kết quả. Sau khi đã học hết các môn, chúng ta sẽ được lên lớp, chẳng hạn từ năm thứ nhất lên năm thứ hai. Nhưng thực sự chúng ta đã học được gì? Chỉ là sự phụ thuộc vào một hệ thống cứng nhắc! Chúng ta chỉ học được một điều là ai trả lời đúng nhiều câu hỏi nhất thì được coi là người giỏi nhất lớp. 4. Nhưng thực tế cuộc sống lại hoàn toàn khác. Vậy mà chẳng mấy ai trong chúng ta nhận ra điều đó. Dù chúng ta 10 tuổi, 25 tuổi hay 44 tuổi thì chúng ta vẫn chỉ là một học sinh thụ động như lúc mới 14 tuổi, tiếp tục mang quan hệ thầy trò áp dụng vào quan hệ công việc. Và khi đó chúng ta mới nhận ra rằng tuy học lịch sử hay nghệ thuật hay gì đi nữa có thú vị thật đấy, nhưng bản thân điều đó chẳng đem lại gì nhiều nhặn - như những kinh nghiệm mới, những quan hệ mới, hay việc làm mới. 5. Chúng ta thất bại phần nhiều là do chúng ta đã sử dụng trường học sai mục đích. Vì thế đã đến lúc chúng ta cần điều chỉnh lại quan niệm của mình để có thể tiếp cận trường học theo cách tích cực, hiệu quả và chủ động giống như những người thành đạt tiếp cận cuộc sống. 6. Trường học có thể biến tất cả ước mơ của ta thành hiện thực. Đó là nơi chúng ta học tập, nơi mở ra những chân trời mới, nơi để ta tự khám phá bản thân, khám phá mối quan hệ với những người xung quanh, là nơi đặt ra mục tiêu và chủ động đạt được những mục tiêu đó. Tóm lại, trường học là nơi ta phát triển những kỹ năng cần thiết, những kỹ năng đó sẽ giúp ta không chỉ trong những năm ngồi trên ghế nhà trường mà còn mãi sau này khi đã trưởng thành; những kỹ năng ấy còn quý giá hơn tấm bằng tốt nghiệp, giúp chúng ta chuẩn bị hành trang khi vào đời. 7. Vì vậy, đừng quan niệm trường đại học chỉ là một cấp học khó hơn lớp 12, mà hãy coi đó như trường đời. Hãy đứng dậy và thoát ra khỏi cái vỏ ốc ngột ngạt đang kìm hãm những khả năng tiềm ẩn của bạn. Hãy ghi nhớ rằng càng ngồi lâu thì sức ì càng lớn. Thái độ “học sinh ngoan” đầy thụ động chắc chắn sẽ làm bạn mất đi cơ hội để trở thành một con người nhiệt huyết, năng động, sáng tạo và có quan hệ rộng rãi với những người xung quanh. Đừng chùn bước, hãy cố gắng thêm một chút. Nếu bạn chỉ thực hiện những yêu cầu thầy giáo giao cho thì đó sẽ là sự hiểu lầm đáng tiếc nhất về mục đính của trường đại học! Unit 1. Task 2 1. Những phụ nữ nông thôn này phải đầu tắt mặt tối, một nắng hai sương. 2. Chúc bạn thượng lộ bình an. 3. Cô ấy đẹp không bút nào tả xiết. 4. Hãy biết sử dụng thời gian của bạn cho có ích/Thời gian là vàng là bạc. 5. Qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai. 6. ở đây bạn sẽ thấy thoải mái như ở nhà/Đây là ngôi nhà thứ hai của bạn. 7. Nhiều người chết dưới tay Lưu Linh hơn dưới tay Hà Bá. 8. Anh ấy nói với tôi cứ như nói với người dưng nước lã. 9. Tay trợ lý mới của tôi rất được việc. 10. Khác với các nhà quản lý, người lãnh đạo cực chẳng đã (bất dắc dĩ) mới phải dùng tới quyền lực. Unit 1. Task 4 IMPROVING EDUCATION IN A TRANSFORMING COUNTRY 1. With 91% of children between the ages of 5 and 10 enrolled in school and 88% of the working age population reported to be literate, Vietnam has an impressive educational record. As Vietnam enters the new millennium, however, competition from its East Asian neighbours will pose important new challenges for the country’s system of education and training. 2 2. The government of Vietnam has set ambitious targets for increasing enrolments in educational and training institutions, but it also faces crucial challenges in implementing policies that will ensure that the expanded system provides the knowledge and skills demanded by the future society. 3. The key challenge for educators in Vietnam is to ensure that the system will be responsive to the emerging demands of a growing market economy. Expansion and modernisation of the system are important elements of the government’s strategy to sustain rapid economic growth and alleviate poverty. 4. Stated government policy objectives include the achievement of universal primary education by the year 2005, and universal lower secondary education by 2010. Tertiary enrolment, which comprised 450 000 in the year 2000, is expected to increase by 30% at the end of the decade. 5. Achieving these objectives will require changes in both the supply of and the demand for education services. On the supply side, improvements in quality are needed to attract more people and achieve higher enrolments. Critical improvements in quality will require improved teacher qualifications and salaries, longer school hours, and expanded access to teaching facilities and materials. 6. On the demand side, people need to see that the returns to schooling will be sufficient to compensate them for their investment costs - both direct and indirect. In fact, the demand for education services is on the increase in recent years. This is reflected in the mushrooming of numerous new educational modes and institutions such as people-founded schools, semipublic schools, or open universities. Unit 2. Task 1. Điều quan trọng nhất trong vấn đề bảo vệ môi trường 1. Khi một phi hành gia người Mỹ nhìn thấy Trái Đất qua cửa kính con tàu vũ trụ của mình, anh đã phải thốt lên: “Nó quả là to lớn và đẹp đẽ vô cùng.” Nhờ được quan sát Trái Đất từ vũ trụ mà anh đã cảm nhận được một cách sâu sắc về những của cải vô giá mà tạo hoá đã ban cho hành tinh của chúng ta . Bầu khi quyển của Trái Đất có chứa ôxi để muôn loài có thể hít thở được. Trái Đất còn có nước ngọt và nước mặn cần thiết cho sự sinh tồn của con người, động vật, chim muông, tôm cá và cây cối. Trái Đất còn có nhiều loại đất để các cây lương thực giàu chất dinh dưỡng có thể mọc. Trái Đất quay xung quanh một mặt trời, và mặt trời đó cho chúng ta năng lượng, ánh sáng và hơi ấm. Không khí, nước, đất, cây cối, động vật và khí hậu của Trái Đất tạo thành môi trường sống của Trái Đất, nơi nuôi sống 13 triệu loài cây cối và động vật khác nhau, trong đó có loài người. 2. Môn học nghiên cứu mối liên hệ giữa loài người và tất cả các yếu tố của môi trường tự nhiên được gọi là môn sinh thái học. Môn khoa học này trang bị cho chúng ta những kiến thức về sự cân bằng tự nhiên tinh tế trong ngôi nhà Trái Đất của chúng ta. Môn học này còn cho ta thấy khi ta thay đổi môi trường thì sẽ phá vỡ sự cân bằng đó như thế nào. Qua môn học này, ta cũng biết được con người đã phá hoại ngôi nhà tự nhiên của chính mình như thế nào, làm sao để khắc phục những tổn hại đó, và làm sao để tránh không lặp lại những hành động phá hoại đó trong tương lai. Mặc dù chúng ta không thể khôi phục được nguyên trạng môi trường, nhưng nếu chúng ta áp dụng những biện pháp bảo vệ hệ sinh thái chặt chẽ thì vẫn có thể bảo tồn được những vùng đất chưa kịp bị bàn tay con người tàn phá. 3 3. Trong một đánh giá về tương lai nhân loại trong những năm đầu của thế kỷ tới, ông Klaus Topfer, giám đốc điều hành chương trình môi trường của LHQ đã phát biểu rằng những đe doạ lớn nhất đối với sự sinh tồn của loài người là sự thiếu nước sạch, sự nóng lên của trái đất, và tình trạng ô nhiễm khí nitơ trên toàn thế giới. Ông nói rằng chỉ khi nào các chính phủ có một quyết tâm chính trị cao hơn thì chúng ta mới có thể đẩy lùi được các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai. Chúng ta có công nghệ, nhưng lại không muốn áp dụng công nghệ đó. 4. Theo ông, những cố gắng của chúng ta trong việc ngăn chặn sự nóng lên của trái đất còn chưa thấm vào đâu so với mức cắt giảm cần thiết là 60%; ông còn nói thêm rằng thế giới đã bắt đầu phải hứng chịu hậu quả của sự thay đổi khí hậu, và con người đã phải bó tay trước sự thay đổi đó . Trong vòng 5 năm qua, thiên tai đã cướp đi sinh mạng của 3 triệu người . 5. Theo bản báo cáo thì nhiều nơi tình trạng đã lên tới mức báo động: sự khan hiếm nước đang làm các nước đang phát triển phải điêu đứng; sự xuống cấp của đất đai đã làm giảm độ phì nhiêu và giảm sản lượng nông nghiệp, và nạn chặt phá rừng nhiệt đới đã trở nên tràn lan đến mức không khắc phục được; nhiều sinh vật trên trái đất đã bị tuyệt chủng hoặc sắp tuyệt chủng; một phần tư số loài có vú đang có nguy cơ bị tuyệt chủng hoàn toàn. 6. Ngoài khơi, các loài cá đang bị đánh bắt quá mức cho phép, và một nửa số núi đá san hô của thế giới đang có nguy cơ bị phá huỷ. ở nhiều thành phố, ô nhiễm không khí đã lên đến mức báo động, và giờ đây việc ngăn chặn sự nóng lên của trái đất đã trở nên quá muộn. Chính sự thiếu kiểm soát của chính phủ đã làm giảm khả năng giải quyết vấn đề. Tiến sĩ Topfer nói rằng điều tối quan trọng là chúng ta cần phải buộc các công ty đa quốc gia có trách nhiệm hơn đối với hành động của họ cũng như đối với những sản phẩm họ sản xuất ra. 7. Cuối cùng, bản báo cáo kết luận rằng “chúng ta không thể cứ tiếp tục tình trạng như hiện nay, và không thể cứ trì hoãn mãi mà không hành động. Chúng ta cần phải có sự lãnh đạo của các chính phủ với tinh thần trách nhiệm cao và sự hợp tác chặt chẽ của tất cả các vùng cũng như các khu vực của nền kinh tế vực để có thể thực hiện những công cụ chính sách hiện nay và trong tương lai.” Unit 2. Task 3 1. Never before has this little village suffered from such a devastating typhoon. 2. What every country has to do is to raise people’s awareness of the importance of environment protection. 3. No longer have the mitigation of greenhouse gas emission and the protection of the ozone layer been the task of a single nation. They now become a common task of the human race. 4. It is estimated that with the present level of energy consumption and in the absence of alternative/substitute energies, especially renewable ones, by as early as 2050, all the world’s fossil fuels will be depleted. 5. International conventions on biological diversity have created the legal tools to control the trade of the world wild animals. It is the increased demand for natural resources, however, that gives rise to the continued depletion of endangered species. Unit 2. Task 4 4 UNDP HELPS TO PHASE OUT OZONE-DEPLETING SUBSTANCES 1. UNDP will be working closely with the Ministry of Industry and the Hydro-Meteorological Service of Vietnam in a 15-month project to reduce CFC emission in the commercial refrigeration sector. 2. The project is channeling nearly $0.5 million from the Trust Fund of UNDP, Montreal Protocol and Australia’s Environment Protection Agency for identifying and implementing recycling and other cost-effective emission reduction measures. 3. “We believe that this project marks a milestone for phasing out ozone depleting substances in Vietnam,” said UNDP Deputy Resident Representative Nicholas Rosellini, who signed the project today with Vice Minister of Industry Le Quoc Khanh. 4. In 1994, Vietnam became a signatory to the Vienna Convention on Ozone Layer Protection and the Montreal Protocol, which aim to limit and then to eliminate the production and consumption of ozone-depleting substances. 5. In the commercial refrigeration sector alone, as many as 450 small and medium-sized enterprises are now consuming CFCs, a substance that has been linked to ozone depletion and global warming. The average annual consumption of these enterprises ranges from 300 to 1500 kgs. 6. Through this project, UNDP will work with various enterprises to identify the most costeffective opportunities to achieve emission mitigation through recycling. Specialised equipment and training will then be provided for a number of enterprises so that they can implement the identified measures. 7. “This project is indeed an evidence that we can achieve sustainable development: protect the environment and yet, achieve better economic output,” Mr. Rosellini said. Unit 3. Task 1. nạn tham nhũng gánh nặng tồi tệ nhất đối với xã hội 1. Hơn bao giờ hết, các nhà lãnh đạo chính trị và kinh tế trên thế giới hiện nay đều đang nỗ lực kiếm tìm cách điều trị cho căn bệnh tham nhũng. Hồi thập kỷ 70, người ta đã từng bao biện rằng tham nhũng giúp nâng cao hiệu quả, hay chí ít cũng là một tệ nạn cần thiết. Nhưng giờ đây, những luận cứ đó đã bị phản bác vì có quá nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tham nhũng đem lại hậu quả vô cùng tệ hại: năng suất lao động bị giảm sút, nghèo đói gia tăng, chi tiêu công cộng lệch lạc, cùng một loạt các vấn đề xã hội khác. 2. Một tổ chức chống tham nhũng phi chính phủ đặt tại Béc lin mang tên Transparency International đã đưa ra một chỉ số gọi là “chỉ số bài trừ tham nhũng” với thang điểm từ 1 đến 10. Một nghiên cứu đã cho thấy nếu chỉ số của một quốc gia tăng thêm 2 điểm thì tốc độ đầu tư của quốc gia đó sẽ nhanh thêm 4% và GDP sẽ tăng khoảng 0.5%. Một nghiên cứu khác chỉ ra rằng mức độ tham nhũng cao có liên quan mật thiết tới kiến trúc hạ tầng kém chất lượng, chủ yếu là do không có đủ tiền dành cho hoạt động vận hành và bảo dưỡng kiến trúc hạ tầng đó, vì hoạt động này vốn là nguồn thu bất minh chẳng lấy gì làm béo bở. 3. Một nghiên cứu gần đây hơn đã đưa ra một luận cứ rất thuyết phục rằng không những nạn tham nhũng là một gánh nặng đối với các đơn vị kinh doanh cũng như các cá nhân trong xã 5 hội nói chung, mà nó còn có xu hướng phá huỷ chính những thể chế làm trụ cột cho hoạt động của thị trường. Khi những người cầm cân nảy mực cũng có thể bị mua chuộc thì quyền sở hữu tài sản và những cơ chế vô tư trong việc thực hiện các hợp đồng thương mại sẽ bị đe doạ nghiêm trọng. Nếu chính những nhà quản lý ngân hàng lại vi phạm những chuẩn mực về vay vốn, thì làm sao có thể bảo đảm được sự hợp lý trong phân phối tín dụng được nữa. 4. Đối với nhiều nhà quan sát, mức độ tham nhũng toàn cầu chẳng hề thuyên giảm là một bài toán khó. Vào đầu thập niên 90, khi các quốc gia thuộc khối Liên xô cũ và các quốc gia đang phát triển cùng tham gia vào những chương trình cải cách theo định hướng thị trường của WB và IMF, nhiều kinh tế gia đã tưởng rằng nạn tham nhũng sắp đến đoạn diệt vong. Người ta đã nghĩ rằng tự do hoá kinh tế sẽ giải quyết tệ tham nhũng đến tận gốc thông qua việc cắt giảm các thủ tục phiền hà và giảm bớt quyền sinh sát của các quan chức nhà nước. Bằng việc xoá bỏ sự khan hiếm giả tạo của các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, người ta đã tưởng rằng những vị thủ trưởng quan liêu chuyên ăn hối lộ sẽ không còn chốn dung thân. 5. Thế nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy. Paulo Mauro, một kinh tế gia của IMF, đã lý luận rằng việc chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường đã tạo ra vô vàn cơ hội để phân bổ lợi nhuận, và vì thế nó thường đi kèm với “một sự dịch chuyển từ một hệ thống tham nhũng có tổ chức sang một hệ thống hỗn loạn hơn và nguy hiểm hơn”. 6. Các nghiên cứu về khía cạnh chính trị của các cuộc cải tổ kinh tế ở các quốc gia như ấn độ, Uganda hay Nam phi đã đưa ra hai lý giải hết sức thuyết phục cho câu hỏi tại sao tự do hoá đã không bài trừ được tận gốc tệ tham nhũng như người ta ban đầu mong đợi. Lý do thứ nhất là: bản thân quá trình chuyển giao tài sản và trách nhiệm từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực tư nhân đã là một cơ hội làm nảy sinh các hình thái tham nhũng như các phi vụ tư nhân hoá với giá “người nhà”, hay việc thực thi một cách thiên lệch các ưu đãi thuế nhằm khuyến khích đầu tư. 7. Lý do thứ hai bắt nguồn từ bản chất liên tục của các chương trình cải tổ ở hầu hết các nền kinh tế đang phát triển và thực hiện chuyển đổi. Sau những cải tổ rùm beng ban đầu thường là một quá trình kéo dài vô tận trong đó chính phủ phải loay hoay với các qui định khác nhau, thử nghiệm với các hình thức quản lý khác nhau, áp dụng cơ chế quản lý doanh nghiệp...v.v và v.v. Tóm lại, những người thực hiện cải tổ hầu như có toàn quyền quyết định sẽ thực hiện cải tổ theo kiểu nào. Và đương nhiên mỗi kiểu cải tổ lại có những ảnh hưởng khác nhau tới những phe phái khác nhau trong giới kinh doanh. 8. Chính vì vậy mà cơ hội cho tham nhũng vẫn tiếp tục nảy nở, và trong một số trường hợp còn vượt xa những cơ hội trong thời quan liêu bao cấp. Ngay cả khi các quyết định cải tổ được thực hiện một cách công bằng thì việc được thông báo trước cũng hết sức có giá trị đối với các chủ thể kinh tế tư nhân, đặc biệt là trường hợp cải tổ thị trường vốn. Chính quá trình cải tổ liên tục đã biến thông tin nội bộ cả về thời gian lẫn nội dung trở thành một thứ hàng hoá được săn lùng ráo riết. Unit 3. Task 3. Vietnam - the deepening rich-poor divide 1. The discrepancy between the rich and poor in Vietnam, although not very pronounced according to international standards, is on the rise. This conclusion is drawn from Vietnam Development Report 2002 jointly compiled by government agencies, international aid donors and NGOs in an attempt to do away with poverty incidence in Vietnam. 6 2. The countrywide increasing rich-poor gap could be atributed to the worsening discrepancy between urban and rural areas, says the report. Growth rates in urban areas are far higher than in all rural ones, except the Red River Delta. The difference is especially pronounced when the richest and poorest regions of Vietnam are compared. 3. As revealed by Nguyen Phong, deputy director of the Social and Environment Department, General Department of Statistics, while income improves by only 30% in rural areas, it has already doubled in urban areas and even quadrupled or quintupled in major cities. A survey conducted by the General Department of Statistics shows that 4 out of 5 poor people work in the agriculture sector. 4. Director of the Statistics Division at the Science Information Centre of War Invalids and Social Affairs Hoang Thuy Nhung said that the income gap between rural and urban areas not only affects people’s standard of living but also has important implications for their access to job, health care, and education opportunities. As estimated by the report, a visit to hospital can cost a poor person a sum equivalent to 22% of his annual food expenditure. 5. Despite the encouraging inrease in school enrolment, a large proportion of rural population still enjoy less favourable conditions than their urban counterparts in accessing basic education. A finding of the report shows that on average spending on education is 10 times higher in urban areas than in rural ones. Going to school is even more difficult in mountainous and remote areas. Only 49% of adult women in Lai Chau are literate. 6. The widening rich-poor gap can also be attributed to the difference in growth rates across regions. The South East region has had the highest growth rate during the 93-99 period (hitting the 78%record), according to the report. The Mekong Delta, on the other hand, is the slowest growing region, with only 18% growth. 7. Preventing the rich-poor divide from developing any further, and trying to bridge the urbanrural gap, therefore, is one of Vietnam’s top priorities in the planning and implementing of its socio-economic development strategy in the years ahead. Unit 3. Task 4. Table 1. Intransitive verbs Increase accelerate be up balloon climb crawl creep develop deepen edge up escalate gain go up grow improve intensify jump Decrease abate collapse decline diminish drop fall plummet plunge slash slide slow shrink worsen 7 pick up rally rebound rise rocket soar surge swell uphill widen worsen Table 2. Maximizers and minimizers considerable encouraging dramatic drastic enormous formidable fabulous great heavy impressive magnificient massive marvelous noticeable outstanding rapid remarked remarkable respectable robust severe sharp significant spectacular splendid steep striking surprising sustainable strong substantial swift tremendous unprecedented unrivaled vast vigorous Unit 4. Task 1 8 manageable modest moderate reasonable slight slow sluggish soft steady weak Triều Nguyễn (1802 - 1945) 1. Hoàng đế Gia Long đã khởi xướng cái mà nhà sử học David Marr gọi là "chính sách khôi phục lại giá trị và tư tưởng đạo Khổng một cách toàn diện" nhằm củng cố vị thế non yếu của triều đình bằng cách lôi kéo những nhà nho có xu hướng bảo thủ đang còn sợ hãi trước trào lưu cải tổ của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. 2. Gia Long cũng khởi xướng những công trình quy mô lớn như đê kè, kênh đào, đường xá, cảng biển, cầu cống và khai hoang ruộng đất để chấn hưng đất nước bị tàn phá sau gần 3 thập kỷ chiến tranh. Con đường Thiên Lý nối Huế với Sài Gòn và Hà Nội được xây dựng trong thời kỳ này, và cả thành trì hình ngôi sao ở thủ phủ của các tỉnh theo nguyên lý của kiến trúc sư quân sự Vauban người Pháp cũng vậy. Tất cả những công trình này đã đặt một gánh nặng lên dân chúng VN dưới dạng thuế khoá, cưỡng bức tòng quân hay lao dịch. 3. Thái tử của Gia Long, hoàng đế Minh Mạng, đã củng cố xây dựng đất nước và thiết lập một chính quyền tập quyền mạnh. Do được giáo dục theo Nho giáo nên Minh Mạng đề cao tầm quan trọng của giáo dục Nho giáo truyền thống , một cách giáo dục theo kiểu ghi nhớ và diễn giải kinh điển các điển tích Nho giáo và văn tự trong lịch sử Trung Hoa cổ đại. Do vậy mà giáo dục và các lĩnh vực dựa vào Nho giáo đều bị đình trệ. 4. Minh Mạng đặc biệt đối nghịch (thù địch) với đạo Cơ đốc vì ông ta coi đạo Cơ đốc là mối đe doạ đối với quốc gia, và ông ta còn ác cảm cả với tất cả những ảnh hưởng của phương Tây. 7 nhà truyền giáo và rất nhiều người VN theo đạo cơ đốc đã bị hành quyết trong những năm 1830, gây ra sự căm phẫn của người Pháp Cơ đốc giáo và họ đã đòi chính phủ Pháp can thiệp vào VN. 5. Những cuộc nổi dậy lớn đã nổ ra ở cả miền Bắc lẫn miền Nam trong giai đoạn này và ngày càng lan rộng trong những năm 1840 và 1850. Tình hình còn trở nên tồi tệ hơn khi các vụ bạo động ở các vùng châu thổ lại diễn ra cùng với dịch bệnh đậu mùa, nổi loạn ở vùng sơn cước, hạn hán, nạn châu chấu và đặc biệt nghiêm trọng là các vụ vỡ đê sông Hồng liên miên do triều đình lơ là, sao nhãng. 6. Các hoàng đế đầu triều Nguyễn tiếp tục chính sách bành trướng của các triều trước, lấn đất của Campuchia và mở rộng bờ cõi trên một dải biên giới dài ở miền núi phía Tây. Triều Nguyễn đã chiếm giữ một vùng đất rộng lớn của Lào và tranh chấp với Thái Lan trong việc giành quyền kiểm soát đất đai của triều đình Cao Miên suy yếu. 7. Hoàng đế Thiệu Trị kế vị tiên hoàng Minh Mạng và trục xuất hầu hết các nhà truyền giáo. Hoàng đế Tự Đức lên nối ngôi và tiếp tục cai trị theo quan điểm Nho giáo cổ hủ và bắt chước cách cai trị của triều Thanh bên Trung Quốc. Cả hai vị hoàng đế này đều ra tay đàn áp những cuộc nổi dậy của nông dân. Unit 4. Task 3 Vietnamese Dishes 1. Foreigners like Vietnamese food not only because of its refined taste but also its variety. Vietnamese cookery has, at least, three distinct styles, each deriving from a particular region: northern, central, and southern, to say nothing of the various sub-regional styles. 9 2. Southerners also like to use groudnuts and rice paper sheets as ingredients in their cooking. Pho is a dish of northern origin, but when preparing it southern cooks often use additional ingredients that northerners would not use, such as bean sprouts and herbs. 3. While both northern and southern dishes are enjoynable, the southern tend to be more exotic and the northern more profound. This is probably why Vu Bang, a Vietnamese gastronome, has titled his book on northern cooking “The Delicious Dishes of Ha Noi” and southern cooking “The Extraordinary Dishes of the South”. 4. Hue’s dishes, on the other hand, are highly refined. Many such dishes originated at the Nguyen court in the 19th century. Some popular dishes from Hue are fermented shrimps, round rice noodle with beef and part of a pig’s leg, rice pan cake and bean pudding. As more and more people are looking for delicate tastes, restaurants serving Hue food are mushrooming in Hanoi and Ho Chi Minh City. 5. Vietnam is a long, narrow country stretching from north to south, with many different social, cultural and geographic regions and sub-regions, so its wide variety of dishes is understandable. A cookbook recently published in Hanoi has listed 555 Vietnamese dishes, but experts say this is just one tenth of the total number of the dishes eaten across the whole country. 6. Hanoi’s foods are described in early historical records. In his book “Vietnam’s Geography” published in the early 15th century, Nguyen Trai listed some well-known foods and drinks of the capital city at that time. 7. Vu Bang observes, “One Autumn day I wandered through the 36 streets of Hanoi’s old quarter and suddenly realised that Hanoi had changed a lot: the streets, houses and clothes. One thing remained unchanged, though: the foods Hanoians eat.” 8. Flavouring the food is an important part of Hanoian cooking. Each dish has its own spices and garnishes: lemon leaves and peppered salt for boiled chicken; sweet marjoram for bun noodle soup with rice field crabs; garlic for duck; and ginger for beef. 9. For traditional Hanoians, the way one dines is no less important than the food itself. Because they consider it an occasion for friends and ralatives to meet and talk. They will eat and drink little by little to savour all the flavours of the different dishes. But in the rush of modern life this traditional way of eating is vulgarised, as people devour their food without really tasting what they are eating. Unit 4. Task 4 1. The Vietnamese are not only brave in fighting but also diligent at work. 2. Both students and teachers must be on time for classes. 3. Vietnamese cuisine is loved by foreign visitors and local people alike. 4. The last couple of decades saw Vietnam’s strong performance on social as well as economic fronts. 5. China is seen thesedays as the world’s most dynamic economy as its impressive rate of growth is coupled with sustainability. 10 6. The American Constitution owes its staying power/ its enduring character to not only its simplicity but its flexibility as well. Unit 5. Task 1. những ý kiến phản đối và ủng hộ những sinh thể được biến đổi gen 1. Dân số các nước đang phát triển đang tăng nhanh, nhưng đất đai dành cho trồng trọt thì lại không tăng. Người ta dự đoán vào năm 2025, thế giới sẽ có thêm 2 triệu miệng ăn, và để nuôi sống những người này, cần phải tìm ra những biện pháp để tăng năng suất cho mỗi hécta đất nông nghiệp. Có nhiều người hơn không chỉ có nghĩa là phải sản xuất ra nhiều lương thực hơn để nuôi sống họ, mà còn có nghĩa là chúng ta phải lao tâm khổ tứ nhiều hơn để tìm cách sản xuất ra được số lương thực ấy. 2. Đã có nhiều ý tưởng hay được đề xuất, trong đó có sức thuyết phục hơn cả là áp dụng công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ biến đổi gen. Đây là một ngành khoa học mới: sinh thể được cải biến gen đầu tiên mới chỉ được tung ra thị trường cách đây có 5 năm. Những người ủng hộ công nghệ biên đổi gen hi vọng rằng nó sẽ giải quyết được nạn đói trên thế giới. Nhưng những người phản đối công nghệ này thì lại quan ngại rằng nó có thể gây độc hại cho tất cả chúng ta. Đã đến lúc chúng ta cần bình tĩnh xem xét những cơ hội chưa từng có cũng như những vấn đề khó xử mà công nghệ này có thể mang lại. 3. Thực ra người nông dân đã có những thao tác can thiệp để biến đổi bộ gen của cây trồng và vật nuôi từ rất lâu trước khi thực sự biết đến khái niệm này. Từ hàng ngàn năm nay, họ đã tìm cách chuyển những đặc tính ưu việt của một loài cây này sang cho một loài cây khác thông qua lai ghép. Đây chính là quá trình cỏ dại biến thành cây lúa mì. Họ cũng gây giống vật nuôi một cách có chọn lọc để chúng tăng trọng nhanh hơn và cho thịt ngon hơn. Chính nhờ vậy mà lợn rừng đã biến thành lợn nhà. 4. Công nghệ biến đổi gen cũng nhằm đạt được những kết quả tương tự, nhưng nhanh hơn và chính xác hơn nhiều. JT, giáo sư kiêm trưởng khoa vi sinh của ĐH Cape Town Nam Phi đã nói về tầm quan trọng của các cây trồng được cải biến gen đối với khu vực cận sa mạc Sahara ở Phi châu. Trong nghiên cứu thực hiện trên loài ngô, bà đã chứng kiến giống cây này và nhiều cây khác có thể được cải tạo như thế nào để chịu đựng được hạn hán và chống chọi với virut, nấm và sâu bệnh tốt hơn. Lương thực được biến đổi gen là một phần trong giải pháp tổng hợp nhằm giải quyết nạn thiếu lương thực ở những nơi trên thế giới mà nạn đói vẫn đang hoành hành. 5. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích thực sự và tiềm tàng kể trên của công nghệ biển đổi gen, chúng ta cũng cần ý thức được về những rủi ro của nó. Cấy ghép gen của các loài khác nhau có thể gây nguy hiểm cho sức khoẻ, và các cây trồng được biến đổi gen cũng có thể gây ra những vấn đề đối với môi trường. Cũng như bất kỳ một công nghệ mới nào, khó mà có thể chứng minh một cách thuyết phục rằng lương thực được biến đổi gen là an toàn. Do đó cần thử nghiệm những sản phẩm được biến đổi gen một cách kỹ lưỡng trước khi tung ra bán trên thị trường, và sau đó cần tiếp tục theo dõi ảnh hưởng của những sản phẩm đó. 6. Đối với người nghèo thì công nghệ biến đổi gen xuất hiện chả đúng lúc tí nào. Sau khi xảy ra một số ca tử vong ở Anh mà nguyên nhân hầu như chắc chắn là do bệnh bò điên ở người gây nên, dân chúng châu Âu đã mất lòng tin vào khả năng của chính phủ trong việc bảo vệ họ khỏi những thực phẩm độc hại. Có lẽ vì vậy mà một số nước nghèo vẫn do dự chưa muốn trồng các loài cây được biến đổi gen vì sợ làm kinh động dân châu Âu. Các tổ chức phi chính phủ đã rêu rao rằng các loài cây được biến đổi gen có thể gây độc hại cho những 11 cánh đồng lân cận do phấn hoa bay sang. Và cũng rất có thể họ sẽ nhân cơ hội đó để kêu gọi mọi người tẩy chay không dùng tất cả các loại lương thực nhập khẩu từ các nước có trồng rộng rãi các loại cây biến đổi gen, dù sản phẩm nhập khẩu đó có được biến đổi gen hay không. 7. Vì dân ở các nước giàu chả mấy khi bị đói nên họ cũng không quá hào hứng trước viễn cảnh là thế giới sẽ có nhiều lương thực hơn với giá rẻ hơn. Nhưng sẽ thật đáng buồn nếu chúng ta chỉ lo làm đẹp lòng một số ít người lúc nào cũng no bụng mà quên mất rằng hàng tỉ người đói kém trên thế giới sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc nuôi sống chính bản thân mình. Unit 5. Task 3. the ethical aspect of genetics 1. Few could argue that using genetic therapies to predict and cure diseases is a giant leap forward for humanity, but also gives rise to ethical dilemmas. In a session entitled “Science and medicine: are we playing God?”, Peter Singer, professor at American Princeton University pointed out that there were, in fact, enormous advantages in using genetic techniques to deal with diseases, but there must be some boundaries to this. What will happen if we use genetic engineering to clone cute babies according to their parents’ orders? 2. Prof. Singer was not alone in his deep concern about the applications of genetics and its long-term effects. Many still recall how Robert Oppenheimer, developer of the atomic bomb, and his colleagues died from the effects of radiation when the first bomb was tested in Los Alamos. This is a hard lesson for us all. 3. Moreover, many share the fear about what the G-revolution would mean for those who are not able to access it and the potential for deepening the divide between the rich and the poor. 4. Mrs. Shiva, Director of the Research Foundation for Science and Technology in India, is another doubter about the assumption that genetically-modified organisms are superior to natural ones. She pointed out that people in the region around the Himalayas where she comes from regularly live to reach 100 or more without the aid of genetically modified drugs. 5. In some other nations such as Australia the level of disquiet about the development of genetically modified crops has been growing with each passing year. People in other countries even boycott such varieties. Indeed, a hardening of community attitudes is being reflected in a broad range of initiatives by government to stiffen provisions regulating the development, use and labelling of genetically modified foods. Unit 5. Task 4. 1. The benefits of genetical modification technology is now being questioned. 2. In health and environment terms, there seem to be no reasonable scientific evidence to support the commercial manufacturing of genetically modified crops. 3. It is important to negotiate and implement international arrangements to protect community health and environmental resources. 12 4. Genetically modified crops is expected to be a topic of lively debate at the WTO ministerial meeting in Seattle. 5. It is widely believed that research is needed to explore opportunities to enable poor farmers and low income consumers to benefit from genetically modified foods. Check your progress 1 EN-VN 1. Thế giới của chúng ta là một thế giới trong đó không một cá nhân nào hay một quốc gia nào tồn tại đơn lẻ. Chúng ta đều cùng chịu ảnh hưởng của những biến đổi về chính trị, xã hội và công nghệ như nhau. Tương tự như vậy, nạn ô nhiễm, tội phạm có tổ chức và sự phổ biến vũ khí giết người cũng không loại trừ một quốc gia nào. Giữa chúng ta luôn có sự ràng buộc, liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. 2. Hầu hết những điều này thực ra chẳng có gì xa lạ. Nhưng riêng xu thế toàn cầu hoá trong thời đại ngày nay thì lại mang một sắc diện mới. Nó diễn ra nhanh chóng hơn và bị chi phối bởi nhiều qui luật hoặc đôi khi chẳng theo một qui luật nào. Toàn cầu hoá đem lại cho chúng ta nhiều sự lựa chọn và thời cơ mới. Tuy nhiên đối với nhiều triệu người trên thế giới, nó lại không phải là một tác nhân đem lại sự tiến bộ, mà là một trở lực có thể làm đảo lộn cuộc sống, phá vỡ thuần phong mỹ tục và làm họ mất đi kế sinh nhai. 3. Đối mặt với những cơ hội cũng như thách thức của xu hướng toàn cầu hoá, với những cuộc xung đột đẫm máu triền miên mà nạn nhân chủ yếu là những người dân lành vô tội, đối mặt với đói nghèo và bất công vẫn còn đầy rẫy, chúng ta cần phải xác định xem cần đồng tâm hiệp lực như thế nào để bảo vệ được lợi ích cho toàn nhân loại. Đã đến lúc chúng ta cần chứng minh rằng “cộng đồng quốc tế ” không phải là một khẩu hiệu suông. 4. Có người nói rằng “cộng đồng quốc tế ” chỉ là viễn tưởng hoặc là một khái niệm quá mơ hồ. Nhưng tôi lại có một niềm tin sắt đá vào sự hiện hữu của nó. Khi chúng ta thấy những nạn nhân của các vụ động đất ở Thổ nhĩ kỳ hay Hi lạp nhận được viện trợ, thì đó chính là cộng đồng quốc tế đang thực hiện sứ mạng nhân đạo của mình. Khi các chính phủ bị gây áp lực phải xoá những khoản nợ chồng chất cho các nước nghèo nhất thế giới, thì đó chính là cộng đồng quốc tế đang rũ bỏ những gánh nặng đang kìm hãm quá trình phát triển kinh tế chung. Và khi các tổ chức đoàn thể buộc các chính phủ phải kí một công ước cấm vũ khí giết người hàng loạt, thì đó cũng chính là cộng đồng quốc tế đang nỗ lực gìn giữ cho hoà bình thế giới. 5. Vậy điều gì khiến chúng ta xích lại gần nhau trong một cộng đồng quốc tế? Nói một cách nôm na nhất thì đó là ước vọng về một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người, như được nêu trong Hiến Chương Thành Lập Liện Hợp Quốc. Đó là khuôn khổ của luật pháp, hiệp ước và công ước nhân quyền quốc tế. Đó cũng là mong muốn của chúng ta về những vận hội chung cho mọi người, chính vì vậy chúng ta mới thành lập nên những thị trường chung và các tổ chức chung. Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Kofi Annan Tổng thư kí LHQ VN - EN 1. Before human came on the scene, the world changed only slowly over periods of thousands, if not millions of years. But during the past two milleniums, the rate of change has been dramatic. Forests have vanished, river courses have been altered, and large areas of natural vegetation have disappeared under/ been replaced by farmland and cities. The delicate 13 balance of nature have been disturbed/upset, and some of the results pose serious problems for the survival of the human race. 2. The greenhouse effect. The build-up of the so-called “greenhouse gases” (e.g. carbon dioxide, methane and CFCs) arising from industry and agriculture traps heat in the atmosphere and causes global warming. If the earth continues to warm at its present rate, sea levels could rise by over 1 meter by 2030, which would make 15 million people homeless in Bangladesh. Large areas of London would be under the water and the whole Venice would be destroyed. 3. Ozone depletion/ erosion. The ozone layer absorbs 99% of the harmful incoming ultra violet radiation from the sun. But industrial pollutants such as CFCs, methane and nitrous oxides are damaging this protective shield where significant holes have already been detected. Ozone depletion is the main culprit in causing fatal diseases like skin cancer, rickets, and kidney-stones. 4. Deforestation. More than 100 000 sq km of forests, major suppliers of the world’s oxygen, are being destroyed every year. Undiscovered plant and animal species of potential benefit to man disappear as the forest is cut down/ with wanton logging. Burning produces CO2 which fuels/agravates/worsens the greenhouse effect. The exposed soil is then washed away leaving a sterile and arid landscape. 5. Acid rain. Industrial emissions of acid gases combine with moisture in the air to produce acid rain, which attacks trees and plants, kills fish and water animals, damages the brick and stonework of houses and buildings and corrodes the metalwork of steel bridges and railings. Unit 6. Task 1. hiệp định thương mại mang lại niềm hi vọng 1. Mọi người đều tỏ ra phấn khởi trước sự kiện hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết vào tháng 7 năm 2001 sau hơn bốn năm đàm phán kéo dài. Hiệp định này sẽ giúp cho nền kinh tế Việt nam mở cửa mạnh mẽ và thúc đẩy mậu dịch giữa hai quốc gia. Hiệp định sẽ giúp cho Việt nam cơ hội tiếp cận với thị trường Mỹ với những điều kiện như các quốc gia khác đang được hưởng, và có thể giúp cho các công ty Việt nam kiếm thêm được 1 tỉ đôla nhờ có nhiều cơ hội làm ăn hơn. Hiệp định cũng sẽ tạo điều kiện cho Hà nội trong việc xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Đổi lại, cơ hội cho các nhà đầu tư Mỹ ở Việt nam cũng trở nên rộng mở hơn. 2. Tuy vậy vẫn cần phải ý thức được những mặt hạn chế của hiệp định. Hiệp định chẳng mang lại gì hơn là cho Việt nam được hưởng điều kiện quan hệ thương mại bình thường, trước đây được gọi là qui chế tối huệ quốc, cho phép hàng hoá của Việt nam vào thị trường Mỹ với mức thuế suất nhập khẩu thấp như mức mà hầu hết các nước khác đang được hưởng. Hiệp định không đả động gì đến hệ thống hạn ngạch hiện tại. Mặc dù các nhà kinh tế học đã dự tính rằng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Mỹ - mà năm ngoái là 450 triệu đôla có thể sẽ tăng gấp đôi trong năm đầu tiên hiệp định có hiệu lực, nhưng cũng nên nhớ rằng người ta cũng đã từng đưa ra những dự đoán lạc quan tương tự như vậy khi hai nước bình thường hoá quan hệ ngoại giao vào năm 1995. Thế nhưng sự bùng nổ về du lịch mà người ta hằng mong đợi đã không bao giờ trở thành hiện thực. 3. Một hạn chế nữa là sự suy giảm nghiêm trọng của đầu tư nước ngoài vào Việt nam, một phần là do cuộc khủng hoảng khu vực gây nên. Nhưng một nhân tố không kém phần quan trọng khác là sự chán ngán của các nhà đầu tư trước những khó khăn khi làm ăn ở Việt nam. 14 Kể từ khi Việt nam mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài vào năm 1998, các nhà đầu tư đã chuyển từ tâm lý hi vọng, sang thất vọng, rồi sang tuyệt vọng. 4. Vẫn có những công ty ăn nên làm ra tại Việt nam, nhưng thực tế này lại ít được đề cập một cách đầy đủ trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điều này một phần là do các doanh nhân cả người Việt nam lẫn người nước ngoài đều cho rằng không nên phô trương mình. Đảng Cộng sản thường hay nghi ngờ sự giàu có và công ty tư nhân, và các cơ quan thuế thường rất thính và tài phát hiện ra những doanh nghiệp giàu có. 5. Gần đây thủ tục cấp phép đã được giản tiện ngay cả đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ban đầu, hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu ở Việt nam là liên doanh với tỉ lệ góp vốn Việt nam 30-nước ngoài 70, nhưng sau đó người ta nhận ra rằng phía đối tác Việt nam thường chẳng đem gì đến bàn đàm phán ngoài mặt bằng kinh doanh bị định giá quá cao. Do đó các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng thích hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hơn mặc dù thời gian hoạt động có bị hạn chế hơn và gặp nhiều khó khăn hơn trong việc xin quyền sử dụng đất. Một hình thức đầu tư khác là hợp đồng hợp tác kinh doanh, trên thực tế là hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân Việt nam. Rất nhiều doanh nghiệp đã thành công nhờ nắm được phương châm “không phô trương” nói trên. 6. Tuy nhiên khó khăn vẫn còn chồng chất. Tất cả các doanh nghiệp ở Việt nam đều phải chịu một hệ thống thuế tuỳ tiện, không rõ ràng và thất thường đánh vào lợi nhuận , mặt bằng kinh doanh và người lao động, những người này phải chịu một chế độ thuế luỹ tiến rất cao, có nghĩa là nếu một nhân viên nhận được mức lương 2000đôla một tháng thì công ty phải tốn tới 10000đôla. Các doanh nghiệp không thể chuyển thu nhập ra ngoại tệ, cũng không thể xâm nhập vào các kênh phân phối sẵn có của Việt nam. Các hợp đồng giữa bên Việt nam và bên nước ngoài thường là không thực hiện được. Hệ thống toà án kinh tế hầu như không hoạt động. Hệ thống trọng tài trong nước không có khả năng cưỡng chế thi hành án, còn khả năng cưỡng chế của phán quyết trọng tài theo Công ước New York về Tài Phán Nước ngoài mà Việt nam đã tham gia ký kết thì còn chưa được kiểm chứng. 7. Các nhà chức trách Việt nam cũng tuyên bố rằng họ đang cố gắng khắc phục những tồn tại trên, và thường tổ chức các buổi toạ đàm cấp cao giữa các quan chức chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng các nhà đầu tư thì ngày càng tỏ ra nghi ngờ tính hiệu quả của những buổi toạ đàm đó. Unit 6. Task 3 ALBRIGHT URGES MOVEMENT ON TRADE AGREEMENT 1. Good afternoon. I am pleased to be back in Vietnam. Before continuing on to HCM City, I would like to say a few words about my talks today with the General Secretary, the Prime Minister, and the Vice Prime Minister. 2. Since my last visit 2 years ago, the US and Vietnam have consolidated our progress on 2 key issues. First and foremost, we remain grateful for Vietnam’s cooperation with our effort to obtain the fullest possible accounting of Americans still missing in the Vietnam war. 3. Another stepping stone toward more normal ties has been immigration. Vietnam’s strong performance has permitted us to renew our Jackson-Vanik waiver and to normalise consular relations - as signified by the new consulate I will commission tomorrow in HCM City. 15 4. In my talks today, however, I also emphasised that Vietnam needs to conclude a number of pending agreements that would help to revitalise growth and strengthen economic ties with the US. 5. Most importantly, we must reach closure on a landmark agreement which, if approved by the Congress, would open way for freer trade between our countries. After nearly 4 years of negotiation effort, prompt action is needed if this golden opportunity is not to be missed. 6. Ofcourse, Vietnam’s economic development depends on far more than agreements with the US. To spur overall foreign investment and trade, Vietnam must continue and intensify its reforms. This is also a precondition to boost Vietnam’s bid for membership of the WTO . 7. I also urged Vietnamese leaders to move decisively on a variety of non-economic matters that are ripe for progress. These range from fighting against drug trafficking to concluding a pact that will facilitate joint research on a number of science and health issues. 8. Once more, I want to thank Minister Cam for his welcome. We have some work left to do, but if Vietnam does its part, the US is willing to redouble our effort in the months to come. And now I would be pleased to answer your questions. Unit 6. Task 4 1. He is very popular in spite of his appearance. 2. In his speech, the governor promised a solution to the plight of the homeless. 3. People are revolting against their corrupt leaders. 4. After coming to power, he destroyed all his political opponents. 5. The world is asking them to abide to the peace treaty that they have signed with their neighbouring countries. 6. They betrayed their country when selling the army secrets to the enemy agents. 7. Banks say losses are an unavoidable step in their recovery from the crisis. 8. It’s the downturn in American markets that cause investors to move their funds to Asia. Unit 7. Task 1 câu trả lời là : phi toàn cầu hoá 1. Cuộc khủng hoảng tài chính đã làm nảy sinh vô vàn ý tưởng về việc cải tổ lại trật tự tài chính toàn cầu. Tuy khác nhau về chi tiết, song có thể chia các ý tưởng đó ra làm ba trường phái lớn. 2. Trường phái thứ nhất cho rằng cấu trúc tài chính thế giới hiện nay là tương đối ổn. Cái cần phải sửa đổi là sự kết nối bên trong của hệ thống. Theo trường phái này, cách khắc phục khủng hoảng là nâng cao vai trò và mở rộng nguồn lực của IMF với tư cách là người cho vay cuối cùng, nhưng chỉ cho vay đối với những nước sẵn sàng tiến hành cải tổ triệt để mà thôi. 16 3. Trường phái thứ hai lại kiến nghị rằng nên áp dụng các quản chế đối với việc di chuyển vốn thông qua một loại thuế chuyển nhượng vốn. Các biện pháp quản chế này không chỉ nhằm ngăn chặn sự di chuyển của những dòng vốn đầu cơ gây mất ổn định kinh tế, cũng không chỉ nhằm thu hút các dòng vốn đầu tư và tín dụng dài hạn. Các biện pháp quản chế này còn cần được coi như những công cụ hợp pháp để các quốc gia có thể áp dụng các chính sách thương mại và công nghiệp của mình. 4. Trường phái thứ ba lại nhìn nhận vấn đề theo một cách khác. Theo trường phái này, vấn đề chính lại nằm ở bản thân mô hình phát triển - lấy xuất khẩu và đầu tư nước ngoài làm hai động năng tăng trưởng chính. Sai lầm cơ bản của các nền kinh tế bị khủng hoảng là đã hoà nhập một cách bừa bãi vào nền kinh tế thế giới. 5. Do đó cách thoát khỏi khủng hoảng là phải phi toàn cầu hoá nền kinh tế quốc dân trong một chừng mực nhất định - có nghĩa là phải tái định hướng nền kinh tế quay về với thị trường nội địa, phải phụ thuộc nhiều hơn vào các nguồn vốn trong nước, phải hợp tác chặt chẽ hơn với các quốc gia xung quanh, phải hạ bớt nhịp độ tăng trưởng để giảm đi sự chênh lệch quá lớn về thu nhập, và phải tiến hành cải tổ chính trị để làm nòng cốt cho tăng trưởng bền vững. 6. Đương nhiên, nếu chúng ta có được một cơ cấu tài chính thích hợp thì còn gì bằng. Nhưng vì sẽ không thể đạt được điều này trong ngày một ngày hai, nên trước mắt chúng ta có hai nhiệm vụ chính. Thứ nhất, cần phải ngăn chặn các cuộc cải tổ hiện nay không để cho khu vực tài chính của các quốc gia đang phát triển bị hoà tan vào hệ thống toàn cầu do các nước phát triển chi phối. Thứ hai, cần thiết lập một loạt các biện pháp quản chế vốn, các chính sách thương mại và các thoả ước hợp tác khu vực có hiệu quả để nền kinh tế quốc dân có thể thực hiện chuyển đổi với sự can thiệp tối thiểu của các thế lực bên ngoài. Unit 7. Task 3 Search of new growth engines 1. As East Asia continues to sift/struggle through the wreckage of one of the greatest financial collapses since the Great Depression, there finally are signs that the foundations of a new Asian economy are starting to rise. China’s decision to lower its trade barriers in order to enter the WTO and revitalise its economy is part of the ocerwhelming liberalisation trend sweeping the region. 2. Sobering economic realities/The gloomy economic picture in East Asia are driving the changes. Chief among them is the region’s shattered financial system. The 3% of GNP the US paid to fix its savings and loans in the 80s pales in comparison with the 15% of GDP it will cost South Korea to clear bad loans, which some analysts believe exceed $95 billion. Deutsche bank puts the cleanup bill at 50% of GDP in Indonesia and 56% in Thailand. 3. The financial meltdown and changes in the global economy have dealt a heavy blow to the old economic model. Many of the giant groups that propelled the tiger economies in the past are in shambles, as are the banks that supported them. At the same time, Asia’s manufacturing base has come under threat by falling world prices and mounting competition from Latin America and Eastern Europe. So Asian governments are struggling to find new engines of growth for the 21st century. 4. For the first time since the region’s takeoff in the 60s, industrial giants are focusing on profits rather than on new output records. Once mighty conglomerates are breaking up, as Asia can no longer depend on them to fuel growth. Banks, once merely conduits for funnelling Asia’s savings to favoured companies, are having to become more sophisticated. 17 Governments, long obsessed with rigid statistics, are focusing more on basic social needs. And they are looking inward, toward the domestic consumers, to find new engines of growth in high tech, services, and small business. 5. The goal for many Asian leaders is nothing more than replicating the success of the American New Economy. Economies that rely too heavily on manufacturing “are quickly becoming obsolete,” says the managing director of Singapore’s Economic Development Board, Liew Heng San. Thus Singapore is aggressively planning to turn the island into an R& D centre. “The new paradigm is based on knowledge,” added Liew. 6. But change is often painful, and risky. It will be years before Asia’s new economic model can fly in its full wings. Tigers can’t change their stripes overnight/ Rome was not built in one day. It took nearly two decades for America to lay the grounds for its New Economy with corporate reengineering, government budget fights, and technology investment. For Asia, that journey is just beginning. Unit 7. Task 4 1. You should be patient. Diligence is the mother of good fortune. 2. I’ll pay you right after this consignment is sold. - Don’t count your chickens before they are hatched. Who knows the goods can sell? 3. I won’t buy so many shares of this company if I were in your shoes. You shouldn’t put all your eggs in one basket. 4. I think you’ve been too hard on him. To err is human, you know. 5. I don’t think you should learn at two universities at the same time. You will be Jack of all but master of none. 6. Your idea is interesting and feasible, go ahead with it. Don’t hesitate. Man proposes and God disposes. 7. What matters is that you’ve been well prepared. The first step is the hardest. I’ll give you a hand if you want. Unit 8. Task 1. bắc kinh có thể học hỏi gì từ sai lầm của các nước láng giềng 1. Người ta vẫn thường mặc nhiên cho rằng tự do hoá thị trường là hoàn toàn có lợi. Nhưng khi Bắc Kinh, Oasinhtơn và cả thế giới đang hân hoan ăn mừng việc Trung quốc gia nhập WTO, chúng ta vẫn cần phải nhớ rằng nếu vội vàng tham gia vào thế giới tư bản chủ nghĩa cạnh tranh khốc liệt của thế giới mà chưa có sự chuẩn bị kỹ càng thì sẽ vô cùng nguy hiểm. Trước khi buộc phải tuân thủ những luật chơi mới, Trung quốc cũng cần phải nghiên cứu những sai lầm mà các nước khác trước đó đã mắc phải khi tự do hoá và phải tiến hành những cải tổ cần thiết. 2. Kinh nghiệm của Hàn quốc và Thái lan trong việc mở cửa thị trường tài chính trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng châu á đã để lại những bài học xương máu. Việc để cho đồng nhân dân tệ được tự do chuyển đổi và dỡ bỏ các rào cản đối với dòng vốn nước ngoài vào Trung 18 quốc chưa nằm trong kế hoạch của nước này khi gia nhập WTO. Nhưng khi các công ty Trung quốc trở nên dày dạn hơn và buộc phải cạnh tranh trong một thế giới mà biên giới giữa các quốc gia đã bị xoá nhoà, thì Trung quốc tất yếu sẽ phải mở cửa thị trường tài chính hơn nữa. 3. Hàn quốc đã tỏ ra rất yếu kém trong việc thực hiện chuyển đổi khi phải đối mặt với thách thức này. Chính quyên Seoul đã tiến hành tự do hoá thị trường tài chiính dúng vào lúc nước này gia nhập tổ chức OECD vào năm 1996. Kết quả là các ngân hàng, các nhà môi giới và các công ty của Hàn quốc được mặc sức tự tung tự tác. Được phép vay trực tiếp từ các ngân hàng nước ngoài, các tập đoàn khổng lồ như Daewoo đã lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Một năm sau, quỹ dự trữ ngoại hối của Hàn quốc đã hoàn toàn cạn kiệt. Chính quyền Seoul đã phải muối mặt đến xin IMF một khoản viện trợ tài chính trị giá 58 tỉ đôla. 4. Trường hợp của Thái lan cũng chẳng sáng sủa hơn. Quyết định của nước này trong việc thực hiện chương trình Dịch vụ Ngân hàng Quốc tế Bangkok vào năm 1993 đã nhận được sự tán thưởng nhiệt tình của những người chủ trương tự do hoá thị trường. Với mục tiêu biến Băng cốc thành một trung tâm tài chính quốc tế, chương trình này đã cho phép các công ty Thái lan vay ngoại tệ một cách dễ dàng hơn, với lãi suất thấp hơn lãi suất trong nước từ 0.5 đến 0.6 phần trăm. Ban đầu việc này tưởng chừng như vô hại. Nhưng khi cán cân thanh toán của Thái bắt đầu bị thâm hụt và các khoản nợ nước ngoài ngắn hạn đã đến hạn thanh toán, thì đồng bạt đã sụt giá nghiêm trọng. Hàng loạt các công ty tài chính đã phá sản, và hệ thống ngân hàng Thái đến giờ vẫn còn chìm ngập trong những khoản nợ không có khả năng chi trả. 5. Mặc dù hiệp định WTO của Trung quốc chủ yếu đề cập đến vấn đề mậu dịch, nhưng nó cũng đem lại cho các ngân hàng, các quỹ đầu tư và công ty bảo hiểm nước ngoài nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận thị trường rộng lớn của mình. Một khi đã xâm nhập được vào thị trường, các công ty nước ngoài rất có thể sẽ phá vỡ thế cân bằng mỏng manh của hệ thống tài chính vốn đã lung lay của Trung quốc. 6. Những điều trên đây không phải là một luận cứ nhằm phản đối tiến trình toàn cầu hoá, mà chỉ là một lời cảnh báo râừng Trung quốc cần phải khôn ngoan trong việc đón nhận những cơ hội ở phía trước. Ngay từ bây giờ, Trung quốc cần phải đào tạo những chủ ngân hàng, các nhà môi giới và các nhà quản lý quỹ đầu tư để họ có được những kỹ năng cần thiết cho tương lai. Nếu Trung quốc không tiến hành cải tổ tài chính một cách hợp lý thì nước này sẽ không thể tận dụng được những cơ hội do WTO mang lại. Unit 8. Task 3. China - the promise and peril of the WTO DEAL 1. By the time China’s Trade Minister and America’s Trade Representative signed a WTO deal on Nov 15, it was clear that Beijing had little choice. Chinas economy was looking shaky, with growth slowing and unemployment rising into double digits. Foreign investors, weary of bureaucratic obstacles, were withdrawing from China. China needed WTO to force through needed reforms. 2. The agreement paving the way for entry into the WTO, however, won’t produce an overnight miracle. But it is a significant step for China on its path to open markets after 19 decades of halting progress. Despite the pains that will accompany reform, Chinese leaders recognized that the potential gains were too great to ignore. 3. Estimates are that entry into the WTO could bring China $100 billion of new investment annually, and add one percentage point to its economic growth thanks to enhanced efficiency, improved competitiveness and boosted exports. Companies in the hightech and biotech industries will thrive. The garment and textile industry within 5 years can create 5 million jobs, the service industry 2.6 million, and the construction industry 1 million. 4. But grabbing that growth depends on China following through on its new pledges, and on investors felling confident in China’s resolve. The deal calls for China to open sectors ranging from telecom and internet, to banking, securities, and distribution. Also to be phased in are tariff cuts on a wide range of products, from an average of 22% to 17%. Beijing also promised to end all export subsidies. 5. For the first time, Western companies will be able to sell products directly to Chinese consumers. Currently, computer manufacturers face headaches in China, including quotas and tariffs on imported components, and restrictions on distribution. With the WTO, they now can consider expanding. 6. American farmers have hopes, too. China is now supposed to drop export subsidies and sharply cut tariffs for farm products. But it is hardly a win for the Chinese farmers or manufacturers. Entry into the WTO will force a dramatic split, creating winners and losers. Many companies in noncompetitive heavy industries such as steel and petrochemicals run the risk of going bankrupt as the trade barriers that used to prop them up now evaporate. Unit 8. Task 4 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. conduct/ adopt/ pursue/ formulate/design policy set a target/ meet the given target fulfil/ follow through commitments errode/ undermine/ smash/restore/regain/ rebuild/ consolidate/ win/ rekindle confidence take/ adopt a measure lift/ remove/dismantle/ lower barriers ease/loosen/relax/abolish/remove/end restrictions improve/build/develop/sharpen skills fight/combat/attack/alleviate/eradicate/eliminate/do away with/win the battle against poverty add to/create/ease/relieve/shoulder/remove/lift a burden Unit 9. Task 1. thúc đẩy xu hướng toàn cầu hoá 1. Vì nhiều quốc gia đã không đủ sức đương đầu với những tác động của toàn cầu hoá, như trường hợp của châu A trong cuộc khủng hoảng tài chính cuối thập kỷ 90, nên nhiều chuyên gia đã cho rằng vai trò của chính phủ đang mờ nhạt dần. Các công ty đa quốc gia, các tổ chức tài chính, các nghiệp đoàn lao động, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức đoàn thể khác giờ đây dường như ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong nền kinh tế thế giới. Điều này khiến người ta đi đến chỗ tin rằng thị trường đã chiếm ưu thế và đẩy chính phủ sang một bên. Điều tai hại trong quan điểm này là nó dẫn đến một quan điểm khác cho rằng: nếu toàn cầu hoá đã không thể phục vụ lợi ích cho một quốc gia, thì làm sao nó có thể phục 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan