Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá khả năng thu hút nguồn vốn quốc tế thông qua phát hành trái phiếu của v...

Tài liệu đánh giá khả năng thu hút nguồn vốn quốc tế thông qua phát hành trái phiếu của việt nam, thông qua nghiên cứu bài học kinh nghiệm của các nước điển hình được lựa chọn

.PDF
64
96
60

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH -------***------- BÀI TẬP NHÓM : “Đánh giá khả năng thu hút nguồn vốn quốc tế thông qua phát hành trái phiếu của Việt Nam, thông qua nghiên cứu bài học kinh nghiệm của các nước điển hình được lựa chọn” Giáo viên hướng dẫn Lớp Nhóm : Nguyễn Thị Thanh Dương : : Tài chính quốc tế 14 Hà Nội – 2017 1 MỤC LỤC 2 CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁI PHIẾU VÀ TRÁI PHIẾU QUỐC T Ế 1.1. Tổng quan về trái phiếu và trái phiếu quốc tế 1.1.1. Trái phiếu 1.1.1.1. Khái niệm Trái phiếu là một công cụ nợ mà người phát hành có nghĩa vụ tr ả cho người mua trái phiếu đó khoản tiền gốc cộng với lãi nhất định trong một kho ảng th ời gian xác định. Có rất nhiều khái niệm khác về trái phiếu như: Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho người sở hữu trái phi ếu đối v ới một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian xác định và v ới một lợi tức quy định. Người phát hành có thể là Chính Phủ, chính quy ền đ ịa phương hay doanh nghiệp. Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có th ể là cá nhân, doanh nghiệp hoặc Chính Phủ. Tên của trái chủ có th ể được ghi trên trái phi ếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái phi ếu vô danh)”. Giáo trình Thị trường chứng khoán của trường ĐH Kinh t ế Qu ốc dân cho rằng: “Trái phiếu là một loại chứng khoán qui định nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả cho người đứng tên sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất định bao gồm cả gốc và lãi trong những khoảng th ời gian cụ thể”. Theo Điều 6 của Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 xác định: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của ng ười s ở h ữu đ ối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành”. Như vậy trái phiếu thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay, giữa họ có mối liên hệ qua lại lẫn nhau thông qua v ận đ ộng giá tr ị v ốn và nó không chỉ đơn thuần là một hình thức vận động v ề ti ền tệ mà còn là m ối quan hệ về xã hội (như mối quan hệ về lòng tin). Trái phi ếu cũng chính là m ột loại chứng khoán bởi nó có thể được giao dịch, mua bán trên thị trường chứng khoán. Dù trong điều kiện nào, người sở hữu trái phiếu cũng đều có quy ền hưởng đủ các khoản thanh toán lãi và hoàn trả gốc khi đáo hạn như đã cam k ết. 3 1.1.1.2 Đặc điểm Trái phiếu có thể được phát hành dưới dạng chứng chỉ, bút toán ghi s ổ hoặc dữ liệu điện tử. Đối với hình thức chứng chỉ, Bộ Tài chính sẽ quy đ ịnh n ội dung để tổ chức phát hành in và phân phối cho các tổ chức trúng thầu; Đối v ới hình thức bút toán ghi sổ sẽ do Trung tâm Giao dịch chứng khoán (S ở Giao d ịch ch ứng khoán) và các tổ chức lưu ký ghi và quản lý sổ sách. Tuy nhiên dù là lo ại trái phiếu nào thì các nội dung được thể hiện trên trái phiếu có những thông tin sau: Mệnh giá: Là số tiền ghi trên trái phiếu mà tổ chức phát hành cam kết sẽ trả cho người sở hữu trái phiếu vào ngày đáo hạn và nó được xem nh ư là s ố n ợ g ốc ghi trên tờ trái phiếu. Ngày đến hạn: Là ngày tổ chức phát hành phải thanh toán số tiền theo mệnh giá ghi trên trái phiếu cho chủ sở hữu. Kỳ hạn của trái phiếu : Là khoảng thời gian từ thời điểm phát hành đến ngày đến hạn phải thanh toán trái phiếu của tổ chức phát hành. Hi ện nay vi ệc phân chia trái phiếu phổ biến là trung hạn từ 1 đến 10 năm và dài hạn là trên 10 năm. Kỳ hạn của trái phiếu có ý nghĩa vô cùng quan tr ọng vì l ợi tức trái phi ếu ph ụ thuộc nhiều vào thời hạn của nó. Lãi suất: trong từng loại trái phiếu đều có ghi lãi suất của người phát hành cam kết thực hiện trả cho người sở hữu một số tiền lãi vào một ngày được xác định cụ thể. Lãi suất của trái phiếu là tỷ lệ phần trăm gi ữa ti ền lãi v ới ti ền g ốc của trái phiếu trong khoảng thời gian nhất định (thường được xác định là 01 năm). Lãi suất là một trong những yếu tố cơ bản nhất của trái phi ếu, có ảnh hưởng rất lớn đến giá trái phiếu, lợi tức của trái phi ếu và đ ược xác đ ịnh d ưới nhiều hình thức tạo nên sự phong phú của trái phiếu như lãi suất coupon, lãi suất chiết khấu, lãi đơn, lãi gộp... Lãi suất của trái phiếu tuỳ thuộc vào các y ếu t ố như thời hạn, khả năng thanh khoản, lạm phát và tình hình thị trường. Giá thực tế của trái phiếu (giá mua): là khoản tiền thực tế mà người mua bỏ ra để được quyền sở hữu trái phiếu. Giá mua có thể ngang giá, ví dụ trái phi ếu có giá 100 nghĩa là bằng 100% mệnh giá; cũng có th ể là giá cao h ơn ho ặc th ấp h ơn mệnh giá ghi trên trái phiếu (giá trái phiếu thấp hơn mệnh giá (ví dụ nh ư 90) được gọi là giá chiết khấu; giá cao hơn mệnh giá (ch ẳng h ạn nh ư 110) thì g ọi là giá gia tăng). 4 Tiền lãi: Dù dưới hình thức nào đi chăng nữa, tiền lãi luôn được xác định dựa trên mệnh giá ghi trên trái phiếu và đến th ời hạn thanh toán, người s ở h ữu đ ều được thanh toán theo đúng các thông số ghi trên trái phiếu. Ngoài ra, các loại trái phiếu đều có các đặc điểm chung là: Trái phiếu là công cụ nợ, mà nhà phát hành đi vay theo ph ương th ức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhi ệm nào v ề k ết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay, và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam k ết đã đ ược xác định trong hợp đồng vay. Trường hợp chủ thể phát hành trái phiếu bị phá sản hoặc giải thể, chủ sở hữu trái phiếu được ưu tiên trong quá trình thanh lý tài sản so v ới các c ổ đông của công ty. Do chủ thể phát hành bị ràng buộc bởi nghĩa vụ thanh toán nên trái phiếu có độ an toàn cao, tính thanh khoản l ớn và th ường do các trung gian tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại nắm giữ. Trái phiếu là công cụ đầu tư. Nhà đầu tư được hưởng lợi tức từ ti ền lãi mà trái chủ phải thanh toán trong suốt kỳ hạn của trái phiếu và các quy ền l ợi khác nếu có. Lợi tức của trái phiếu được xem là chi phí đối v ới chủ th ể phát hành, do vậy nếu là doanh nghiệp phát hành trái phiếu được hưởng lợi do ti ết ki ệm thuế. Là một loại công cụ nợ nên trái phiếu có: • Tính sinh lời (trái phiếu là chứng chỉ vay nợ của Chính Phủ và doanh nghi ệp, do vậy, khi đầu tư vào trái phiếu đồng nghĩa với vi ệc nhà đầu tư sẽ thu l ại được một khoản lợi tức kỳ vọng trong tương lai); • Tính rủi ro (mức độ rủi ro cao hay thấp hoàn toàn ph ụ thu ộc vào tính ch ất, đ ặc thù của từng loại trái phiếu. Khi nền kinh tế có những bi ến đ ộng về l ạm phát, lãi suất, tỷ giá... sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư vào trái phi ếu); • Tính thanh khoản (đó chính là khả năng chuy ển đổi trái phi ếu thành ti ền m ặt, mỗi một loại trái phiếu có khả năng thanh khoản khác nhau: TPCP thông th ường có tính thanh khoản cao hơn so với các loại trái phiếu khác). 1.1.1.3.Phân loại Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý, phát hành trái phiếu và đặc biệt là phân định rõ trong việc huy động v ốn thông qua th ị tr ường 5 vốn để đảm bảo việc sử dụng vốn của Chính Phủ và của doanh nghi ệp đúng k ế hoạch và đúng mục đích. Dưới đây là một số cách phân loại đi ển hình: Phân loại theo phạm vi phát hành : Bao gồm trái phiếu trong nước và trái phiếu quốc tế. Phân loại theo chủ thể phát hành: Đây là hình thức quan trọng để có thể phân bi ệt được chủ thể phát hành, mục đích phát hành và các cách thức phát hành của 4 các lo ại trái phi ếu. Vi ệc tìm hiểu các cách phân loại này sẽ là cơ s ở để có thể đánh giá th ực tr ạng s ự phát triển của thị trường trái phiếu. Với cách phân loại này, chủ th ể phát hành bao gồm Chính Phủ, chính quyền địa phương; Doanh nghiệp; Ngân hàng và các tổ chức tài chính. Phân loại theo cách tính lãi: Theo cách phân chia này, trái phiếu bao gồm: trái phi ếu có lãi su ất c ố đ ịnh (lãi suất của trái phiếu không thay đổi và được xác đ ịnh ngay t ại th ời đi ểm phát hành, có thể trả một lần khi đến hạn, trả định kỳ hoặc tr ả tr ước); trái phi ếu có lãi suất thả nổi (lãi suất của trái phiếu thay đổi tại từng thời điểm trả lãi thường được tính theo lãi suất của thị trường liên ngân hàng); trái phi ếu chi ết kh ấu zero coupon (trái phiếu được bán với giá thấp hơn mệnh giá). 1.1.2. Trái phiếu quốc tế 1.1.2.1. Khái niệm Trái phiếu quốc tế là chứng chỉ vay nợ do nhà phát hành bao gồm chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế của một nước hay các tổ chức tài chính quốc tế phát hành trên trên thị trường vốn quốc tế nhằm huy động v ốn từ các nhà đầu tư trên thế giới. Không phải bất kỳ trái phiếu nào được trao đổi buôn bán ngoài biên gi ới quốc gia đều gọi là trái phiếu quốc tế. Chỉ có những trái phi ếu được phát hành chính thức và được giao dịch, mua bán trên những trung tâm tài chính qu ốc t ế mới được gọi là trái phiếu quốc tế. Trái phiếu quốc tế của Việt Nam, theo Điều 2, Khoản 16, Nghị định 53/2009/NĐ-CP về Phát hành trái phiếu của chính phủ có ghi rõ: “Trái phiếu quốc tế: là chứng chỉ vay nợ có mệnh giá, có th ời hạn, có lãi, do Chính ph ủ ho ặc 6 các doanh nghiệp của Việt Nam phát hành để vay vốn trên th ị trường tài chính quốc tế phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế”. Khi Chính phủ của một quốc gia phát hành trái phiếu ra thị tr ường qu ốc tế, trái phiếu đó được gọi là trái phiếu quốc tế của Chính phủ (Sovereign Bond). Ngoài Người phát hành trái phiếu tham gia vào quá trình phát hành còn có nhi ều tổ chức tài chính tham gia như cơ quan đăng ký phát hành, bảo lãnh phát hành... 1.1.2.2. Đặc điểm Trái phiếu quốc tế có đầy đủ tính chất một trái phiếu : mệnh giá, lãi su ất định kì và thời hạn... như đã nêu trên. Bên cạnh đó, trái phiếu qu ốc tế còn mang một số đặc trưng nổi bật: - Trái phiếu quốc tế không trực tiếp phụ thuộc vào thị trường vốn trong nước. Giá cả của nó được xác định trên cơ sở điều kiện của thị trường vốn quốc t ế và hệ số tín nhiệm của chủ thể phát hành. Đặc điểm này phản ánh đúng m ối quan h ệ - về giá vốn theo lý thuyết về nền kinh tế mở. Trái phiếu được mua bán trao đổi bằng nhiều loại ngoại tệ khác nhau. đi ều này đi đôi với một số rủi ro mà trái phiếu nội địa không có, như r ủi ro tỷ giá, r ủi ro - quốc gia… Trái phiếu quốc tế được giao dịch ở nhiều trung tâm tài chính khác nhau trên th ế giới, nên việc mua bán trao đổi diễn ra không ngừng không ngh ỉ, k ể c ả vi ệc mua bán trên trên thị trường thứ cấp, hoặc thị trường OTC… 1.1.2.3. Phân loại Có nhiều cách phân loại trái phiếu quốc tế theo nhiều quan đi ểm khác nhau. Phân loại theo thị trường phát hành ( đây là cách phân loại phổ biến nhất): Trái phiếu nước ngoài; Trái phiếu Châu Âu. • Khi một trái phiếu được do người không cư trú phát hành vào một qu ốc gia mà được định giá bằng đồng tiền không phải nội tệ quốc gia đó thì g ọi là trái phi ếu Châu Âu và tạo ra thị trường trái phiếu Châu Âu. Trái phiếu Châu Âu (Eurobonds) được bán ở các quốc gia khác hơn là quốc gia hơn là qu ốc gia mà đ ồng tiền của nó được sử dụng để đo giá trị trái phiếu. • Khi một trái phiếu do người không cư trú phát hành vào m ột qu ốc gia mà đ ược định giá bằng bản tệ của quốc gia đó thì trái phiếu đó gọi là trái phi ếu n ước ngoài và tạo nên thị trường trái phiếu nước ngoài. Có mười lăm th ị trường trái 7 phiếu nước ngoài trên thế giới, ví dụ như Thị trường trái phiếu Yankee của Mỹ, Samurai của Nhật, Bulldog của United Kingdom... Tuy nhiên thị trường này có quy mô nhỏ và số lượng các nhà đầu tư tham gia cũng ít hơn. Phân loại theo lãi suất: Trái phiếu có lãi suất cố định; Trái phiếu có lãi suất biến đổi; Trái phiếu có Lãi suất chiết khấu Phân loại theo nhà phát hành: Trái phiếu chính phủ; Trái phiếu doanh nghiệp, ngân hàng; Trái phiếu các tổ chức quốc tế. Khi Chính phủ phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế thì trái phi ếu đó được gọi là trái phiếu quốc tế của Chính phủ. Đây là loại trái phi ếu có tính an toàn cao nhất vì nó là cam kết của Chính ph ủ đối v ới c ộng đ ồng qu ốc t ế, vì v ậy, trái phiếu Chính phủ có xếp hạng cao nhất, là “ đi ểm chu ẩn” đ ể xác đ ịnh giá các loại trái phiếu khác của quốc gia đó. Ngoài ra, trái phiếu còn được phân loại theo hình th ức phát hành v ới các tiêu chí như loại hình các nhà đầu tư, phạm vi phát hành, loại ti ền phát hành,... 1.2 Một số vấn đề về nguồn vốn huy động qua phát hành trái phiếu qu ốc tế của Chính 1.2.1 Vai trò của nguồn vốn huy động qua phát hành trái phi ếu quốc tế của Chính phủ 1.2.1.1. Nguồn vốn huy động qua phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ Một là, bổ sung nguồn vốn phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế Trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia đều cần một lượng vốn rất lớn phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển, nguồn vốn trong nước không đủ đáp nhu cầu, do vậy việc vay nợ nước ngoài là rất cần thiết. Đặc biệt trong điều kiện thị trường tài chính quốc tế ngày càng phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Nhiều quốc gia có những bước phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Nhiều quốc gia có những bước phát triển kinh tế vượt bậc như Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc đều phải vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, Chính phủ các quốc gia đó chỉ vay tiền để đầu tư vào hạ tầng cơ sở thiết yếu nhất để phục vụ phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Hai là, bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước. Thực tế đã cho thấy, việc bù đắp thâm hụt ngân sách của Chính phủ có thể được bù đắp bởi các nguồn vốn như: nguồn vốn vay trong nước dưới hình thức phát hành 8 trái phiếu chính phủ, công trái quốc gia, tín phiếu kho bạc và vay nợ nước ngoài. Một quốc gia có thể vay nợ nước ngoài dưới các hình thức như: vay ODA; vay ưu đãi từ các Chính phủ; vay thương mại; phát hành trái phiếu quốc tế. Các hình thức trên đều là các khoản tín dụng có ràng buộc và hạn chế về số lượng. Trong khi đó, phát hành trái phiếu quốc tế có thể vay được nguồn vốn dài hạn vào bất cứ lúc nào có nhu cầu và không có hạn mức; quốc gia đi vay hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng số tiền vay được và không bị ràng buộc. Ba là, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, trong xu hướng hội nhập quốc tế, việc tham gia vào thị trường vốn quốc tế thông qua việc phát hành các loại trái phiếu, cổ phiếu đặc biệt là trái phiếu Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế đã được nhiều nước thực hiện có hiệu quả. Đây chính là mối quan hệ hai chiều có tính chất mở cửa đảm bảo cho quá trình quốc tế hóa thị trường tài chính và tạo điều kiện cho thị trường tài chính trong nước có sức cạnh tranh, phát triển lành mạnh và ổn định. Nếu xét về mặt lý luận chung, bất cứ một hoạt động kinh tế nào cũng có hai mặt, việc phát hành trái phiếu quốc tế cũng đem lại những lợi thế cho các quốc gia phát hành, đồng thời cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, nhất là tiềm ẩn khả năng mất an ninh tài chính trong lĩnh vực tài chính đối ngoại gây vỡ nợ nếu quốc gia phát hành không biết dừng lại ở mức độ quản lý cho phép. Mặc dù vậy, cân nhắc giữa lợi thế và các vấn đề phải đối mặt, nhiều nước đang phát triển đã lựa chọn hình thức huy động vốn này. Thậm chí, có những quốc gia phát hành không vì mục đích thu hút thêm vốn đầu tư mà họ nhằm vào các mục tiêu chiến lược dài hạn khác như tiếp cận hoặc duy trì thị trường để có thể huy động một cách nhanh chóng và đạt mức chi phí hợp lý khi cần thiết, như trường hợp của Trung Quốc, Malaysia, hoặc để bổ sung dự trữ ngoại tệ để duy trì hệ số tín nhiệm như trường hợp của Hàn Quốc. Đối với Việt Nam, phát hành trái phiếu quốc tế là cần thiết và rất có ý nghĩa trong quá trình hội nhập và phát triển. Tuy nhiên, Chính phủ phải cẩn trọng cân nhắc thời điểm phát hành cũng như các điều điện liên quan đến phát hành để đạt được lợi ích tối đa khi thực hiện phát hành trái phiếu của Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế. 9 1.2.1.2. Vai trò của nguồn vốn huy động qua phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ Trái phiếu quốc tế có vai trò như là một cầu nối giữa thị trường vốn trong nước và thị trường tài chính quốc tế. Trái phiếu quốc tế mở ra kênh huy động vốn có khả năng đáp ứng các dự án quy mô lớn, thời gian dài và nguồn lực hâu như không hạn chế. Hầu hết các nước phát triển đều có nhu cầu phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế để huy động vốn vì thị trường trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn Phát hành trái phiếu quốc tế tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường vốn trong nước với thị trường vốn nước ngoài. Khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế để huy động vốn, người phát hành chấp nhận điều kiện chung của thị trường tài chính quốc tế, có nghĩa là chấp nhận sự cạnh tranh, chấp nhận so sánh các điều kiện tín dụng. Ngoài ra, không chỉ dừng ở thị trường vốn mà còn là cơ hội xác định chi phí sản xuất hàng hóa trong nước, khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước với hàng hóa nước ngoài. Trái phiếu quốc tế cho phép xác định “điểm chuẩn” của quốc gia phát hành trên thị trường vốn quốc tế. Các điều kiện của trái phiếu quốc tế sẽ là điều kiện tài chính đầu vào của các dự án đầu tư trong nước. Các nhà đầu tư nước ngoài coi các điều kiện về lãi suất, hệ số tín nhiệm,… như một căn cứ để đưa ra các quyết định đầu tư. Việc phát hành trái phiếu Chính phủ tạo ra “điểm chuẩn” là căn cứ định giá trái phiếu công ty vì trái phiếu Chính phủ phát hành nhanh và hiệu quả hơn các loại hình trái phiếu khác. Với “điểm chuẩn” có thể xác định chi phí vốn của nền kinh tế trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường. Điều này cho phép các nhà đầu tư nước ngoài so sánh được hiệu quả và mức độ rủi ro khi đầu tư vào trái phiếu của một quốc gia, đồng thời cho phép các doanh nghiệp của quốc gia đó xác định rõ thực sự tình hình kinh doanh của mình với chi phí vốn thực tế trong quá trình hội nhập với khu vực và ngoài quốc tế. Ngoài ra, khi trái phiếu của quốc gia phát hành xuất hiện trên thị trường vốn quốc tế sẽ tạp ra điều kiện cho các giao dịch mua bán lại các khoản nợ nước ngoài của mình một cách dễ dàng. 10 Phát hành trái phiếu quốc tế tạo điều kiện cho các nhà đầu tư một lựa chọn khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư. Các nhà đầu tư có thêm một công cụ để phòng ngừa rủi ro bằng các hình thức đa dạng hóa tài sản. Trái phiếu quốc tế còn có vai trò làm công cụ để thực hiện chính sách quản lý nợ quốc gia: Thông qua việc phát hành mới trái phiếu ra thị trường quốc tế, Chính phủ có thể chủ động điều tiết danh mục tài sản nợ của Chính phủ để thực hiện các chính sách tài chính tiền tệ. 1.2.2 Những tiêu chí đánh giá việc thu hút nguồn vốn qua phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ 1.2.2.1 Tiêu chí đánh giá việc thu hút nguồn vốn qua phát hành trái phiếu quốc tế của Chính Phủ  Tiêu chí đánh giá chuẩn bị phát hành Sự thuận lợi của thời điểm phát hành Việc lựa chọn thời điểm phát hành có vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của đợt phát hành trái phiếu. Thời điểm phát hành tốt là thời điểm thuận lợi cả về điều kiện kinh tế tài chính thế giới và trong nước. Thị trường tài chính thế giới trong giai đoạn ổn định, lãi suất của FED ( một trong những yếu tố quan trọng của thị trường tài chính thế giới) thấp và bình ổn. Kinh tế trong nước tăng trưởng cao và ổn định, các chỉ số kinh tế vĩ mô khác như tỷ lệ nợ công, tình hình cán cân thanh toán quốc tế và dữ ngoại hối,… được đánh giá tốt. Ngược lại, thời điểm phát hành trái phiếu quốc tế không thuận lời là khi kinh tế thế giới trong giai đoạn khủng hoảng, thị trường tài chính thế giới biến động lên xuống, lãi suất của FED tăng, các điều kiện kinh tế thế giới trong nước không ổn định, nợ công vượt trần, thâm hụt cán cân thanh toán cao, dự trữ ngoại hối thấp,… Mức độ hoàn thành mục tiêu đề ra khi phát hành trái phiếu quốc tế Khi Chính phủ xây dựng đề án phát hành trái phiếu quốc tế đều đưa ra những mục tiêu của từng đợt phát hành, bao gồm cả mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể. Mức dộ hoàn thành các mục tiêu đã đề ra này phản ánh mức độ thành công của đợt phát hành trái phiếu quốc tế.  Tiêu chí đánh giá thực hiện phát hành trái phiếu quốc tế Tiêu chí về thời gian, địa điểm, phương thức phát hành trái phiếu quốc tế 11 Thời gian, địa điểm và phương thức phát hành trái phiếu quốc tế được nghiên cứu và lựa chọn kỹ trong giai đoạn chuẩn bị cho từng đợt phát hành, tạo thế chủ động cho người phát hành. Khi phát hành, các yếu tố này được thực hiện đúng như dự kiến, không bị thay đổi bất ngờ là thành công bước đầu của đợt phát hành. Các đối tượng tham gia phát hành trái phiếu quốc tế Các đối tượng tham gia phát hành trái phiếu quốc tế như nhà bảo lãnh, tư vấn pháp lý, đại lý thanh toán,… có vai trò quan trọng, đặc biệt quan trọng trong những lần phát hành trái phiếu quốc tế đầu tiên, tác động trực tiếp đến kết quả phát hành trái phiếu quốc tế. Lãi suất phát hành trái phiếu quốc tế Là tiêu chí quan trọng nhất của đợt phát hành bởi lãi suất phát hành là chi phí sử dụng vốn trái phiếu quốc tế. Các nhà phát hành phải xem xét cân đối giữa lợi ích thu được và chi phí huy động vốn để đưa ra quyết định phát hành. Các nhà đầu tư tham gia mua trái phiếu quốc tế Tiêu chí này thể hiện mức độ quan tâm của các nhà đầu tư đến trái phiếu quốc tế của quốc gia phát hành. Một đợt phát hành trái phiếu quốc tế thành công thu hút được số lượng lớn các nhà đầu tư quan tâm, thuộc các đối tượng khác nhau và đến từ khắp nơi trên thế giới. 1.2.3. Các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút nguồn v ốn qua phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ 1.2.3.1. Tình trạng kinh tế - tài chính Tình trạng kinh tế tài chính nói chung, bao gồm cả tình trạng kinh tế - tài chính thế giới và trong nước đề có ảnh hưởng quyết định đến việc thu hút và sử dụng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ của bất cứ quốc gia nào. Tình trạng kinh tế - tài chính thế giới có tác động gián tiếp đến việc phát hành trái phiếu quốc tế của các quốc gia cần huy động vốn. Khi kinh tế thế giới tăng trưởng và thị trường tài chính thế giới ổn định tạo ra nguồn lực dồi dào cho các nhà đầu tư quốc tế, nhất là các nhà đầu tư đến từ các khu vực, các quốc gia có đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tăng trưởng, khả năng cung ứng vốn của các nhà đầu tư quốc tế tăng lên sẽ giúp cho các quốc gia cần huy động vốn phát hành trái phiếu quốc tế thuận lợi hơn và ngược lại, khi kinh tế thế giới trì trệ, cung về vốn của các nhà đầu tư quốc tế 12 trở nên hạn chế thì việc phát hành trái phiếu quốc tế của các quốc gia cần vốn sẽ khó khăn hơn. Tình trạng kinh tế - tài chính trong nước của quốc gia phát hành trái phiếu quốc tế ảnh hưởng trực tiếp tới việc huy động và sử dụng vốn từ phát hành trái phiếu quốc tế của quốc gia đó. Bởi đây là nhóm các nhân tố ảnh hưởng lớn nhất tới xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Các biến số kinh tế cơ bản của một số quốc gia như: tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế, kết cấu của tiết kiệm và đầu tư, việc làm và thất nghiệp, thu nhập quốc dân và hộ gia đình,… là những chỉ tiêu quan trọng quyết định mức xếp hạng tín nhiệm của quốc gia đó. Bên cạnh đó, tình trạng tài chính bao gồm cả tình trạng tài chính đối nội và đối ngoại, chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và tác động của chúng, từ đó phản ánh tình hình thu nhập và chi tiêu của một số quốc gia có linh hoạt và an toàn hay không. Tình trạng nợ, bao gồm nợ của chính quyền trung ương và địa phương; nợ trong nước và nợ nước ngoài trên các khía cạnh: tổng số nợ, kết cấu giữa khả năng và nghĩa vụ trả nợ, thời hạn trả nợ và nguồn trả nợ, gánh nặng nợ công (các khoản nợ công và nghĩa vụ nợ trong tương lai thể hiện qua các chỉ số về nợ quốc gia). 1.2.3.2 Hệ số tín nhiệm Yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến việc thu hút vốn qua phát hành trái phiếu quốc tế là hệ số tín nhiệm. Cũng giống như trái phiếu trong nước, giá cả của trái phiếu là một yếu tố quan trọng của trái phiếu quốc tế. Tuy nhiên, khác với trái phiếu trong nước, giá cả của trái phiếu quốc tế phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố sau: Hệ số tín nhiệm quốc gia là chỉ số đánh giá về khả năng tài chính cũng như khả năng hoàn trả đúng hạn tiền gốc và lãi các khoản nợ của một quốc gia. Hệ số tín nhiệm quốc gia càng thấp thì mức độ rủi ro về khả năng không thanh toán được khoản nợ càng cao. Hệ số tín nhiệm có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế. Việc xác định và công bố hệ số tín nhiệm là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Hệ số tín nhiệm quốc gia được các nhà đầu tư xem xét như là một yếu tố để xác định mức độ rủi ro và khả năng sinh lời khi đầu tư vào quốc gia đó. Bên cạnh đó, hệ số tín nhiệm tạo ra căn cứ để xác định mức lãi suất hợp lý, hệ số tín nhiệm càng cao thì mức lãi suất vay càng thấp. Khả năng đầu tư mua trái phiếu sẽ phụ thuộc vào giá cả trái phiếu mà giá cả trái phiếu lại phụ thuộc vào lãi suất, thời hạn thanh toán và các rủi ro của trái phiếu. Trong 13 thực tế, rủi ro phát sinh rất khó dự đoán và mang tính chất bất ngờ. Để giúp các nhà đầu tư tránh khỏi các rủi ro có thể phát sinh, phần bù rủi ro (risk premium) sẽ được tính vào trong giá cả của trái phiếu dựa trên hệ số tín nhiệm của người phát hành trên thị trường tài chính. Xếp hạng tín nhiệm Hệ số tín nhiệm ngắn hạn đánh giá mức độ chắc chắn về sự thanh toán đúng hạn các nghĩa vụ tài chính của người đi vay, bao gồm tất cả nghĩa vụ thời hạn một năm hoặc dưới một năm. Hệ số tín nhiệm dài hạn đánh giá mức độ chắc chắn về sự thanh toán đúng hạn các nghĩa vụ tài chính thời hạn trên một năm của người đi vay. Bảng 1.2. Các hạng mức của hệ số tín nhiệm đối với các công cụ nợ dài hạn Nội dung - Thứ hạng được đánh giá cao nhất - Khả năng trả nợ gốc và lãi mạnh nhất - Chỉ xếp sau thứ hạng mạnh nhất - Khả năng trả nợ gốc và lãi suất cao Standard & Poor’s AAA Moody’s Aaa AA+ Aa1 AA Aa2 AA- Có khả năng thanh toán gốc và lãi vay A+ mặc dù khả năng này cũng có phần bị A ảnh hưởng bởi những thay đổi bất lợi Atrong điều kiện kinh tế nhất định - Có khả năng thanh toán gốc và lãi vay BBB+ - Khi môi trường hoặc kinh tế thay đổi theo chiều hướng xấu thì khả năng trả BBB nợ trở nên suy yếu đi so với các thứ BBBhạng trên - Có tính đầu cơ thấp nhất BB+ - Khả năng trả nợ tốt hơn trong tương lai gần nếu so với các công cụ nợ xếp loại BB thấp hơn - Khi phải đối mặt với các điều kiện kinh tế, tài chính hoặc thương mại bất BBlợi có thể làm cho người đi vay không đủ khả năng để thực hiện các cam kết trả nợ - Chất lượng thấp hơn và có tính đầu cơ B+ cao hơn so với các công cụ nợ xếp loại trên - Có đủ khả năng thực hiện các cam kết B trả nợ trong điều kiện hiện tại 14 Aa3 A1 A2 A3 Baa1 Baa2 Baa3 Ba1 Ba2 Ba3 B1 B2 - Những điều kiện kinh tế, tài chính, BB3 thương mại bất lợi sẽ thực sự làm suy yếu khả năng thực hiện các cam kết trả nợ - Có tính đầu cơ cao CCC Caa - Khả năng thực hiện các cam kết trả nợ phụ thuộc vào điều kiện thương mại, tài chính hoặc kinh tế thuận lợi trong tương lai - Có tính đầu cơ cao nhất CC Ca - Khả năng thực hiện các cam kết trả nợ không cao - Chỉ mức độ vỡ nợ chọn lọc, không có SD khả năng thực hiện một hoặc nhiều cam kết trả nợ khi đến thời hạn - Xếp hạng thấp nhất, đã vỡ nợ hoặc gần D như vỡ nợ, hoàn toàn không có khả năng thực hiện cam kết trả nợ khi đến hạn - Không đánh giá NR NR (Nguồn : Security Analysis and Portfolio Management) Standard & Poor’s sử dụng dấu (+), không dấu hay dấu (-) và Moody’s sử dụng hệ thống 1,2,3 để thể hiện triển vọng của hệ số tín nhiệm. Ví dụ: Aa1, Aa2, Aa3 của Moody’s hay AA+, AA, AA- của Standard & Poor’s. Cụ thể: Bảng 1.3. Triển vọng của hệ số tín nhiệm Standard & Poor’s Moody’s - Triển vọng tích cực, có khả năng được nâng hạng + 1 trong lần đánh giá tới - Ổn định Không dấu 2 - Triển vọng tiêu cực, có khả năng tụt hạng trong 3 lần đánh giá tới (Nguồn : Security Analysis and Portfolio Management) Phương thức đánh giá hệ số tín nhiệm nợ quốc gia Các công ty xếp hạng hệ số tín nhiệm quốc gia đánh giá mức độ tín nhiệm của các quốc gia dựa trên phương thức đánh giá toàn bộ các rủi ro của quốc gia đó đối với nghĩa vụ nợ mà quốc gia đó phải thanh toán. Rủi ro quốc gia còn là khả năng có thể xảy ra khi một Chính phủ hay người đi vay từ một quốc gia cụ thể có thể không có khả năng hay không sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ nợ đối với người cho vay nước ngoài. Khi mà một quốc gia không thực hiện được nghĩa vụ tài chính đề ra thì nó sẽ gây hại đến hoạt động của tất cả các công cụ tài chính khác trong quốc gia đó cũng như đến những 15 quốc gia mà nó có quan hệ. Loại rủi ro này thường được thấy tại các thị trường mới nổi hay các quốc gia bị thâm hụt cán cân thương mại nghiêm trọng. Có nhiều cách phân loại rủi ro quốc gia, các nhà phân tích thường có xu hướng chia rủi ro quốc gia thành 2 loại chính, cụ thể là: Rủi ro chính trị: liên quan chủ yếu đến thể chế chính trị, bộ máy lãnh đạo quốc gia, hình thái kinh tế, tính đồng thuận và khách quan của chính sách kinh tế, chính trị. Rủi ro chính trị thể hiện tính ổn định về mặt chính trị của một quốc gia có thể ảnh hưởng đến khả năng và thiện chí trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của mình. Rủi ro tài chính tăng lên từ các sự kiện như chiến tranh, xung đột nội bộ hay xung đột bên ngoài, khủng bố… dẫn đến những thay đổi trong Chính phủ, thay đổi trong quyền lực kiểm soát Chính phủ, cơ cấu xã hội. Loại rủi ro này bao hàm khả năng tiềm tàng đối với những xung đột bên trong và bên ngoài. Đánh giá rủi ro này đòi hỏi phải phân tích rất nhiều các nhân tố bao gồm mối quan hệ của các đảng phái khác nhau trong một quốc gia, quá trình ra quyết định của Chính phủ và lịch sử của quốc gia đó. Rủi ro kinh tế - tài chính: là những rủi ro gây ra do sự yếu kém của nền kinh tế một quốc gia, là khả năng tài chính của một quốc gia để đáp ứng cho việc thanh toán các khoản nợ nước ngoài. Đánh giá rủi ro kinh tế - tài chính thực hiện thông qua việc đánh giá chính sách tài khóa. Như vậy, rủi ro kinh tế - tài chính phản ánh năng lực chi trả của một quốc gia đối với các khoản nợ của mình trong khi đó rủi ro chính trị lại phản ánh thiện chí trả nợ đó. Theo international country risk guide methodology, trong đánh giá rủi ro quốc gia, rủi ro chính trị quyết định 50%, rủi ro kinh tế quyết định 25% và rủi ro tài chính quyết định 25%. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm có định hướng xếp hạng khá đặc biệt, do đó các tiêu chí đánh giá hình thành nên mức xếp hạng cũng khác nhau. Tùy thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia mà các tổ chức xếp hạng thiết lập nên những tiêu chí cụ thể và mức độ ảnh hưởng của các tiêu chí đó tới thứ bậc xếp hạng rất đa dạng. 1.2.3.3. Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh về mặt giá trị giữa hai đồng tiền của hai quốc gia. Về bản chất, tỷ giá hối đoái chính là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được thể hiện bằng một đơn vị tiền tệ của nước khác. 16 Rủi ro tỷ giá trong phát hành trái phiếu quốc tế là khả năng xảy ra những biến động của tỷ giá hối đói dẫn đến những tác động bất lợi trong hoạt động phát hành, trao đổi và thanh toán trái phiếu khi đến hạn. Khác với trái phiếu trong nước định giá bằng nội tệ, trái phiếu quốc tế được định giá bằng ngoại tệ, do vậy, việc phát hành trái phiếu quốc tế thường lựa chọn loại ngoại tệ có tính ổn định cao, tỷ giá hối đoái ít biến động hoặc dự báo biến động giảm trong thời hạn của trái phiếu. Khi trái phiếu đến hạn thanh toán, nếu tỷ giá hối đoái tăng, tức là đồng tiền nội tệ mất giá, chi phí sử dụng vốn thực tế ngoài lãi suất trái phiếu phải trả định kỳ còn bao gồm cả tỷ lệ mất giá của đồng nội tệ tại thời điểm trái phiếu đáo hạn so với thời điểm phát hành trái phiếu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái giảm, đồng nội tệ tăng giá thì người phát hành trái phiếu sẽ được lợi. 1.3. Kinh nghiệm phát hành trái phiếu quốc tế của một số quốc gia trên thế giới Các nước đang phát triển nói chung có xu hướng sử dụng kênh phát hành trái phiếu quốc tế như nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng. Trong các loại trái phiếu quốc tế được phát hành từ các nước trên thị trường mới nổi, các loại trái phiếu có hệ số tín nhiệm từ B đến BB chiếm tỷ trọng lớn nhất, chủ yếu là phát hành trái phiếu của Chính phủ, các chính quyền địa phương và thường phát hành trái phiếu bằng USD cho những lần phát hành đầu tiên trên thị trường vốn quốc tế. 1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Kịp thời điều chỉnh chính sách vay nợ nước ngoài Trong thời kỳ đầu thực hiện cải cách, mở cửa nền kinh tế, Trung Quốc thực hiện chính sách vay nợ nước ngoài để đầu tư cải tạo cơ sở hạ tầng và nhập khẩu thiết bị tiên tiến. Sau thập niên 80, Trung Quốc bắt đầu vay của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á,...để đầu tư vào các ngành công nghiệp năng lượng, phát triển nông nghiệp, nghiên cứu khoa học, giáo dục... Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu cải cách, Trung Quốc cũng gặp sai lầm trong việc sử dụng vốn vay nước ngoài, khó khăn trong kiểm soát quy mô nợ nước ngoài do có quá nhiều các đầu mối vay nợ. Trung Quốc liên tục phải điều chỉnh tý giá giữa đồng Nhân dân tệ và đồng USD do vấp phải rủi ro tỷ giá gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc vay nợ và trả nợ 17 nước ngoài. Sử dụng vốn vay nước ngoài kém hiệu quả cộng với việc vay nợ tràn lan đã khiến Trung Quốc khó khăn trong việc thanh toán nợ gốc và lãi, phải vay nợ cũ để trả nợ mới. Trước tình hình đó, đâu những năm 90, Trung Quốc đã có những điều chỉnh thích hợp trong chính sách vay nợ nước ngoài như: - Thay vì tập trung vào các khoản vay trực tiếp từ nước ngoài, Trung Quốc chuyển hướng sang vay nợ bằng cách phát hành trái phiếu quốc tế với thời hạn thường là trung và dài hạn. - Chú trọng vay theo dự án, tập trung vào đầu tư cơ sở hạ tầng như giao thông, năng lượng, hay các dự án then chốt của ngành công nghiệp, các dự án nâng cao năng lực, phát triển khoa học kỹ thuật. Sớm thực hiện phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế vào tháng 9/1993 bằng đồng Yên với khối lượng phát hành là 30 tỷ Yên (tương đương 288 triệu USD) thời hạn trái phiếu là 5 năm. Mục tiêu lần đầu tiên Chính phủ Trung Quốc phát hành trái phiếu quốc tế là xác định “điểm chuẩn” quốc gia trên thị trường vốn quốc tế. Tại thời điểm này, hệ số tín nhiệm quốc gia của Trung Quốc được Moody’s xếp hạng A3 và Standard & Poor’s là BBB+. Duy trì phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ với mục tiêu chiến lược Tháng 5/2001 và tháng 10/2003 Trunng Quốc đã phát hành 2 đợt trái phiếu quốc tế với tổng giá trị mỗi đợt phát hành là 1,5 tỷ USD bằng đồng USD và Euro. Tuy nhiên, thời điểm này, mục tiêu phát hành của Chính phủ Trung Quốc chủ yếu xuất phát từ ý nghĩa chiến lược hơn là do nhu cầu cần thiết về vốn. Theo đánh giá của một số chuyên gia kinh tế, thời điểm đó, Trung Quốc phát hành trái phiếu quốc tế trong tình trạng “dư thừa ngoại tệ trong nước” vì Chính phủ Trung Quốc đã bỏ ra khoảng 240 tỷ Nhân dân tệ để mua ngoại tệ trên thị trường nhằm mục đích bình ổn giá đồng Nhân dân tệ. Mục đích phát hành trái phiếu của Chính phủ Trung Quốc nhằm liên tục tiếp cận các nhà đầu tư quốc tế và khẳng định mạnh mẽ sự tham gia tích cực của Trung Quốc trên thị trường vốn quốc tế. Hơn nữa, Chính phủ Trung Quốc muốn tạo tiêu chí và điều kiện cần thiết cho các công ty huy động vốn lớn trung và dài hạn trên thị trường quốc tế. Đồng thời, Trung Quốc muốn đa dạng hoá các nguồn vốn vay và tìm kiếm 18 các khả năng vay trên thị trường tài chính khác nhau bằng các đồng USD, Euro, Yên Nhật và các ngoại tệ khác. Mặt khác, bằng việc phát hành trái phiếu quốc tế, Trung Quốc mong muốn giới thiệu đến các nhà đầu tư quốc tế những thành tựu kinh tế đạt được tại thời điểm đó như tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt trên 8%, tham gia tích cực vào nền kinh tế thế giới thông qua việc gia nhập WTO và tiếp tục đẩy mạnh tiến trình đổi mới kinh tế. Thành công của việc phát hành trái phiếu Chính phủ sẽ thu hút hơn nữa nguồn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Trung Quốc. Hệ số tín nhiệm quốc gia được cải thiện tạo nên thành công cho Chính phủ Trung Quốc trong các đợt phát hành trái phiếu quốc tế Năm 2003, hệ số tín nhiệm của Trung Quốc được nâng lên mức A2 theo Moody’s (từ mức A3 năm 2002) và BBB theo Standard & Poor’s (từ mức BBB - năm 2002). Trong đợt phát hành tháng 10/2003, mức yêu cầu mua của các nhà đầu tư quốc tế đối với trái phiếu Chính phủ Trung Quốc cao gấp 2 lần (cầu trên 3 tỷ USD) so với mức Chính phủ Trung Quốc phát hành (cung 1,5 tỷ USD), lãi suất trái phiếu 4,75% đối với trái phiếu bằng USD và 3,75% đối với trái phiếu bằng Euro. Trái phiếu Chính phủ Trung Quốc được hoan nghênh và được các nhà đầu tư quốc tế đánh giá cao về tầm nhìn chiến lược của Trung Quốc và sự tham gia thường xuyên của Trung Quốc trên thị trường vốn quốc tế. Thành công trên của việc phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ Trung Quốc khẳng định niềm tin của các nhà đầu tư quốc tế và sự ổn định của nền kinh tế Trung Quốc. 1.3.2. Kinh nghiệm của Malaysia Thực hiện phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ từ rất sớm. Chính phủ Malaysia phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên vào tháng 11/1984 với khối lượng phát hành là 600 triệu USD, thời hạn trái phiếu 20 năm (đáo hạn vào tháng 12/2004). Mục đích của đợt phát hành lần đầu tiên cũng như Chính phủ Trung Quốc là xác định “điểm chuẩn” trên thị trường vốn quốc tế, mặc dù hệ số tín nhiệm quốc gia thời điểm đó là Baa1 (theo Moody’s). Chính phủ Malaysia đã lựa chọn thời điểm thuận lợi để thực hiện thành công phát hành trái phiếu quốc tế. Tháng 3/2002 Chính phủ Malaysia quyết định phát hành thêm 750 triệu USD trái phiếu bằng đồng USD với thời hạn 10 năm (đáo hạn tháng 7/2011) với lãi suất 19 bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ cộng thêm 1,75% (vì hệ số tín nhiệm quốc gia của Malaysia được đánh giá là Baa2 (Moody’s) và BBB (Standard and Poor’s). Thời điểm này, Malaysia đã tận dụng cơ hội lãi suất trái phiếu ở kho bạc Mỹ đang ở mức thấp và nhu cầu lớn của thị trường đối với trái phiếu Châu Á do các quỹ đầu tư vào thị trường mới nổi đang chuyển hướng đầu tư từ Châu Mỹ La tinh đến Châu Á. Kết quả phát hành, cầu của các nhà đầu tư quốc tré trên thị trường gấp 4 lần (3,6 tỷ USD) so với cung là 750 triệu USD. Lãi suất trái phiếu được phát hành thấp nhất so với dự kiến ban đầu. Đối tượng các nhà đầu tư mua trái phiếu chính phủ Malaysia đa dạng, các ngân hàng (19%), các nhà đầu tư (34%), các công ty bảo hiểm (18%), các công ty quản lý tài sản (25%) và các ngân hàng (4%) tại Mỹ, Châu Á và Châu Âu. 1.3.3 Kinh ngiệm của Philippines Tương tự Trung Quốc và Malaysia, Philippines cũng phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ lần đầu tiên từ rất sớm. Trái phiếu Brady của Chính phủ Philippines đã có mặt trên thị trường từ tháng 11/1990, với mục tiêu cho ngân sách và đáp ứng nhu cầu vốn, khác với mục tiêu của Chính phủ Trung Quốc và Malysia. Chính phủ Philippines đã lựa chọn được thời điểm phát hành thuận lợi Tháng 1 và tháng 3 năm 2002, Chính phủ Philippines đã phát hành 2 đợt trái phiếu quốc tế với khối lượng là 750 triệu USD và 1 tỷ USD. Lần gần đây nhất là ngày 7/1/2010, Philippines đã phát hành 650 triệu trái phiếu quốc tế với lãi suất 5,67%, đáo hạn vào năm 2020. Tương tự Malaysia, Philippines muốn tận dụng cơ hội lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ ở mức thấp, đồng thời, các quỹ đầu tư vào thị trường mới nổi đang chuyển hướng đầu tư sang Châu Á làm tăng cầu trái phiếu ở khu vực này. Đợt phát hành trái phiếu tháng 1/2002, khối lượng 750 triệu USD, thời hạn 15 năm. Mức yêu cầu mua của các nhà đầu tư quốc tế trong đợt phát hành này đạt tới 2 tỷ USD. Lãi suất trái phiếu được phát hành (UST 6+ 4,375%) thấp nhất so với dự kiến ban đầu (dự kiến trước lúc phát hành là lãi suất trái phiếu sẽ nằm trong khoảng UST + 4,375% đến 4,05%). Rất nhiều quỹ tài chính đầu tư vào thị trường mới trỗi dậy đã đăng ký mua trái phiếu với khối lượng lớn nhằm thay đổi tỷ trọng đầu tư của các quỹ này vào thời điểm đầu năm. Hơn 50% tổ chức và cá nhân mua chưa có đầu tư nào liên quan nào đến Philippines. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan