Chương 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc chuyển từ khai thác sử dụng gỗ rừng tự nhiên sang kinh doanh rừng trồng là
sự phát triển tất yếu của ngành lâm nghiệp ở các nước có ngành lâm nghiệp phát
triển. Trong một vài thập niên gần đây, Việt Nam đang phát triển phạm vi rộng trồng
rừng với các loài cây mọc nhanh nhằm cung cấp gỗ xẻ công nghiệp và cho các ngành
công nghiệp giấy, ván dăm và đóng đồ gia dụng khác. Đây được xem là một chiến
lược để bù đắp sự thiếu hụt nhu cầu về gỗ và đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng
trên thị trường bao gồm cả nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trong những
năm trở lại đây, những loài cây mọc nhanh như cây Keo và Bạch đàn đã được lựa
chọn nhiều nhất. Khoảng 500.000 ha đã trồng thành rừng Keo ở Việt Nam. Trong số
đó, Keo tai tượng A. mangium, Keo lai giữa Keo tai tượng A. mangium và Keo lá
tràm A. auriculiformis là phổ biến nhất bởi tốc độ sinh trưởng nhanh. Tính phổ biến
của cây Keo lai và Keo tai tượng ở Việt Nam được khẳng định bởi sự lan rộng nhanh
ở các rừng trồng trên phạm vi cả nước. Gỗ của các loài cây Keo này không những là
rất thích hợp với nguyên liệu giấy mà còn tăng đối với nhu cầu sử dụng cho công
nghiệp làm đồ gỗ gia dụng. Tuy nhiên năng suất và chất lượng của các rừng trồng
Keo hiện nay vẫn còn hạn chế so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Để kinh doanh rừng trồng, giống đóng một vai trò hết sức quan trọng bởi nó là
nhân tố quyết định đến năng suất và chất lượng của sản phẩm (Lê Đinh Khả, 2011).
Theo Davidson (1996) tiến hành nghiên cứu đối với các rừng trồng kinh tế trồng các
loài cây mọc nhanh ở các nước nhiệt đới cho thấy vai trò của giống chiếm tỷ trọng
60% trong việc tăng năng suất của rừng trồng.
Thấy được vai trò quan trọng của công tác giống cây rừng, từ năm 2000 cho đến
nay với sự ra đời của Chương trình giống cây trồng, giống vật nuôi và giống cây lâm
nghiệp, các nhà khoa học nghiên cứu về giống đã đạt được những thành tựu nổi bật
về việc khảo nghiệm loài/ xuất xứ và thiết lập đươc tập đoàn giống có tính đa dạng di
truyền cao và năng suất cao cho những loài cây mọc nhanh như Keo và Bạch đàn.
Tuy nhiên, công tác giống chỉ mới tập trung ở các vùng sinh thái vùng thấp, trung
du, mà chưa tập trung nhiều đối với vùng núi cao. Đặc biệt vùng núi phía Bắc là nơi
có diện tích trồng rừng Keo rất lớn trong những năm qua, song việc khảo nghiệm
giống đối với loài Keo chưa được tiến hành có hệ thống bởi bị hạn chế bởi điều kiện
1
bố trí thí nghiệm cũng như việc tiến hành khảo nghiệm rất phức tạp ở các điều kiện
đất dốc đòi hỏi chi phí cao. Hơn nữa ở khu vực này không có các trạm thực nghiệm
nghiên cứu giống của mạng lưới giống Quốc gia.
Cả hai loài Keo tai tượng và Keo lai đã được trồng rừng phổ biến ở các tỉnh
Tuyên Quang và các tỉnh phía Bắc cho những năm gần đầy. Tuy nhiên, thông tin của
hầu hết các nguồn giống hạt của Keo tai tượng hoặc là nguồn giống bằng hom của
Keo lai là chưa được xác định rõ ràng. Để đạt được năng suất cao nhất cho việc trồng
các rừng loài Keo này cần thiết tiến hành nghiên cứu khả năng sinh trưởng, khả năng
thích ứng sinh thái và chống chịu sâu bệnh hại của các nguồn giống khác nhau để làm
cơ sở lựa chọn giống cho việc trồng rừng trong những năm tới. Xuất phát từ lí do
trên, việc thực hiện đề tài “Đánh giá khả năng sinh trưởng và tính thích ứng của
các xuất xứ Keo tai tượng (Acasia mangium) và các dòng Keo lai (Acacia
mangium x Acacia auriculiformis) tại
Khu Thực nghiệm Sơn Dương, Tỉnh
Tuyên quang” là hết sức thiết thực.
1.2 . Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn được một số giống Keo tai tượng và Keo lai có khả năng sinh trưởng
vượt trội, chất lượng gỗ tốt phục vụ cho công tác trồng rừng hiện nay đối với vùng
Tuyên Quang nói riêng và vùng miền núi phía Bắc nói chung.
1.3. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá được sự sinh trưởng về đường kính, chiều cao và lượng tăng trưởng
bình quân chung của các xuất xứ Keo tai tượng và các dòng Keo lai.
- Đánh giá khả năng thích ứng sinh thái và chống chịu sâu bệnh hại của các xuất
xứ Keo tai tượng và các dòng Keo lai.
- Khuyến cáo về việc lựa chọn một số giống tốt phục vụ cho công tác trồng rừng
hiện nay đối với vùng Tuyên Quang nói riêng và vùng miền núi phía Bắc nói
chung.
1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Đây là công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống về khảo
nghiệm các xuất xứ Keo tai tượng và các dòng Keo lai ở vùng núi phía Bắc.
2
- Ý nghĩa thực tiễn: Xác định được một số xuất xứ Keo tai tượng và một số dòng
Keo lai có khả năng thích ứng ở địa bàn Tuyên Quang nói riêng và các tỉnh miền
núi phía Bắc nói chung.
3
Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học về vấn đề nghiên cứu
Giống là một trong những khâu quan trọng nhất của trồng rừng, đặc biệt với
đối tượng là rừng trồng sản xuất. Không có giống được cải thiện theo mục tiêu kinh
tế thì không thể đưa năng suất rừng trồng lên cao. Nghiên cứu của Davidson (1996)
về một số loài cây mọc nhanh ở vùng nhiệt đới đã thấy năm đầu sau khi trồng cải
thiện giống chỉ đóng góp 15% của năng suất thì đến năm thứ ba là 50% và năm thứ
sáu là 60%. Vì thế nghiên cứu chọn tạo giống cây rừng là một khâu thể thiếu trong
sản xuất lâm nghiệp.
Trong việc thực hiện dự án trồng rừng, công tác giống có vai trò hết sức quan
trọng. Dù trồng rừng sản xuất hay trồng rừng phòng hộ thì dùng giống có chất
lượng di truyền được cải thiện mới mau đem lại hiệu quả. Chọn loài cây cho trồng
rừng phải căn cứ vào mục tiêu kinh tế và/ hoặc phòng hộ được đặt ra, có thị trường
tiêu thụ nhanh đạt hiệu quả và phù hợp điều kiện lập địa ở nơi gây trồng.
Công tác giống bao gồm nhiều bước đi khác nhau trong đó có 4 khâu quan trọng
nhất là chọn lọc giống, lai giống, khảo nghiệm giống và nhân giống. Trong đó khảo
nghiệm giống là biện pháp không thể thiếu để đánh giá giá trị của giống được chọn
tạo cả về năng suất, tính thích ứng sinh thái lẫn khả năng chống sâu bệnh. Khảo
nghiệm giống có thể được thực hiện ở các mức độ khác nhau: từ khảo nghiệm loài,
khảo nghiệm xuất xứ, đến khảo nghiệm hậu thế của các cây trội và khảo nghiệm dòng
vô tính, cũng như khảo nghiệm các giống lai mới được chọn tạo. Khảo nghiệm giống
không chỉ xác định di truyền và giá trị kinh tế của giống mà còn xác định vùng trồng
thích hợp cho một giống mới được nhập hoặc mới được chọn tạo.
Để tăng năng suất rừng trồng bên cạnh việc sử dụng giống có chất lượng di truyền
được cải thiện thì phải áp dụng các biện pháp thâm canh khác và phải quan tâm đầy
đủ tới công tác bảo vệ rừng. Kết hợp sử dụng giống có chất lượng di truyền được cải
thiện với việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh thích đáng là những biện pháp
tổng hợp để tăng năng suất rừng.
2.1.1. Một số khái niệm liên quan
* Loài (species): Loài là nhóm các sinh vật có các đặc trưng hình thái và đặc điểm di
truyền giống nhau, có khu phân bố địa lý - sinh thái nhất định, có thể giao phối tự do
4
với nhau để cho ra đời sau hoàn toàn hữu thụ và cách ly với loài khác bởi sự khó kết
hợp với nhau về mặt sinh sản hữu tính.
* Nòi địa lí (geographical race): Nòi địa lí là một nhánh phụ của loài bao gồm những
cá thể giống nhau về mặt di truyền, có quan hệ với nguồn gốc chung và chiếm một
lãnh thổ riêng biệt do đã thích ứng với lãnh thổ đó qua chọn lọc tự nhiên (Zobel và
Talbert, 1984).
Theo Zobel và Talbert (1984) thì nòi địa lí và xuất xứ là những khái niệm tương
đồng. Tuy vậy, nòi địa lí là thuật ngữ mang tính sinh thái di truyền, trong lúc xuất xứ
lại mang tính chất là nguồn gốc giống, thường được dùng trong công tác chọn giống.
* Xuất xứ (provenance): Tuỳ theo đặc điểm sinh thái mà mỗi loài cây đều có phạm vi
phân bố nhất định. Loài có biên độ sinh thái rộng thì có phạm vi phân bố lớn, loài có
phạm vi phân bố hẹp thì có phạm vi phân bố nhỏ. Mỗi một khu phân bố có điều kiện
sinh thái đặc trưng được gọi là một xuất xứ (provenance). Xuất xứ là địa điểm của
cây bố mẹ được lấy vật liệu giống (hạt, hom cành, mô, phấn, v.v…). Xuất xứ nguyên
sinh hay xuất xứ tự nhiên là nơi lấy giống từ rừng tự nhiên (trong trường hợp này
xuất xứ đồng nghĩa với nguồn gốc), xuất xứ phát sinh là nơi lấy giống từ rừng trồng.
Các xuất xứ khác nhau thường gắn với các điều kiện sinh thái địa lý khác nhau. Khi
biến dị là liên tục, các xuất xứ chỉ thể hiện khác biệt ở tỉ lệ sống và sức sinh trưởng
thì xuất xứ cũng có nghĩa là tập hợp những điểm dị biệt giữa những sinh vật đồng loại
(cline), còn khi không có sự khác biệt cần thiết thì đó chỉ thuần tuý là nơi lấy hạt hay
nguồn hạt. Vì thế, các xuất xứ có sự khác biệt cần thiết thì hạt cần được thu hái ở
những nơi cách nhau 300m về độ cao và 160km về vĩ độ (Zobel và Talbert, 1984).
* Nòi địa phương (land race): Nòi địa phương là một quần thể của những cá thể đã
thích ứng với điều kiện hoàn cảnh được gây trồng và cho hạt hữu thụ (Zobel và Talbert,
1984).
* Nguồn hạt (seed source): Nguồn hạt là thuật ngữ thuần tuý để chỉ nơi lấy hạt (Zobel
và Talbert, 1984). Thí dụ, Thông ba lá (Pinus kesiya) được lấy giống từ Đà Lạt để
trồng khảo nghiệm ở Zambia (Châu Phi), sau đó hạt giống thu thập từ Zambia lại
được ding để trồng khảo nghiệm ở các nơi khác trên thế giới thì nguồn hạt là Zambia
có xuất xứ gốc vẫn là Đà Lạt. Đồng thời xuất xứ Zambia cũng được gọi là nòi địa
phương (Hansen, 1998). Tuy nhiên trong một số trường hợp người ta vẫn không phân
5
biệt giữa nguồn hạt với xuất xứ (nhất là khi không biết rõ xuất xứ gốc), trong trường
hợp này nguồn hạt mới vẫn được gọi là nòi địa phương.
* Lô hạt (seedlot): Là một khái niệm để chỉ hạt giống được thu hái trong một lần cụ
thể do một nhóm người cụ thể thực hiên ở một khu rừng cụ thể (Zobel và Talbert,
1984). Một lô hạt thường có một số hiệu nhất định. Vì thế một xuất xứ có thể bao
gồm một số lô hạt có chất lượng khác nhau. Thí dụ, trong một khảo nghiệm xuất xứ
cho Bạch đàn trắng Camal (E.camaldulensis) tại Mã Đà (Đồng Nai) xuất xứ Katherin
gồm hai lô hạt là 13801 và 13923. Sau 5 năm lô hạt 13803 có chiều cao là 7,34m,
đường kính là 6,98cm, thể tích thân cây là 0,0178m3/cây thì lô hạt 13923 có các chỉ
tiêu trên tương ứng là 6,72m, 5,54cm, và 0,0102m3/cây (Hoàng Chương, 1996). Vì
vậy khi khảo nghiệm xuất xứ bao giờ cũng phải chú ý đến lô hạt.
* Khảo nghiệm loài là sự tập hợp các nguồn hạt của một số loài cây nhất định theo
mục tiêu kinh tế được đặt ra và xây dựng các khu khảo nghiệm so sánh giống ở một
số vùng sinh thái chính, nhằm chọn ra một hoặc một số loài cây thích hợp nhất cho
mỗi vùng.
* Khảo nghiệm xuất xứ là bước tiếp sau của khảo nghiệm loài, là sự tập hợp nguồn
hạt của những xuất xứ thuộc các vùng sinh thái khác nhau trong những loài đã được
xác định, xây dựng khảo nghiệm, so sánh giống nhằm tìm ra một hoặc một số xuất xứ
tốt nhất, có tỷ lệ sống lớn hơn, năng suất cao theo mục tiêu kinh tế và có khả năng
phòng hộ cũng như chống sâu bệnh và các điều kiện bất lợi khác. Có thể nói chỉ có
thông qua khảo nghiệm loài và xuất xứ nhà chọn giống mới biết được một cách chắc
chắn (mà không phải suy đoán) xuất xứ (nguồn giống) thích hợp để sử dụng cho một
chương trình trồng rừng trên một vùng sinh thái nhất định, đặc biệt là khi đưa cây từ
nơi khác đến.
* Chọn giống cây rừng là lĩnh vực nghiên cứu và áp dụng các phương pháp tạo giống
cây rừng có định hướng như tăng năng suất. Tạo các sản phẩm mong muốn, có tính
chống chịu sâu bệnh v.v…và nhân các giống này để phát triển vào sản xuất.
* Cải thiện giống cây rừng là áp dụng các nguyên lý di truyền học và các phương
pháp chọn giống để nâng cao năng suất và chất lượng cây rừng theo mục tiêu kinh tế
cùng với việc áp dụng các biện pháp trồng rừng thâm canh (Zobel và Talbert, 1984).
6
2.1.2. Vị trí của khảo nghiệm xuất xứ trong công tác giống cây rừng
Cây rừng có đời sống dài ngày, vì thế lợi dụng biến dị tự nhiên ở các mức độ
khác nhau là con đường nhanh nhất và hiệu quả nhất để chọn tạo các giống mới có
năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng các yêu cầu cảu sản xuất. Việc chọn xuất xứ
chính là lợi dụng biến dị tự nhiên sẵn có, là khâu chọn giống mang lại kết quả nhanh
nhất, tạo được giống có tính ổn định di truyền nhanh nhất. Theo Saperon (1994) kết
quả chọn xuất xứ có thể coi là giống xuất xứ và có thể nhân giống hom hàng loạt để
phát triển trực tiếp vào sản xuất, song ở một số loài và một số tính trạng biến dị cá thể
lại có vai trò rất lớn. Khi chọn giống theo tỷ trọng gỗ biến dị cá thể chiếm đến 70%,
trong khi biến dị xuất xứ là 15%, còn biến dị điều kiện lập địa chỉ là 15%.
Khảo nghiệm xuất xứ là một trong những khâu quan trọng của hoạt động cải
thiện giống cây rừng. Sơ đồ chung của hoạt động cải thiện giống cây rừng là:
Rừng tự nhiên hoặc rừng trồng —› khảo nghiệm loài —› khảo nghiệm xuất xứ
—› chọn lọc cây trội—› xây dựng rừng giống và vườn giống —› lai giống —›
nhân giống —› rừng trồng mới.
Khảo nghiệm
loài (chọn loài)
A
Khảo nghiệm xuất
xứ (chọn xuất xứ)
Chọn lọc cây trội
Lai giống
Rừng tự nhiên và
rừng trồng
Khảo nghiệm giống
Rừng giống
chuyển hóa
Rừng giống
Vườn giống
Vật liệu giống
(hạt, hom…)
Rừng trồng mới
Hình 2.1: Sơ đồ chung của cải thiện giống cây rừng
7
Như vậy, khảo nghiệm giống là biện pháp không thể thiếu để đánh giá giá trị
của giống được chọn tạo cả về năng suất, tính thích ứng sinh thái lẫn khả năng chống
sâu bệnh. Khảo nghiệm giống có thể được thực hiện ở các mức độ khác nhau: từ khảo
nghiệm loài, khảo nghiệm xuất xứ, đến khảo nghiệm hậu thế của các cây trội và khảo
nghiệm dòng vô tính, cũng như khảo nghiệm các giống lai mới được chọn tạo. Khảo
nghiệm giống không chỉ xác định di truyền và giá trị kinh tế của giống mà còn xác
định vùng trồng thích hợp cho một giống mới được nhập hoặc mới được chọn tạo.
Qua khảo nghiệm những xuất xứ có năng suất cao nhất và thích hợp nhất với
điều kiện sinh thái của từng vùng sẽ được phát triển vào sản xuất, những xuất xứ
năng suất thấp hoặc không thích hợp sẽ bị loại trừ. Các xuất xứ tốt nhất thường được
dùng để xây dựng rừng giống để lấy giống phát triển vào sản xuất. Đây cũng là những
quần thể làm cơ sở cho việc chọn lọc cây trội và tiếp tục cải thiện giống về sau.
2.2. Lịch sử khảo nghiệm loài và xuất xứ
2.2.1. Trên thế giới
Khảo nghiệm loài và xuất xứ đầu tiên trong lâm nghiệp được Vilmorin tiến hành
cho Thông châu Âu (Pinus silvestris) tại Les Barres gần Paris của Pháp vào năm
1821. Sau đó là khảo nghiệm xuất xứ cho thông rụng lá châu Âu (Larix deciua) do
Cieslar tiến hành tại Vienerwald ở áo vào năm 1887 (Magini, 1974). Trong các năm
1908 và 1938 Hiệp hội các tổ chức nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế (IUFRO) đã tổ
chức khảo nghiệm xuất xứ cho 13 lô hạt của Thông têda (Pinus taeda) được thu nhập
từ 11 nơi của các nước khác nhau (Tewari, 1994). Năm 1926, một khảo nghiệm quốc
tế do 17 xuất xứ Vân sam (Picea abies) được thu nhập từ Pháp, Italia và Áo đã được
xây dựng ở Pháp và Italia (Magini, 1974). Trong các năm 1929 - 1936 nhà di truyền
chọn giống cây rừng Thụy Điển là Langlet đã có một khảo nghiệm đồ sộ cho Pinus
silvestris bằng cách thu hái hạt từ 582 quần thụ thuộc các vùng khác nhau trong cả
nước để gây trồng ở một số vùng sinh thái chính (Tewari, 1994).
Tại Indonesia từ năm 1932 đã có khảo nghiệm xuất xứ cho Tếch (Tectona
grandis). Các xuất xứ Tếch từ Lào, Thái Lan, Myanmar, Ấn Độ và Indonesia đã được
thu thập và xây dựng khảo nghiệm so sánh tại Indonesia (Coster và Eidmann, 1934).
Cuối những năm 1950 hàng loạt khảo nghiệm loài và xuất xứ cho những loài
cây trồng rừng quan trọng nhất đã được xây dựng ở nhiều nước trên thế giới, trong đó
phải kể đến các khảo nghiệm xuất xứ cho Thông Caribê (P. Caribaea) đã được xây
8
dựng ở Fiji vào năm 1955. Đến năm 1968 đã thấy rằng trong các thứ (Varieti) được
khảo nghiệm thì tốt nhất là các xuất xứ của P. caribaea var. Hondurenssis, tiếp đến là
P. caribaea var. bahamensis và cuối cùng là P. caribaea var. caribaea (Bell, 1978).
Các khảo nghiệm sau này ở nhiều nước khác cũng đi đến kết luận tương tự. Khảo
nghiệm xuất xứ cho Thông ba lá (P. kesiya), Thông nhựa (P. merkusii) và một số
loài thông nhiệt đới khác cũng được xây dựng vào thời kỳ này.
Vào những năm 1970 một loạt các khảo nghiệm xuất xứ cho một số loài cây lá
rộng cũng được xây dựng ở nhiều nước nhiệt đới. Đó là Tếch (Tectona grandis), Lõi
thọ (Gmelina arborea), các loài Bạch đàn E. camaldulensis, E.tereticornis,
E.tereticornis, E. urophylla, E. cloeziana và nhiều loài Bạch đàn khác.
Trong những năm 1980 - 1990 khảo nghiệm xuất xứ được tập trung cho các loài
keo nhiệt đới như Keo tai tượng (A. mangium), Keo lá tràm (A. auriculiformis), Keo
lá liềm (A. crassicarpa), v.v…
Đến nay, về cơ bản các nhà chọn giống cây rừng đã biết được các xuất xứ tốt
nhất trong một số loài Bạch đàn và một số loài Keo chủ yếu. Những xuất xứ này có
thể cho năng suất gấp 2 - 4 lần những xuất xứ kém nhất được đưa vào khảo nghiệm.
2.2.2 Ở Việt Nam
Ở nước ta, có thể nói khảo nghiệm loài được bắt đầu từ những năm 1930 khi các
nhà lâm nghiệp người Pháp xây dựng các khu khảo nghiệm cho Lim xanh
(Erythrophloeum fordii), Ngân hoa (Grevillia robusta), Bạch quả (Ginkgo biloba),
Long não (Cinnamomum camphora), Bạch đàn trắng carman (E. camaldulensis),
Bạch đàn đỏ (E. robusta), v.v…ở một số vùng sinh thái chính trong cả nước (Lê Đình
Khả và Dương Mộng Hùng, 2003).
Trong những năm 1950 đã xây dựng được các khu khảo nghiệm loài cho 18 loài
Bạch đàn ở vùng Đà Lạt như E. saligna, E. microcorys, E. camaldulensis, E.
maculate (syn. Corymbia maculate), E. robusta, E. citriodora, E. globulus, E.
botroides, E. maideni, E. longifolia, E. resinifera, v.v…trong đó các loài E.
microcorys và E. saligna có thích ứng khá nhất và sinh trưởng nhanh nhất tại vùng
Đà Lạt. Sau 40 năm có chiều cao 35 - 40m với đường kính ngang ngực 50 - 60cm.
Khảo nghiệm gần đây cho thấy đời sau của những cây này vẫn thể hiện tính ưu việt
về sinh trưởng và hình dáng thân cây và hiện nay vẫn đang được dùng làm cây mẹ để
lấy giống phát triển vào sản xuất (Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng, 2003).
9
Tiếp đó vào những năm 1960 đã xây dựng các khu khảo nghiệm loài tại Đà Lạt
cho một số loài cây lá kim như P. kesiya, P. caribaea, P. patula, P. taeda, P.
massoniana, P. elliottii, P.
radiata, P. taiwanensis, P. pinea, P. longifonia, P.
thumbergii, Fokienia hodginsii, Cupresus benthami, Cupresus pyramidalis, Cupresus
funebris,
Cupresus
macrocarpa,
Calitris
obtuse,
Calitris
robusta,
Calitris
cupresiformis, v.v… Đến nay chỉ còn lại một số loài như P. caribaea, P. patula,
Calitris obtuse, trong đó P. caribaea var. Hondurensis tuy không cho hạt hữu thụ, song
là loài cây rất có triển vọng để cây trồng ở vùng Lang Hanh (có độ cao 900 - 1000m)
của Đà Lạt. Cùng thời gian này một số loài keo (Acacia spp.) cũng được đưa vào khảo
nghiệm mà đến nay loài Keo lá tràm (A. auriculiformis) đã được trồng như một nguồn
giống tại chỗ ở vùng Đông Nam Bộ, còn loài Mimosa (A. podalyriifolia) thì trở thành
loài cây tượng trưng cho Đà Lạt (Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng, 2003).
Từ những năm 1970, việc xây dựng các khu khảo nghiệm loài – xuất xứ cho
một số cây chủ yếu đã được thực hiện ở một số lập địa chính trong cả nước. Đó là các
loài Thông như P. caribaea (với cả ba thứ là P. caribaeae var.Hondurensis, P.
caribaea var.bahamensis và P. caribaea var.caribaea), P. oocarpa, P. kesiya, P.
mercusii và các loài Thông khác. Các loài Bạch Đàn chủ yếu được khảo nghiệm là
Bạch đàn trắng camal (E. camaldulensis), Bạch đàn trắng têrê (E. tereticornis) Bạch
đàn uro (E. urophylla), và các loài E. grandis, E. pelita, E. cloeziana, v.v…Đến nay
chúng ta đã biết được một số xuất xứ có triển vọng nhất của một số loài như P.
caribaea var.hondurensis, P. kesiya, E. camaldulensis, E. tereticornis, E. urophylla,
v.v... Đây là cơ sở cho việc xây dựng các chương trình trồng rừng Việt Nam (Lê Đình
Khả và Dương Mộng Hùng, 2003).
Giai đoạn 1990-2000 một bộ giống gồm 38 xuất xứ Phi lao (Casuarina
equisetifolia) đã được xây dựng ở vùng cát ven biển thuộc các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ
An, Quảng Nam và Bình Thuận, gần đây là khảo nghiệm xuất xứ cho Phi lao đồi
(Casuarina junghuniana) tại Đà Nẵng và Ba Vì (Lê Đình Khả và Dương Mộng
Hùng, 2003).
Trong các năm 1994 - 1995 một loạt các khảo nghiệm xuất xứ cho các loài Tràm
như Melaleuca leucadendra, Melaleuca cajuputi, v.v… cũng được xây dựng trên
vùng đất ngập phèn ở một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long (Lê Đình Khả và
Dương Mộng Hùng, 2003).
10
Gần đây nhất là một số khảo nghiệm xuất xứ cho Xoan chịu hạn
(Azadirachtaindica) được xây dựng ở Ba Vì và Truy Phong (Lê Đình Khả và Dương
Mộng Hùng, 2003).
Có thể nói, khảo nghiệm loài và xuất xứ ở nước ta được tiến hành tương đối
chậm, song đã thực hiện cho nhiều loài cây trồng rừng chủ yếu trên các vùng sinh
thái chính với một nhịp độ khá khẩn trương. Từ đó đã xác định được một số xuất xứ
có triển vọng nhất của một số loài, làm cơ sở cho các chương trình trồng rừng ở Việt
Nam.
Đối với loài cây Keo, từ những năm 1980 một loạt khảo nghiệm cho các loài Keo
vùng đồi thấp đã được xây dựng ở nhiều nơi trong nước. Đó là các loài Keo lá tràm
(A.auriculiformis), Keo tai tượng (A.mangium), Keo lá liềm (A.crassicarpa), Keo nâu
(A.aulococarpa) và Keo quả xoắn (A.cincinnata). Qua một thời gian khảo nghiệm
đến nay chúng ta đã biết những loài có triển vọng cho các chương trình trồng rừng là
A.mangium, A.crassicarpa và A.auriculiformi (Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng,
2003).
Năm 1993 đã tiến hành khảo nghiệm cho hơn 10 loài Keo chịu hạn như A.tumida,
A.difficilis, A.torulosa, v.v… đã được xây dựng tại Tuy Phong (lượng mưa 700-800
mm/năm) thuộc tỉnh Bình Thuận và Ba Vì (lượng mưa 1650mm/năm) thuộc tỉnh Hà
Tây (cũ). Các xuất xứ thuộc 25 loài Keo vùng cao như A.maernsii, A.melanoxylon,
v.v… cũng được xây dựng tại Đà Lạt (1600m trên mặt biển) và núi Ba Vì (600m trên
mặt biển) và một số nơi khác (Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng, 2003).
Lê Đình Khả và cộng sự (2008) cũng đã tiến hành khảo nghiệm các loài Keo vùng
thấp tại Đá Chông- Ba Vì được trồng từ năm 1990, khai thác năm 2007 cho thấy sự
khác biệt rất lớn của giống ở các mức độ loài và xuất xứ. Ví dụ như loài Keo tai
tượng đạt năng suất 22,5m3/ha/năm, thì Keo quả xoán chỉ đạt 3,8m3/ha/năm. Ngay
Keo tai tượng, loài được coi là sinh trưởng nhanh nhất tại Đá Chông cũng có sinh
trưởng hoàn toàn khác nhau giữa các xuất xứ , trong lúc xuất xứ Pongaki (PNG) có
thể đạt năng suất 28,5 m3/ha/năm.
Đối với Keo lai, khảo nghiệm khu vực hóa ở dạng hỗn hợp cho các dòng keo lai
được chọn ( BV5, BV10, BV16, BV29, BV33, BV32) đã dược xây dựng tại 10 địa
điểm từ Hàm Yên (Tuyên Quang) ở 22002’độ vĩ Bắc đến Long Khánh (Đồng Nai) ở
10057’ độ vĩ Bắc có điều kiện khí hậu và đất đai khác nhau trong cả nước. Kết quả
11
theo dõi sau 2-3 năm khảo nghiệm cho thấy Keo lai có thể sống ở tất cả các nơi được
khảo nghiệm. Tuy nhiên, nơi có độ phì cao thì Keo lai sinh trưởng khá hơn nơi có độ
phì thấp, song ở tất cả các khảo nghiệm nơi Keo lai sinh trưởng nhanh gấp 1,5 – 3 lần
các loài keo bố mẹ. Những nơi Keo lai sinh trưởng nhanh nhất là Hàm Yên (Tuyên
Quang), Bình Thanh (Hòa Bình), Phú Lương (Thái Nguyên), Đông Hà (Quảng trị),
Long Thành (Đồng Nai)…Trong 3 năm đầu có thể đạt 19 – 27m3/ha/năm . Những nơi
Keo lai sinh trưởng chậm là Ba Vì (Hà Tây), Đại Lải (vĩnh Phúc) chỉ đạt năng suất
5,7 – 13,5 m3/ha/năm ( Lê Đình Khả và cộng sự , 1999).
Kết quả khảo nghiệm cho một số dòng vô tính ở Quy Nhơn, Long Thành về Keo
lai đã thấy rõ đặc điểm sinh trưởng của một số dòng ưu việt. Số liệu ở Quy Nhơn
thuộc tập đoàn giấy OJI cung cấp cho thấy cả 3 dòng Keo lai (BV 10, BV32, BV16)
được khảo nghiệm ở đây đều sinh trưởng vượt trội hết sức rõ rệt so với các loài Keo
tai tượng và Keo lá tràm được trồng làm đối chứng. Số liệu đo đếm tại Long Thành
cho thấy dòng BV10 là dòng có sinh trưởng nhanh.
Đánh giá chung: Các khảo nghiệm giống để tìm ra một số loài Keo thích hợp cho
trồng rừng ở vùng thấp và trung du ở Việt Nam (như Keo tai tượng A. mangium , Keo
lá tràm A. mangium và Keo lai) đã được nghiên cứu và nhiều công trình đã được xuất
bản. Tuy nhiên các tài liệu về các loài Keo thích hợp cho vùng trung du và vùng cao
đặc biệt là vùng núi phía Bắc là rất hạn chế.
2.3. Một số đặc điểm của cây Keo tai tượng và Keo lai
2.3.1. Một số đặc điểm của cây Keo tai tượng
* Phân loại khoa học:
Giới (regnum): Thực vật (Plantate)
Bộ (ordo): Đậu (Fabales)
Họ (familia): Đậu (Fabaceae)
Phân họ (subfamilia): Trinh nữ (Mimosoideae)
Chi (genus): Keo (Acacia)
Loài (species): Keo tai tượng (A.mangium)
Tên hai phần: Acacia mangium Willd
Tên khác: Keo lá to, Keo đại, Keo mỡ.
12
* Đặc điểm hình thái: Keo tai tượng là cây gỗ trung bình, tuổi thành thục thường cao
trên 15m, đường kính 40-50cm, cây non mới mọc lúc đầu (khoảng 1-2 tuần tuổi) có
lá kép lông chim 2 lần, sau đó mới ra lá thật lá đơn mầu trắng hoặc mầu vàng nhạt, lá
keo to rộng 10cm, hoa màu trắng hoặc vàng, quả xoắn vặn.
* Đặc điểm sinh thái: Keo tai tượng là cây sinh trưởng tương đối nhanh, trong rừng
trồng có thể cao thêm 1,3 - 1,5m, đường kính tăng từ 1,5 - 1,8cm mỗi năm. Từ tuổi 20
trở lên tốc độ sinh trưởng chậm dần. Keo tai tượng ra hoa vào tháng 9 - 10 quả chín
tháng 2-3 năm sau. Cây 3 tuổi có thể ra hoa và kết quả. Keo tai tượng là cây ưa sáng,
sinh trưởng nhanh, rễ có nốt sần, có khả năng tái sinh bằng hạt và chồi tốt. Keo tai
tượng thích hợp khí hậu nhiệt đới ẩm, nhiệt độ bình quân 29 - 30oc, chỉ chịu được
sương giá nhẹ, lượng mưa 1000 - 4500mm/năm. Không có mùa khô kéo dài, Keo tai
tượng sinh trưởng trên đất bồi tụ, dốc tụ sâu, ẩm độ tốt, trên đất xói mòn mỏng lớp
đất khô hạn nghèo dinh dưỡng, chua PH: 4 - 5 vẫn sống, song sinh trưởng kém (Lê
Mộc Châu và Vũ Văn Dũng, 1999).
* Phân bố địa lý: Keo tai tượng phân bố tự nhiên ở đông Bắc Australia, PNG, phía
Đông Indonesia, ở độ cao dưới 100m so với mực nước biển, thường mọc ven sông,
vùng đồng cỏ, rừng ngập mặn, rừng tràm. ở Việt Nam ta hiện nay đang mở rộng
trồng ở hầu hết các tỉnh đồng bằng cũng như trung du đến độ cao 400 - 500m so với
mặt nước biển, trên nhiều loại đất khác nhau: đồi bị xói mòn, chua, nghèo, xấu, khô
hạn... nó vẫn sinh trưởng bình thường và ra hoa kết quả (Lê Mộc Châu và Vũ Văn
Dũng, 1999).
* Giá trị kinh tế: Gỗ Keo tai tượng có nhiều tác dụng, gỗ có giác, lõi phân biệt, tỷ
trọng 0,56 - 0,60, gỗ có sợi dài 1,0 - 1,2mm có thể làm nguyên liệu giấy, bao bì, củi
đun. Keo tai tượng là cây mọc nhanh, tán rậm, thường xanh, rễ phát triển mạnh, dùng
làm cây che phủ đất, cải tạo và bảo vệ ở vùng đất trống đồi núi trọc, nó cũng làm cây
lục hoá, trồng trong công viên, đường phố, lá có thể làm thức ăn gia súc (Lê Mộc Châu
và Vũ Văn Dũng, 1999).
2.3.2. Một số đặc điểm của cây Keo lai
* Phân loại khoa học
Giới (regnum): Thực vật (Plantate)
Bộ (ordo): Đậu (Fabales)
Họ (familia): Đậu (Fabaceae)
13
Phân họ (subfamilia): Trinh nữ (Mimosoideae)
Chi (genus): Keo (Acacia)
Loài (species): Keo lai (Acacia mangium x Acacia auriculiformis)
* Đặc điểm hình thái : Keo lai là sự kết hợp giữa Keo tai tượng (A. mangium) và
Keo lá tràm (A. auriculiformis). Keo lai là cây gỗ nhỡ thường xanh cao tới 20-30m,
đường kính có thể đạt tới 60 – 80cm. Thân tròn thẳng, tán rộng phân cành thấp, vỏ
màu xám nâu nứt dọc. Cây con dưới một tuổi lá kép lông chim hai lần, cây trưởng
thành lá đơn hình trái xoan dài hoặc hình ngọn giáo, đầu tù men thao cuống, phiến lá
dày nhẵn bông, có 3 – 5 gân dọc gắn song song chụm lại ở đuôi lá, các gân nhỏ song
song xen giữa các gân chính. Hoa tự bông dài mọc lẻ hay mọc tập trung ở nách lá hay
ở đầu cành. Hoa đều lưỡng tính mẫu 4, tràng hoa màu vàng, nhị hoa thường vươn dài
ra ngoài hoa. Quả đậu xoắn, hạt hình trái xoan, hơi dẹt, màu đen. Rễ cây mọc rộng có
nhiều nốt sần cố định đạm (Lê Mộc Châu và Vũ Văn Dũng, 1999).
*Đặc điểm sinh thái : Keo lai là cây mọc nhanh ở vùng Đông Nam Bộ có khả năng
sinh trưởng nhanh cả về đường kính và chiều cao, đường kính trung bình có thể đạt
tới 12.8cm và chiều cao trung bình có thể đạt tới 16.9m. Keo lai loài cây ưa sáng,
sống được ở nơi nhiệt độ bình quân là 220C tối thích là 24 - 280C và giới hạn là 400C,
lượng mưa 1500 - 2500mm/năm. Đất đai chủ yếu trồng trên các loại đất Feralit tầng
dày tối thiểu 75cm, đất phù sa cổ, đất xám bạc màu…Mùa ra hoa quả gần như quanh
năm (Lê Mộc Châu và Vũ Văn Dũng, 1999).
* Phân bố địa lý : Keo Lai đã xuất hiện trong các rừng Keo tai tượng vào đầu những
năm 1990 ở một số vùng nước ta, sau đó được gây trồng để lấy giống ở Ba Vì, Hà
Tây. Ở nước ta cây Keo lai được gây trồng rộng rãi trên toàn quốc những năm gần
đây. Cây mọc hầu hết các dạng đất thích hợp nhất là từ Quảng Bình trở ra.
* Giá trị kinh tế : Keo lai thuộc họ đậu nên có tác dụng cải tạo đất tốt, chống xói
mòn. Gỗ thẳng màu trắng có vân, có lõi giác phân biệt, gỗ có tác dụng nhiều mặt:
Kích thước nhỏ làm nguyên liệu giấy, kích thước lớn sử dụng trong xây dựng, đóng
đồ mỹ nghệ, hàng xuất khẩu. Gỗ cho nhiệt lượng cao có thể sử dụng làm củi hoặc
than chạy máy. Cây có hình dáng đẹp có thể trồng làm rừng phong cảnh. Ngoài ra lá
có thể làm thức ăn gia súc như dê, hươu,…
14
2.4. Một số thông tin cơ bản về khu vực nghiên cứu
2.4.1. Điều kiện tự nhiên
2.4.1.1. Vị trí địa lý
Sơn Dương là huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Tuyên Quang, cách trung tâm
Thị xã Tuyên Quang 30 km về phía Đông Nam, có các vị trí tiếp giáp như sau:
- Phía Bắc, giáp huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Phía Đông, giáp huyện Định Hoá và huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
- Phía Nam, giáp huyện Lập Thạch và huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phía Tây, giáp huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và huyện Đoan Hùng, tỉnh
Phú Thọ.
2.4.1.2. Địa hình, địa mạo
Địa hình huyện Sơn Dương bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông suối, đồi núi
cao và các thung lũng sâu tạo thành các kiểu địa hình khác nhau, gồm địa hình núi
cao hiểm trở; địa hình núi thấp và đồi thoải lượn sóng xen kẽ với các thung lũng; địa
hình đồi bát úp và các cánh đồng phù sa nhỏ, hẹp ven sông. Trong đó:
- Vùng 1: Cụm địa hình dọc theo dải núi Tam Đảo, chạy theo hướng Tây BắcĐông Nam, song song với hướng gió mùa Đông Nam, khu vực này chủ yếu là đồi núi
cao.
- Vùng 2: Nằm dọc theo dải sông Phó Đáy. Địa hình chủ yếu là đồi thấp; dọc
con sông này có những thung lũng, bãi bồi không liên tục chịu ảnh hưởng của phù sa
hẹp và dốc theo chiều dòng sông. Vào mùa mưa thường bị ngập nước.
- Vùng 3: Nằm dọc theo dải sông Lô, địa hình chủ yếu là đồi núi cao, xen kẽ
với những khu đồi bát úp ở các xã thuộc vùng hạ huyện.
2.4.1.3. Khí hậu
Khí hậu của huyện Sơn Dương có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu
ảnh hưởng của khí hậu lục địa Bắc Á-Trung Hoa và chia 2 mùa rõ rệt: Mùa hè nóng
ẩm, mưa nhiều, mùa đông khô, lạnh. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22-240C. Nhiệt
độ trung bình các tháng mùa Đông là 160C, nhiệt độ trung bình các tháng mùa hè là
280C. Lượng mưa trung bình hàng năm từ từ 1.500-1.800mm/năm, phân bố không
đều trong năm và được chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa tập trung từ tháng 4 đến
15
tháng 10 trong năm, lượng mưa chiếm khoảng 86% lượng mưa cả năm. Mùa khô
lượng mưa chỉ chiếm 14% lượng mưa cả năm. Tổng số giờ nắng trung bình hàng năm
khoảng 1.500 giờ. Các tháng mùa đông có số giờ nắng thấp, khoảng 40-60giờ/tháng.
Các tháng mùa hè có số giờ nắng cao, khoảng từ 140-160 giờ. Độ ẩm không khí trung
bình hàng năm từ 85-87%. Có 2 hướng gió chính: Mùa đông là hướng gió Đông Bắc
hoặc Bắc; mùa hè là hướng Đông Nam hoặc Nam; tốc độ của các hướng gió đạt 1m/s.
2.4.2. Đất đai và tài nguyên rừng
2.4.2.1. Tài nguyên đất
Theo tổng hợp, trên địa bàn huyện Sơn Dương có các nhóm đất chủ yếu với
quy mô diện tích và phân bố như sau:
a. Nhóm đất phù sa: Chiếm khoảng 4,76% tổng diện tích tự nhiên, trong đó:
- Nhóm đất phù sa ngòi suối: Phân bố chủ yếu trên địa bàn các xã bám dọc
theo sông Lô và sông Phó Đáy; tầng đất dày, thành phần cơ giới cát pha-thịt nhẹ đến
trung bình, thích hợp cho việc trồng cây hàng năm, thường hay bị lũ lụt. Phần lớn loại
đất này thường được sử dụng trồng lúa 1 vụ hoặc lúa 2 vụ, năng suất trung bình thấp.
- Nhóm đất phù sa được bồi hàng năm: Phân bố chủ yếu trên địa bàn các xã
bám dọc theo sông Lô và sông Phó Đáy; tầng đất dày, thành phần cơ giới thị nhẹ đến
trung bình, thích hợp cho việc trồng cây hàng năm, thường hay bị lũ quét, bồi lấp phù
sa và sạt lở đất.
- Nhóm đất phù sa không được bồi hàng năm: Phân bố ở các bậc thềm cao hơn
đất phù sa được bồi tụ hàng năm; tầng đất dày, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung
bình, thích hợp cho việc trồng cây hàng năm, năng suất ổn định.
b. Nhóm đất dốc tụ: Chiếm khoảng 3,89% tổng diện tích tự nhiên, phân bố ở
hầu hết các xã trong địa bàn huyện, trong các thung lũng giữa các dải đồi núi, thành
phần cơ giới thay đổi theo độ cao, đa số là trồng lúa.
c. Nhóm đất bạc màu: Chiếm khoảng 2,48% tổng diện tích đất tự nhiên, phân
bố ở các xã ven chân núi Tam Đảo; đất bị xói mòn, rửa trôi mạnh.
d. Nhóm đất đỏ vàng: Chiếm khoảng 56% diện tích tự nhiên của huyện, trong
đó:
16
- Nhóm đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa: Phân bố hầu hết ở các xã trên địa bàn
huyện; tạo thành các khu ruộng bậc thang ven chân đồi, có độ dốc <80.
- Nhóm đất nâu đỏ trên đá vôi: Phân bố ở các xã Tú Thịnh, Phúc Ứng, Tuân
Lộ, Thanh Phát...thuộc khu vực núi đá vôi, độ dốc<150. Đất có tầng đất dày, khá tơi
xốp, có thành phần cơ giới thịt trung b́ nh đến sét, hàm lượng dinh dưỡng cao và cân
đối, phù hợp với nhiều loại cây trồng dài ngày; thường có đá lộ đầu, về mùa khô
thường bị hạn.
- Nhóm đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất: Chiếm phần lớn diện tích tự nhiên
của huyện, phân bố ở hàu hết các xã trong huyện. Thành phần cơ giới đất chủ yếu là
thịt trung bình, độ dày tầng đất có các mức <50 cm; 50-120cm và >120cm. Đất này
thích hợp với nhiều loại cây công nghiệp dài ngày và các loại cây ăn quả.
e. Nhóm đất vàng đỏ:
- Nhóm đất vàng đỏ trên đá Granit: Phân bố chủ yếu ở các xã ven chân núi
Tam Đảo; thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung, khả năng giữ nước, giữ màu kém,
có độ dốc lớn.
- Nhóm đất vàng trên đá cát kết: Phân bố chủ yếu ở các xã vùng thượng huyện.
Tầng đất và độ dốc thay đổi; thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung bình. Trên loại
đất này phần lớn còn rừng, nơi có độ dốc < 200 có thể được khai thác trồng cây ăn
quả và cây công nghiệp lâu năm; đất dốc >200 cần trồng và bảo vệ rừng.
- Nhóm đất vàng trên phù sa cổ: Phân bố hẹp trên các bậc thềm cao của sông
Lô và Sông Phó Đáy; thường xuất hiện trên địa hình đồi báp úp, thấp và thoải; được
khai thác để trồng cây dài ngày và cây ăn quả.
f. Nhóm đất mùn vàng đỏ trên đá Granít: Chỉ gặp trên núi Tam Đảo
2.4.2.2. Tài nguyên rừng
Kết quả kiểm tra bổ sung hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp tháng 10/2009
huyện Sơn Dương cho thấy diện tích các loại rừng như sau:
17
Bảng 2.1: Diện tích và trữ lượng các loại rừng huyện Sơn Dương năm 2009
Loại đất, loại rừng
Trữ lượng (m3)
Diện tích
Ha
%
Diện tích tự nhiên
52617,06
Đất lâm nghiệp
24.582,07
I. Đất có rừng
21.160,18
100,00
564.779,50
1.1.Rừng tự nhiên
4.477,75
21,16
100.589,50
1.1.1.Rừng gỗ lá rộng
2.914,81
65,01
59.607,95
-
-
-
32,54
0,73
3.254,00
-
Rừng giàu
-
Rừng trung bình
-
Rừng nghèo
1.261,91
28,18
50.476,40
-
Rừng phục hồi
1.620,36
36,19
5.877,55
230,57
5,15
8.069,95
230,57
5,15
8.069,95
1.1.2.Rừng hỗ giao gỗ + tre
-
Gỗ
-
Tre nứa
461,14 nghìn cây
1.1.3.Rừng tre, nứa, giang thuần loại
509,58
11,38
5095,8 nghìn cây
1.1.4.Rừng gỗ núi đá
822,79
18,38
32.911,60
16.682,43
78,84
464.190,00
1.2.1.Rừng gỗ có trữ lượng
9.283,80
55,65
464.190,00
1.2.2. Rừng gỗ chưa có TL
7.155,39
42,89
-
1.2.3. Rừng tre, vầu
63,82
0,38
319,1 nghìn cây
1.2.4. Rừng đặc sản
59,35
0,36
-
120,07
0,72
-
1.2. Rừng trồng
1.2.5. Rừng trồng khác
II. Đất chưa có rừng
3.421,89
(Nguồn: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Sơn Dương)
Theo một số tài liệu nghiên cứu, hệ thực vật rừng huyện Sơn Dương có 904
loài, thuộc 478 chi, 213 họ thực vật bậc cao, trong đó có 64 loài thực vật quý hiếm
được ghi vào sách đỏ Việt Nam. Hệ động vật rừng theo thống kế gồm có 307 loài,
trong đó có 56 loài động vật quý hiếm có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (gồm 22 loài
thú, 9 loài chim, 17 loài bò sát, 7 loài lưỡng cư và 1 loài côn trùng).
2.4.3. Điều kiện kinh tế xã hội
Dân số toàn huyện có 43.370 hộ với 171.795 nhân khẩu. Mật độ dân số bình
quân của toàn khu vực là 46 người/km2; dân số phân bố không đều, chủ yếu tập trung
18
ở thị trấn Sơn Dương, và các xã phía Nam huyện. Trên địa bàn huyện Sơn Dương có
10 dân tộc cùng sinh sống như: Kinh, Tày, Cao Lan, Dao, Sán Dìu, Sán Chí, Nùng,
Mông, Hoa, Mường…. Trong đó, đông nhất là dân tộc Kinh chiếm khoảng 58%, còn
lại các dân tộc khác chiếm khoảng 42%. Số người trong độ tuổi lao động là 95.527
người (chiếm 55,6% dân số). Hiện tại lao động ở khu vực nông thôn mới sử dụng
80% cố ngày làm việc trong năm trên có thể huy động lao động nhàn rỗi cho công tác
bảo vệ và phát triển rừng tại địa phương.
Sản xuất nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản) giữ vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế và ổn định đời sống nhân dân. Trên địa bàn huyện đã
hình thành vùng sản xuất hàng hóa như: Vùng trồng cây công nghiệp (chè, mía), lạc,
đậu tương và cây thực phẩm; ngày càng xuất hiện nhiều hộ chăn nuôi với quy mô lớn
theo phương pháp bán công nghiệp và công nghiệp.
Hoạt động lâm nghiệp chủ yếu là bảo vệ, tu bổ làm giàu rừng và khai thác rừng.
Người dân địa phương phát triển kinh tế nhờ tham gia trồng rừng, chăm sóc rừng,
khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng của chương trình 327, dự án 661 và trồng rừng sản
xuất bằng vốn tự có. Thu nhập từ phần kinh tế rừng đã làm tăng thu nhập, nâng cao đời
sống cho nhân dân, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Đánh giá chung: Điều kiện tự nhiên và xã hội của huyện là thuận lợi và phù
hợp cho phát triển lâm nghiệp đặc biệt đối với phát triển cây Keo tai tượng và Keo
lai.
19
Chương 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các xuất xứ Keo tai tượng ở Thailand, Philippines, Australia và Việt Nam; và các
dòng Keo lai bao gồm giống quốc gia và tiến bộ kỹ thuật của Trung tâm Giống Cây
rừng – Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam được trồng khảo nghiệm tại Trạm nghiên
cứu thực nghiệm giống ở Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (chi tiết ở Mục 3.3.1 và
3.3.2).
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Đánh giá khả năng sinh trưởng của các xuất xứ Keo tai tượng ở giai đoạn vườn
ươm và rừng trồng 1-2 tuổi
3.2.2. Đánh giá khả năng sinh trưởng của các dòng Keo lai giai đoạn tuổi 1-2
3.2.3. Đề xuất lựa chọn một số giống tốt phục vụ cho công tác trồng rừng.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Vật liệu và bố trí thí nghiệm Keo tai tượng
* Nguồn hạt giống Keo tai tượng: Có 9 lô hạt có xuất xứ khác nhau được đưa vào
trồng khảo nghiệm trong nghiên cứu này (Bảng 3.1):
Bảng 3.1: Thông tin về các xuất xứ Keo tai tượng khảo nghiệm
TT
Lô hạt
Loài
Xuất xứ
1
20578
Acasia mangium
SSO KURANDA
Australia
2
20935
Acasia mangium
SSO Siloo – Philippines
3
21034
Acasia mangium
SPA Bavi – Vietnam
4
21071
Acasia mangium
SSO Kuranda 1-PNG Nth - QuenslandAustralia QLD
5
21016
Acasia mangium
SSO Lad Krathing - Thailand
6
20940
Acasia mangium
SSO Bavi Bulk –Vietnam
7
20133
Acasia mangium
BITURI - Papua new guinea
8
20132
Acasia mangium
WIPIM-ORIOMO -Papua new guinea
9
21072
Acasia mangium
SSO Damper-PNG SW - QuenslandAustralia QLD
2
–Quensland-
20
- Xem thêm -