Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở phường hương long – thành phố huế...

Tài liệu đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở phường hương long – thành phố huế

.PDF
81
384
93

Mô tả:

GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Thế giới hiện nay đang không ngừng phát triển, hòa mình vào đó, mỗi quốc gia đều có những chiến lược phát triển của đất nước mình, hầu hết mọi quốc gia đều đi theo con đường công nghiệp hóa, tăng tỉ trọng đóng góp của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp vào thu nhập của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, không vì thế mà vai trò của ngành nông nghiệp lại không còn quan trọng như trước đây. Nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò lớn trong việc phát triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là các nước đang phát triển. Ở những nước này còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Bên cạnh đó, xã hội đang ngày càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực, thực phẩm cũng không ngừng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Vì vậy, bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế một cách nhanh chóng thì quốc gia đó phải đảm bảo được an ninh lương thực. Cũng như mọi quốc gia khác, Việt Nam cũng không thể vượt ra khỏi quy luật này. Dù đang trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhưng Việt Nam vẫn rất chú trọng vào việc đảm bảo an ninh lương thực cho toàn quốc gia, từ một nước phải đi xin viện trợ lương thực, thực phẩm ở quốc gia khác, ngày nay, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lúa gạo đứng nhất nhì trên thế giới. Góp phần tạo nên thành tựu ấy là chính nhờ nỗ lực sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh, địa phương, trong đó có tỉnh Thừa Thiên Huế. Tuy nằm ở miền Trung có thời tiết khắc nghiệt nhưng sản xuất nông nghiệp ở tỉnh không vì thế mà giảm đi. Đặc biệt là một phường nằm bên cạnh thành phố Huế, phường Hương Long. Người dân nơi đây đã gắn bó và có truyền thống sản xuất nông nghiệp từ lâu đời và cây lúa là cây trồng gắn bó với họ trong suốt cuộc đời. SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 1 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân Sản lượng lúa người dân ở phường sản xuất ra chiếm một phần không nhỏ vào sản lượng lúa toàn tỉnh đồng thời mang lại thu nhập đáng kể cho người dân ở phường, góp phần nâng cao đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, sản xuất lúa nói riêng, sản xuất nông nghiệp nói chung vẫn còn gặp một số trở ngại, khó khăn nhất định bởi trong khi giá vật tư biến động, chi phí dành cho các dịch vụ thuê ngoài tăng cao thì giá lúa lại không ổn định và có xu hướng giảm, đồng thời, vốn sản xuất còn thiếu, trình độ lao động nông nghiệp vẫn còn hạn chế, số lượng lao động nông nghiệp đang giảm dần do chuyển sang các ngành nghề, lĩnh vực khác, bên cạnh đó, đất sản xuất nông nghiệp đang bị Nhà nước thu hồi nhằm xây dựng nhà ở, các khu quy hoạch và các công trình khác và một số khó khăn khác như sức khỏe, tuổi tác…của lao động nông nghiệp. Chính vì lẽ đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “ Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở phường Hương Long – thành phố Huế” nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở phường và tìm hiểu những khó khăn, nguyên nhân gây ra khó khăn nhằm đưa ra một số giải pháp chủ yếu khắc phục góp phần nâng cao năng suất lúa cũng như nâng cao thu nhập cho người dân nơi đây. 2. Mục đích nghiên cứu Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng. Đánh giá tình hình sản xuất lúa ở các nông hộ trên địa bàn phường Hương Long. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng suất lúa của các nông hộ. 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp luận: Phương pháp này nhằm xây dựng tiền đề lý luận cho đề tài. Trên cơ sở đó, xem xét các sự vật hiện tượng, sự vận động và biến đổi của nó trong mối quan hệ và liên hệ chặt chẽ với nhau. Thông qua cách nhìn nhận vấn đề đó để có cơ sở đánh giá bản chất các sự vật, hiện tượng trong điều kiện cụ thể tại phường Hương Long.  Phương pháp điều tra thu thập số liệu: o Chọn địa điểm điều tra: căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, tôi đã SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 2 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân chọn điều tra ở các thôn An Ninh Thượng, thôn An Ninh Hạ và thôn Trúc Lâm. o Chọn mẫu điều tra: Tổng số mẫu điều tra là 60 tương ứng với 60 hộ được phân thành 3 nhóm hộ:  Hộ sản xuất lúa ở thôn An Ninh Thượng (KV2)  Hộ sản xuất lúa ở Thôn An Ninh Hạ (KV3)  Hộ sản xuất lúa ở thôn Trúc Lâm (KV1) Tất cả các hộ được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên không lặp. o Thu thập số liệu:  Sơ cấp: Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc thiết kế phiếu điều tra phỏng vấn và tiến hành phỏng vấn trực tiếp 60 hộ được lựa chọn ngẫu nhiên.  Thứ cấp: Số liệu thứ cấp được thu thập từ Hợp tác xã nông nghiệp phường Hương Long, Ủy ban nhân dân phường Hương Long, sách, báo, internet....  Phương pháp phân tổ: căn cứ vào các tiêu thức khác nhau như mức đầu tư chi phí, quy mô đất đai, …của các hộ điều tra mà tiến hành phân tổ có tính chất khác nhau.  Phương pháp phân tích thống kê: từ các số liệu thu thập được, vận dụng các phương pháp số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân, phương pháp so sánh để phân tích sự khác biệt giữa mức đầu tư, năng suất lúa thu được các vụ sản xuất  Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo: Để có thể thực hiện và hoàn thành đề tài này tôi đã trao đổi, tham khảo ý kiến, kinh nghiệm của các cán bộ UBND phường. .4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu: Do khả năng và thời gian có hạn nên tôi chỉ tập trung nghiên cứu kết quả và hiệu quả kinh tế sản xuất lúa và các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả sản xuất lúa của một số nông hộ ở các thôn thuộc phường Hương Long – thành phố Huế.  Phạm vi nghiên cứu: o Không gian: đề tài tập trung nghiên cứu một số nông hộ sản xuất lúa trên địa bàn phường Hương Long. o Thời gian: đề tài tập trung nghiên cứu tình hình sản xuất lúa trên địa bàn phường Hương Long ở hai vụ Đông Xuân, Hè Thu năm 2011. SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 3 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Lý luận chung về hiệu quả kinh tế 1.1.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế - một phạm trù có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, là chỉ tiêu hàng đầu đánh giá chất lượng hoạt động kinh tế - xã hội. Mọi lĩnh vực sản xuất đều lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn đánh giá hoạt động sản xuất của mình bởi với họ, hiệu quả kinh tế là thước đo chính xác và khách quan nhất. Tìm hiểu khái niệm hiệu quả kinh tế ta sẽ hiểu được vì sao hiệu quả kinh tế lại mang một tầm quan trọng đến thế. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh tế: Tiến sĩ Nguyễn Tiến Mạnh đã đưa ra khái niệm hiệu quả kinh tế như sau: “Hiệu quả kinh tế là một phạm trù hiệu quả khách quan phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định”. Theo GS. TS Ngô Đình Giao thì: “Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Bàn về hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp, có rất nhiều tác giả đã đưa ra quan điểm thống nhất với nhau, đó là các tác giả Farrell (1957), Schultz (1964), Rizzo (1979) và Ellis (1993). Các tác giả cho rằng: “Hiệu quả kinh tế được xác định bởi việc so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra (các nguồn nhân lực, tài lực, vật lực, tiền vốn...) để đạt được kết quả đó”. Các tác giả cho rằng, cần phân biệt rõ 3 khái niệm về hiệu quả: Hiệu quả kỹ thuật, Hiệu quả phân bổ các nguồn lực và Hiệu quả kinh tế.  Hiệu quả kỹ thuật: là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 4 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân chi phí hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong điều kiện cụ thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng. Hiệu quả kỹ thuật của việc sử dụng các nguồn lực thể hiện thông qua các mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra, giữa các đầu vào với nhau và giữa các loại sản phẩm.  Hiệu quả phân bổ: là chỉ tiêu hiệu quả trong các yếu tố sản phẩm và giá đầu vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu quả phân bổ là hiệu quả kỹ thuật có tính đến yếu tố về giá đầu vào và giá của đầu ra, vì thế, nó còn được gọi là hiệu quả giá. Xác định hiệu quả này giống như việc xác định các điều kiện về lý thuyết biên để tối đa hóa lợi nhuận, điều này có nghĩa là giá trị biên của sản phẩm phải bằng giá trị chi phí biên của nguồn lực sử dụng vào sản xuất.  Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế trong đó đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Tức là cả 2 yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực sản xuất đạt được. 1.1.1.2. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế o Các nguyên tắc: Nguyên tắc về mối quan hệ về mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả, tiêu chuẩn hiệu quả được tính trên cơ sở mục tiêu hiệu quả. Phân tích hiệu quả của một phương án nào đó luôn luôn dựa trên phát triển mục tiêu. Phương án có hiệu quả cao nhất khi nó đóng góp nhiều nhất cho việc thực hiện các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất. Nguyên tắc tính chính xác, tính khoa học: Để đánh giá hiệu quả của phương án cần được trên các hệ thống chỉ tiêu có thể lượng hoá được hoặc không lượng hoá được tức là phân tích định lượng chưa đủ đảm bảo tính chính xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm. Nguyên tắc về tính giản đơn và tính thực tế: Theo nguyên tắc này, những phương pháp tính toán hiệu quả và hiệu quả kinh tế phải được dựa trên cơ sở của các số liệu thông tin thực, đơn giản, dễ hiểu. Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả được tính toán dựa trên cơ sở yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra. SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 5 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân o Dựa trên kết quả thu được và chi phí bỏ ra, hiệu quả kinh tế được xác định bằng các phương pháp sau:  Dạng thuận : Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra: H Q C Trong đó: H: Hiệu quả kinh tế Q: Kết quả thu được C: Chi phí bỏ ra Công thức này cho biết nếu bỏ ra một đơn vị chi phí sẽ tạo ra được bao nhiêu đơn vị kết quả, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực.  Dạng nghịch : Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được. h C Q Trong đó: h: Hiệu quả kinh tế Q: Kết quả thu được C: Chi phí bỏ ra Công thức này cho biết để đạt được một đơn vị kết quả cần tiêu tốn bao nhiêu đơn vị chi phí. Hai loại chỉ tiêu này mang ý nghĩa khác nhau nhưng có mối liên hệ mật thiết với nhau, cùng được sử dụng để phản ánh hiệu quả kinh tế. Các chỉ tiêu trên còn được gọi là chỉ tiêu toàn phần. o Hiệu quả kinh tế được xác định bằng cách so sánh phần tăng thêm của kết quả thu được và phần tăng thêm của chi phí bỏ ra:  Dạng thuận: Hb  SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 6 Q C GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân Trong đó: Hb: Hiệu quả kinh tế Q : Lượng tăng (giảm) của kết quả C : Lượng tăng (giảm) của chi phí Công thức này cho biết cứ tăng thêm một đơn vị chi phí thì sẽ tăng được bao nhiêu đơn vị kết quả.  Dạng nghịch: hb  C Q Trong đó: hb: Hiệu quả kinh tế Q : Lượng tăng (giảm) của kết quả C : Lượng tăng (giảm) của chi phí Công thức này cho biết để tăng thêm một đơn vị kết quả thì cần tăng thêm bao nhiêu đơn vị chi phí. Tùy theo mục đích nghiên cứu mà ta nên lựa chọn phương pháp xác định hiệu quả cho phù hợp. 1.1.2 Quá trình phát triển nghề trồng lúa và giá trị của cây lúa 1.1.2.1. Quá trình phát triển Nghề trồng lúa ở Việt Nam có lịch sử lâu đời nhất so với nghề trồng lúa ở các nước châu Á. Theo các tài liệu khảo cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... Cây lúa đã có mặt từ 3000-2000 năm trước công nguyên. Tổ tiên chúng ta đã thuần hóa cây lúa dại thành cây lúa trồng và đã phát triển nghề trồng lúa đạt được những tiến bộ như ngày nay. Trước năm 1945, diện tích trồng lúa ở 2 đồng bằng Bắc bộ và Nam Bộ là 1,8 triệu và 2,7 triệu ha với năng suất bình quân 13 tạ/ha và sản lượng thóc tương ứng 2,4-3,0 triệu tấn. Trong thời gian này chủ yếu là các giống lúa cũ, ở miền Bắc sử dụng các giống lúa cao cây, ít chụi thâm canh, dễ đổ, năng suất thấp. Nhà nông có câu” Nhất thì, nhì thục”. Từ năm 1963-1965, ở những vùng SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 7 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân chuyên canh lúa do diện tích nhiều, thường có một số diện tích cấy chậm, bị muộn thời vụ. Nhờ tiến bộ kỹ thuật đã đưa vào một số giống lúa xuân thấp cây, ngắn ngày đã đảm bảo được thời vụ. Đã chuyển vụ lúa chiêm thành vụ lúa xuân, chuyển từ xuân sớm thành xuân chính vụ (80-90%) diện tích và thời kỳ 19851990 sang xuân sớm (5-10%) và 70-80% là xuân muộn. Một số giống lúa xuân đã có năng suất cao hơn hẳn lúa chiêm, có thể cấy được cả hai vụ chiêm xuân và vụ mùa. Do thay đổi cơ cấu sản xuất lúa, kết hợp với áp dụng hàng loạt các tiến bộ kỹ thuật mới nên sản xuất lúa ở Việt Nam ngày càng phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Từ năm 1979 đến 1985, sản lượng lúa cả nước tăng từ 11,8 lên 15,9 triệu tấn, nguyên nhân là do ứng dụng giống mới, tăng diện tích và năng suất. Tính riêng 2 năm 1988 và 1989 sản lượng lương thực tăng thêm 2 triệu tấn/năm. Từ khi thực hiện đổi mới (năm 1986) đến nay, Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc trong sản xuất lúa, đưa nước ta từ chỗ là nước thiếu ăn triền miên đã không những đảm bảo đủ lương thực cho nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu từ 3-4 triệu tấn gạo/năm, đứng hàng thứ 2 trên thế giới về các nước xuất khẩu gạo. 1.1.2.2. Giá trị dinh dưỡng Với những thành phần dinh dưỡng có trong hạt gạo, cây lúa đã cung cấp cho con người nguồn năng lượng để tiến hành những hoạt động sản xuất của mình, dưới đây là bảng giá trị dinh dưỡng của lúa gạo tính theo % chất khô so với một số cây lấy hạt khác Tinh bột: Hàm lượng tinh bột ở cây lúa là 62,4%, là nguồn chủ yếu cung cấp calo. Giá trị nhiệt lượng của lúa là 3594 calo. Tinh bột được cấu tạo bởi Amylose - có cấu tạo mạch thẳng và có nhiều ở gạo tẻ và Amylopectin - có cấu tạo mạch ngang và có nhiều ở gạo nếp. Prôtêin: Các giống lúa ở Việt Nam có hàm lượng Protêin chủ yếu trong khoảng từ 7-8%. Các giống lúa Nếp có hàm lượng prôtêin cao hơn lúa tẻ. Lipit: lượng lipit có chủ yếu ở lớp vỏ gạo. Nếu ở gạo xay là 2,02% thì ở gạo đã xát chỉ còn 0,52%. SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 8 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân Bảng 1: Giá trị dinh dưỡng của lúa gạo tính theo % chất khô so với một số cây lấy hạt khác Hàm lượng Tinh bột Protein Li Pit Xenluloza Tro Nước Lúa 62,4 7,9 2,2 9,9 5,7 11,9 Lúa mì 63,8 16,8 2,0 2,0 1,8 13,6 Ngô 69,2 10,6 4,3 2,0 1,4 12,5 Cao lương 71,7 12,7 3,2 1,5 1,6 9,9 Kª 59,0 11,3 3,8 8,9 3,6 13,0 Loại hạt (Nguồn: www.caylua.vn ) Vitamin: Ở lúa gạo còn có 1 số vitamin nhất là vitamin nhóm B như vitamin B1, vitamin B2,vitamin B6, , PP... lượng vitamin B1 là 0,45 mg/100 hạt (trong đó ở phôi 47%, vỏ cám 34,5%, hạt gạo 3,8%). 1.1.2.3. Giá trị kinh tế Giá trị kinh tế mà cây lúa đem đến cho con người là rất lớn bởi nó là nguồn cung cấp năng lượng lớn nhất cho con người, bình quân tại các nước Châu Á sử dụng 180-200 kg gạo/người/năm, tại các nước châu Mỹ khoảng 10 kg/người/năm. Với dân số trên 80 triệu người, Việt Nam là một trong những nước sử dụng lúa gạo với số lượng lớn bởi 100% người dân Việt Nam sử dụng lúa gạo làm lương thực chính.  Sản phẩm chính của cây lúa: Sản phẩm chính của cây lúa là gạo, dung làm lương thực. Từ gạo có thể chế biến được rất nhiều món, món ăn không thể thiếu hàng ngày đối với người dân Việt Nam là cơm, ngoài ra còn có thể chế biến thành các loại món ăn khác như bún, phở, bánh đa nem, bánh đa, bánh chưng, rượu gạo, bánh tráng, bánh tét, bánh giò và còn hàng chục loại thực phẩm khác từ gạo.  Sản phẩm phụ của cây lúa: o Trấu: sản xuất nấm men làm thức ăn gia súc, vật liệu đóng lót hàng, vật liệu độn cho phân chuồng, hoặc làm chất đốt… SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 9 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân o Tấm: Dùng để sản xuất tinh bột, rượu cồn, Axêtôn, phấn mịn và thuốc chữa bệnh… o Cám : Dùng để sản xuất thức ăn tổng hợp; sản xuất vitamin B1 để chữa bệnh tê phù, chế tạo sơn cao cấp hoặc làm nguyên liệu xà phòng… o Rơm rạ: được sử dụng cho công nghệ sản suất giầy, các tông xây dựng, đồ gia dụng (thừng, chão, mũ, giầy dép), hoặc làm thức ăn cho gia súc, sản xuất nấm... Như vậy, hạt lúa không những là lương thực chính của, mà tất cả các bộ phận khác của cây lúa đều còn được con người sử dụng phục vụ cho nhu cầu cần thiết, ngay cả bộ phận rễ lúa còn nằm trong đất sau khi thu hoạch cũng được cày bừa vùi lấp làm cho đất tơi xốp, được vi sinh vật phân giải thành nguồn dinh dưỡng bổ sung cho cây trồng vụ sau. 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thâm canh sản xuất lúa 1.1.3.1. Yếu tố về tự nhiên - Đất đai Đất đai là nhân tố chính trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng, đất đai cung cấp chất dinh dưỡng cho cây lúa để cây lúa có thể thực hiện những quá trình biến đổi sinh, lý, hóa. Quá trình thâm canh sản xuất ảnh hưởng rất lớn đến độ màu mỡ của đất đai, nếu thực hiện chế độ canh phù hợp với tính chất của đất thì không những đạt được năng suất cao mà còn cải tạo và nâng cao độ phì nhiêu của đất, ngược lại, sẽ làm cho độ màu mỡ đất đai ngày càng giảm và năng suất thu được rất thấp. Do đó, tùy vào tính chất đất đai mà hộ nông dân có biện pháp canh tác hợp lý. - Ánh sáng Ánh sáng ảnh hưởng đến cây lúa trên 2 mặt: o Cường độ ánh sáng ảnh hưởng đến quang hợp. Cường độ ánh sáng thuận lợi cho lúa từ 250-400 calo/cm2/ngày. o Số giờ chiếu sáng trong ngày ảnh hưởng đến sự phát triển, ra hoa, kết quả của lúa sớm hay muộn. -Nhiệt độ Nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến cây lúa, đặc biệt là tốc độ sinh trưởng SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 10 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân nhanh hay chậm của lúa. Với mỗi mức nhiệt độ, lúa lại sinh trưởng với tốc độ khác nhau: Nếu nhiệt độ thấp hơn 130 C thì lúa ngừng sinh trưởng, nếu nhiệt độ thấp kéo dài nhiều ngày lúa có thể chết. Nhiệt độ cao hơn 400C, cây lúa sinh trưởng nhanh nhưng tình trạng sinh trưởng xấu, nếu kéo theo gió lào, ẩm độ không khí thấp thì cây chết. - Lượng mưa Nước rất quan trọng đối với cây lúa vì vậy lúa cần nhiều nước hơn các cây trồng khác, ở từng giai đoạn sinh trưởng khác nhau, lúa cần những lượng nước khác nhau. Trong mùa mưa, lượng mưa cần thiết cho cây lúa trung bình từ 67mm/ngày, trong mùa khô, lượng nước mà cây lúa cần nhiều hơn, khoảng 89mm/ngày. Một tháng cây lúa cần khoảng 200 mm nước. Lượng nước rất quan trọng đối với cây lúa, sự thiếu hụt hay thừa nước đều ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây lúa. 1.1.3.2. Yếu tố về kinh tế - xã hội  Yếu tố về kinh tế - Mức độ đầu tư cho sản xuất lúa Đây là yếu tố có thể coi là quan trọng nhất ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng lúa. Việc đầu tư hợp lý sẽ tạo ra năng suất và cây trồng cao và ngược lại. Nếu đầu tư không hợp lý, không đúng quy trình sẽ làm cho năng suất giảm và hiệu quả sản xuất cũng giảm. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng bao gồm: Giống, các loại phân bón, bảo vệ thực vật, thuỷ lợi... - Điều kiện về chủ trương, chính sách của Nhà Nước Chính sách của Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thâm canh sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng: + Chính sách thuế: Thuế là khoản chi phí đối với sản xuất, làm giảm thu nhập của người sản xuất. Từ đó, thúc đẩy người sản xuất sử dụng có hiêụ quả chú ý đến đầu tư thâm canh để thu được địa tô chênh lệch 2, đồng thời giảm được diện tích bỏ hoang hoá, tăng diện tích đất canh tác và quy mô sản lượng qua các năm. + Chính sách khuyến nông: Để thúc đẩy, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp phát triển, Nhà nước đã ban hành chính sách khuyến nông, đây là một trong những SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 11 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân chính sách quan trọng giúp nhân dân lao động nâng cao năng suất và phẩm chất cây trồng. Trong nhiều năm qua, Nhà Nước đã thực hiện tốt vai trò của người hướng dẫn, đem đến cho hộ nông dân những kiến thức mới.  Yếu tố về xã hội - Lao động Lao động là yếu tố rất cần thiết, không thể thiếu được trong bất cứ ngành sản xuất nào. Quy mô của một ngành lớn hay nhỏ được biểu hiện một phần bởi số lượng và tỷ lệ lao động tham gia sản xuất trong ngành đó. Tuy nhiên, chất lượng lao động ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và hiệu quả của ngành sản xuất đó. Ở nước ta lực lượng lao động rất đông nhưng trình độ lao động còn thấp, lao động chủ yếu là thủ công đơn giản, đặc biệt là lao động nông nghiệp nên đã ảnh hưởng rất lớn đến việc sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu tư thâm canh sản xuất. - Tập quán canh tác Người dân Việt Nam đã gắn bó lâu đời với nghề trồng lúa, mỗi địa phương có những tập quán canh tác khác nhau. Đây là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất và sản lượng lúa. Nếu tập quán canh tác lạc hậu sẽ hạn chế tái sản xuất mở rộng, hạn chế mức đầu tư thâm canh và áp dụng tiến bộ khoa học mới vào sản xuất, khuyến khích người dân đổi mới tập quán canh tác, đồng thời tăng cường công tác khuyến nông giúp người dân thấy được tầm quan trọng của việc áp dụng tiến bộ khoa hoc kỹ thuật vào sản xuất là điều kiện cần thiết. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã và đang tác động rất lớn đến tập quán người sản xuất nói chung và sản xuất lúa nói riêng. Tiến bộ về giống, khâu làm đất, khâu chăm sóc...giúp người dân được giải phóng. Điều đó đòi hỏi các ban ngành làm tốt công tác dồn điền đổi thửa, đảm bảo ruộng đất tập trung liền khoảnh đủ lớn có thể đưa máy móc đến ruộng đồng. - Thị trường tiêu thụ và giá cả Trong sản xuất hàng hoá, thị trường là cầu nối giữa người mua và người bán. Việc xác định thị trường cho ngành sản xuất lúa có tác dụng quan trọng nhằm xác định đúng phương hướng, mục tiêu để có thể xây dựng các vùng sản xuất tập trung đáp ứng nhu cầu của xã hội. Ngày nay, nhu cầu về các sản phẩm SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 12 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân lại rất phong phú và đa dạng. Vì vậy, cần có sự kết hợp giữa các ban ngành và nhân dân là hết sức cấp bách để xác định diện tích cây trồng, giống hợp lý. Ngoài giá cả sản phẩm lúa, giá cả các yếu tố đầu vào cũng là một trong những yếu tố tác động đến sản xuất, chúng là chi phí sản xuất. Do vậy, sự tăng lên hay giảm xuống của chúng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đầu tư thâm canh sản xuất của hộ nông dân. 1.1.4. Kỹ thuật thâm canh cây lúa o Làm đất -Vệ sinh đồng ruộng, phát bờ, diệt cỏ để diệt sạch cỏ dại và tàn dư sâu bệnh. - Cày ải để đất hoai mục nhằm diệt mầm mống sâu bệnh và hoai mục gốc lúa. Sau đó cày trở lại và bừa kỹ, bằng phẳng và lên luống. - Bón lót phân chuồng, phân vi sinh hoặc phân lân. o Thời vụ sạ lúa Bảng 2: Thời vụ sạ lúa Vụ TGST Ra giống Sạ 09–19/01 12–22/01 (02–12/12) (05–15/12) 02–12/06 05–15/06 (29/04–09/05 ÂL ) (02– 2/05 ÂL) ( Ngày) Đông Xuân 120  05 Hè Thu 90-95 (Nguồn: Hợp tác xã nông nghiệp phường Hương Long) o Chăm sóc, bón phân sau khi sạ Sau khi sạ 1–3 ngày, phun thuốc diệt cỏ. Sau 20 ngày trong vụ Đông Xuân và 15 ngày vào vụ Hè Thu, bón phân thúc đợt 1 rồi tiến hành tỉa dặm khi lúa có 2,53-4 lá. Sau 30 ngày trong vụ Đông Xuân và 25 ngày vụ Hè Thu, bón phân thúc đợt 2. Sau 50 ngày trong vụ Đông Xuân và 45 ngày vụ Hè Thu, bón phân thúc đòng. Tùy theo tình hình sâu bệnh mà phòng trừ và chăm sóc kịp thời. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1.. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam Là một đất nước gắn liền với nền văn minh lúa nước, người dân Việt Nam SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 13 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân đã gắng liền với cây lúa qua hằng thế kỷ. Tuy đang trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, Việt Nam vẫn tiến hành sản xuất nông nghiệp một cách có hiệu quả, tình trạng thiếu lương thực đã không còn tồn tại mà thay vào đó Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Mặc dầu diện tích giảm dần qua các năm nhưng với những áp dụng khoa học kỹ thuật kết hợp những biện pháp canh tác hợp lý, đồng thời đưa những giống lúa mới năng suất tăng đáng kể và làm cho sản lượng cũng tăng theo qua các năm. Diễn biến thay đổi về diện tích, năng suất và sản lượng được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Kết quả sản xuất lúa của Việt Nam giai đoạn 2009 - 2011 Chỉ Tiêu 2010/2009 ĐVT 2009 2010 2011 SL TL (%) 2011/2010 SL TL (%) Diện tích 1000 ha 7.437,2 7.513,7 7.600,0 76,5 1,03 86,3 1,15 Năng suất Tạ/ha 52,4 53,2 55,0 0,8 1,53 1,8 3,38 Sản lượng 1000 tấn 38.950,2 39.988,9 42.200 1038,7 2,67 2.211,1 5,53 (Nguồn:Tổng cục thống kê) Diện tích gieo trồng có xu hướng tăng nhưng không đáng kể do chuyển đổi diện tích nuôi trồng thủy sản kém hiệu quả sang trồng lúa, khai hoang… Diện tích tích lúa cả ba giai đoạn 2009 – 2011 đã tăng 162,8 nghìn ha (từ 7.437,2 ha lên 7.600,0 ha). Năng suất lúa trung bình cả nước tăng 2,6 tạ/ha, từ 52,4 tạ/ha lên 55,0 tạ/ha. Có thể thấy năm 2011 là năm cho sản lượng và năng suất cao nhất: Sản lượng đạt 42.200 nghìn tấn và năng suất là 55,0 tạ/ha. Càng ngày, sản lượng lúa gạo Việt Nam càng tăng. Sản lượng lúa cả nước tăng gần 3249,8 nghìn tấn (từ trên 38.950,2 nghìn tấn lên 42.200 nghìn tấn). Điều này có được là nhờ sự nỗ lực của người dân, sự quan tâm của Đảng và nhà nước, các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế áp dụng những giống lúa mới... Nhìn chung ngành sản xuất nông nghiệp Việt Nam có được kết quả như vậy là nhờ việc thực hiện các chủ trương chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, thực hiện việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mà đặc biệt là khoa SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 14 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân học về di truyền giống lúa có vai trò rất to lớn. Bộ giống lúa thường xuyên được chọn lọc lai tạo, giữ gìn và bỗ sung, thay thế nhằm để bảo tồn những giống quý, có năng suất cao, phẩm chất tốt và phù hợp với từng điều kiện tự nhiên khác nhau bởi những giống lúa khác nhau, loại bỏ những giống kém chất lượng, hiệu quả kinh tế thấp, đồng thời tích lũy và tái tạo, phát triển những bộ giống có năng suất cao, phẩm chất tốt, chống chịu được với từng điều kiện bất lợi của môi trường. Trên cơ sở đó dự báo Việt Nam có khả năng xuất khẩu đến 4,5 triệu tấn gạo năm 2020. 1.2.2. Tình hình sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế Thừa Thiên Huế là một tỉnh nằm ở duyên hải miền Trung, tuy phải chịu nhiều trận lũ lụt, hạn hán nhưng sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh không vì thế mà giảm đi, sản xuất nông nghiệp vẫn được chú trọng dù đang tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với đất nước . Bảng 4: Tình hình sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế 2009-2011 Diện tích Năng suất Sản lượng (nghìn ha) (tạ/ha) (nghìn tấn) 2009 53,1 53,2 282,6 2010 53,7 53,5 287,5 2011 53,5 56,34 301,7 Năm (Nguồn: Tổng cục thống kê) Diện tích tích lúa của tỉnh giai đoạn 2009–2011 đã tăng 0,4 nghìn ha (từ 53,1 ha lên 53,5 ha). Năng suất lúa trung bình tăng 3,14 tạ/ha, từ 53,2 tạ/ha lên 56,34 tạ/ha. Sản lượng lúa của tỉnh tăng 19,1 nghìn tấn (từ trên 282,6 nghìn tấn lên 301,7 nghìn tấn). Có được kết quả này là bởi người dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã áp dụng những giống lúa mới có năng suất và chất lượng cao, chú ý hơn đến kỹ thuật bón phân và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, áp dụng những biện pháp thâm canh, tiến hành cơ khí hóa và sản xuất nông nghiệp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống thủy lợi, áp dụng đồng bộ những tiến bộ khoa học kỹ thuật… Tuy mỗi năm phải chịu nhiều trận đại hồng thủy, nhưng người dân Thừa Thiên Huế đã biết vượt qua khó khăn, tìm tòi các biện pháp khoa học kỹ thuật SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 15 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng lúa gạo sản xuất ra. Bên cạnh đó được sự hổ trợ của chính quyền địa phương, tỉnh, chính sách của nhà nước mà sản xuất lúa của tỉnh Thừa Thiên Huế có được kết quả như hiện nay. 1.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lúa 1.3.1. Chỉ tiêu đánh giá đặc điểm chung của nông hộ o Tuổi o Trình độ học vấn o Tổng số nhân khẩu o Tổng số lao động… 1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá mức độ đầu tư các yếu tố sản xuất o Chi phí đầu tư phân bón/sào o Chi phí đầu tư giống/sào o Chi phí đầu tư thuốc bảo vệ thực vật/sào o Chi phí đầu tư thủy lợi/sào o Chi phí đầu tư máy tuốt lúa/sào o Chi phí đầu tư máy gặt lúa/sào 1.3.3. Chỉ tiêu đánh giá nguồn lực của nông hộ o Quy mô đất đai o Quy mô trang bị tư liệu sản xuất 1.3.4. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất lúa o GO (Giá trị sản xuất): Là toàn bộ giá trị của cải vật chất do lao động sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định. GO thường tính theo công thức sau: GO = Q P i i Trong đó: Qi là lượng sản phẩm i sản xuất ra Pi là giá sản phẩm loại i o IC (Chi phí trung gian): Bao gồm những khoản chi phí vật chất và dịch vụ thuê ngoài được sử dụng trong quá trình sản xuất nông nghiệp. o VA (Giá trị gia tăng): Là kết quả cuối cùng thu được sau khi trừ đi chi phí trung gian một hoạt động sản xuất kinh doanh. VA = GO - IC SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 16 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân 1.3.5. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất lúa o Giá trị sản xuất trên chi phí trung gian (GO/IC): Chỉ tiêu này cho biết việc bỏ ra một đồng chi phí trung gian đầu tư thu được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất. o Giá trị gia tăng trên chi phí trung gian (VA/IC): Chỉ tiêu này cho biết sẽ có bao nhiêu thu nhập được đem lại từ một đơn vị chi phí trung gian bỏ ra. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh tế. o Giá trị gia tăng trên giá trị sản xuất lúa (VA/GO): Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng giá trị sản xuất tạo ra bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 17 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân CHƯƠNG II ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ SẢN XUẤT LÚA TRÊN ĐỊA BÀN PHƯỜNG HƯƠNG LONG, THÀNH PHỐ HUẾ 2.1. Điều kiện tự nhiên của phường Hương Long 2.1.1. Vị trí địa lý Hương Long là một phường vùng ven của thành phố Huế cách trung tâm thành phố Huế 7km về phía Tây Bắc giới hạn bởi:  Phía Đông giáp với phường Kim Long.  Phía Tây giáp phường Hương Hồ.  Phía Nam giáp phường Thủy Biều.  Phía Bắc giáp phường Hương An, Huyện Hương Trà. Tổng diện tích tự nhiên của phường Hương Long là 719,45 ha, có 4 khu vực: An Ninh Hạ (KV3), An Ninh Thượng (KV2), Trúc Lâm (KV1) , Xuân Hòa (KV4) và 18 tổ dân phố.Địa bàn có 3 con sông chảy qua là sông Bạch Yến, Cổ Bưu, sông Hương, trong đó sông Bạch Yến chảy qua trung tâm của phường và chia thành 2 cụm dân cư. Do vậy đó là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế xã hội trên địa bàn toàn phường. 2.1.2. Địa hình, địa mạo Hương Long là phường thuộc thành phố Huế, nằm ở hạ lưu sông Hương, địa hình mang tính đặc thù của duyên hái miền trung, địa hình dốc và thấp từ tây sang đông là vùng bán sơn địa nên trong sản xuất nông nghiệp có nhiều thuận lợi như tưới tiêu chủ động . Địa hình ở phường phân bố tương đối rõ nét, bao gồm ba loại và đi đôi với nó là cơ cấu trồng trọt đặc trưng: - Loại địa hình cao thường trồng màu, rau, đậu, có nơi trồng lúa, vừng hoặc hoa các loại. - Loại địa hình vừa chiếm diện tích đa số của phường, thường có hai vụ lúa, ngô, lạc. SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 18 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân - Loại địa hình thấp: có diện tích nhỏ nhưng phân bố tập trung thuận tiện cho việc tưới tiêu sản xuất và có hàm lượng dinh dưỡng cao. Tuy nhiên do địa hình mang tính chất thấp và dốc nên đã làm cho đất đai đã bị xói mòn hàng năm, làm cho đất kém màu mỡ, độ phì thấp nên việc sử dụng đất gặp nhiều khó khăn hơn. 2.1.3. Thời tiết, khí hậu Phường Hương Long nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và điều kiện khắc nghiệt, mang những đặc điểm: nắng lắm, mưa nhiều, độ ẩm cao. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 25,50C, lượng mưa trung bình 1995mm, độ ẩm trung bình 85%. Tuy nhiên ở dây có 2 mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau. Nhiệt độ trung bình vào các tháng này là 210C. Do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên mưa nhiều, thường tập trung vào các tháng 9, 10, 11 chiếm trên 50% lượng mưa của năm nên thường gây ra ngập lụt, kết hợp với địa hình dốc gây ra xói mòn rữa trôi, ảnh hưởng đến gieo trồng và chăn nuôi. Mùa khô bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8. Nhiệt độ trung bình vào các tháng mùa khô 300–320, có khi lên đến 390C, độ ẩm thấp 70%. Vào các tháng mùa này hạn hán thường xuyên xảy ra, tình trạng thiếu nước nghiêm trọng. Với điều kiện khí hậu này địa phương phải lựa chọn bố trí cây trồng hợp lý, cần căn cứ vào điều kiện tự nhiên để xây dựng thời vụ sản xuất phù hợp, đảm bảo sự an toàn cho cây trồng vật nuôi. 2.1.4. Chế độ thủy văn Phường Hương Long có điều kiện tự nhiên rất tốt: một phần sông Hương chảy qua địa phận của phường, bên cạnh đó có hai nhánh của sông Hương là sông Bạch Yến và sông Cổ Bưu chảy qua trung tâm của phường. Các con sông này có lượng nước lớn và ổn định cho việc tưới tiêu phục vụ cho nông nghiệp. 2.2. Điều kiện kinh tế xã hội 2.2.1. Tình hình sử dụng đất đai Đối với sản xuất nông nghiệp, đất đai vừa là tư liệu sản xuất chủ yếu vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt bởi nó vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động.Hàng năm diện tích đất đai biến động không ngừng bởi mỗi năm từng địa SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 19 GVHD: Th.S Nguyễn Hữu Xuân phương có những kế hoạch sản xuất khác nhau. Đặc biệt là đất nông nghiệp. Tìm hiểu tình hình sử dụng đất đai qua 3 năm 2009 - 2011 phường Hương Long ta có thể thấy rõ điều này. Vào năm 2009, đất nông nghiệp chiếm diện tích lớn nhất là 363,39 ha, chiếm 50,51% trong tổng số đất tự nhiên. Trong đó đất sản xuất nông nghiệp, chiếm lớn nhất 49,12%; đất trồng cây hàng năm vẫn được chú trọng hơn cây lâu năm, diện tích trồng cây hàng năm chiếm 48,71%, trong khi cây lâu năm chỉ chiếm 0,41% bởi cây hàng năm có chu kỳ sản xuất ngắn, cho kết quả thu hoạch sớm, bên cạnh đó phường đang có chủ trương áp dụng những giống mới cho năng suất cao: giống lúa CLC, ngô nù... SVTH: Lê Thị Ngọc Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan