Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lú ở xã thuỷ tân, thị xã hương thuỷ, tỉnh thừ...

Tài liệu đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lú ở xã thuỷ tân, thị xã hương thuỷ, tỉnh thừa thiên huế

.PDF
57
279
67

Mô tả:

ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài. Lương thực là một trong những nhu yếu phẩm tối thiểu cần thiết của con người. Trong đó lúa gạo là nguồn lương thực chính cho khoảng 2/3 số người trên toàn cầu. Trong khi dân số thế giới tiếp tục gia tăng thì diện tích trồng lúa có xu hướng ngày càng giảm. Do đó vấn đề anh ninh lương thực thế giới trong tương lai vô cùng cấp thiết. Theo dự đoán của các chuyên gia về dân số học, nếu dân số tiếp tục gia tăng trong vòng 20 năm tới thì sản lượng lua gạo phải tăng 80% mơi đảm bảo được về vấn đề an ninh lương thưc của thế giới. Đây là điều kện tối cần thiết để đảm bảo cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội toàn cầu. Sự đổi mới về kinh tế của Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu đáng kể, mà trước hết phải kể đến là thắng lợi cảu ngành nông nghiệp. Sản lượng lúa tăng nhanh từ 11,6 triệu tấn ănm 1975 đến năm 2007 đạ sản lượng 40,6 triệu tấn, nghĩa tăng gấp 3,7 lần. Từ một quốc gia thiếu lương thực Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn đứng thứ hai trên thế giới với 4,2 triệu tấn mỗi năm. Xã Thuỷ Tân thụôc thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế là một xã đồng bằng có thu nhậpchủ yếu từ cây lúa nước. Người dân có truyền thồng trồng cây lúa nước từ lâu đời, những năm qua cấp uỷ Đảng, chính quyền đặc biệt quan tâm cùng với các chính sách hỗ trợ của nhà nước, sản lượng lúa tăng đáng kể, năng suất lúa bình quân năm 2003 la 152,4tạ/ha đến năm 2007 là 172,2 tạ/ha . Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hiệu quả kinh tế của việc trồng lúa ở xã nhà chưa được đánh giá một cách khoa học và chính xác. Từ thực tiễn của vấn đề, trong thời gian thực tập cuối khoá tôi đã chọn chuyên đề “Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất lú ở xã Thuỷ Tân, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế” để làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích: - Đánh giá đúng tiềm năng, thực trạng sản xuất lúa của địa phương trong những năm qua. 1 - Nhận thức được khó khăn, hạn chế đối với sản xuất lúa. - Khẳng định vai trò của cây lúa trong kinh tế nông hộ - Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả từ kinh tế sản xuất lúa của các nông dân trên địa bàn xã. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả sản xuất lúa của các nông hộ trên địa bàn xã Thuỷ Tân. Điều tra điển hình một số hộ sản xuất lú ở hai thôn Tân Tô và thôn Tô Đà. Phạm vi nghiên cứu. Về phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu hai thôn sản xuất lúa điển hình của xã, là thôn Tân Tô và thôn Tô Đà. Về phạm vi thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu hai thôn sản xuất lúa của các hộ ở cả hai vụ ĐX và HT 4. Phương pháp nghiên cứu. - phương pháp duy vật biện chứng: là cơ sở nghiên cứu xuyên suốt đề tài - Phương pháp điều tra phỏng vấn: Xây dựng mẫu điều tra Tiến hành điều tra 31 hộ gia đình trồng lúa ở xã Thuỷ Tân, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế để đánh giá hiệu quả trồng lúa. - Phương pháp tổng hợp và phân tích - Phương pháp phân tổ thống kê - Phương pháp chuyên gia: để thực hiện đề tài này tôi đã trao đổi với một số cán bộ HTX nông nghiệp Thuỷ Tân và một số hộ trồng lúa để kiểm chứng kết quả trồng lúa 2 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1 Lý thuyết về hiệu quả kinh tế 1.1.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh tế Hiệu quả là thuật ngữ chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện và các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Hay nói một cách chung nhất: kết quả mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình lớn hơn chi phí bỏ ra bao nhiêu càng có lợi bấy nhiêu. Hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế là thước đo trình độ tổ chức và quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp, GS-TS Ngô Đình Giao cho rằng “Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước”.TS Nguyễn Mạnh Tiến cho rằng “ Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định”. Về mặt khái quát ta có thể cho rằng “Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế biểu hiện sự tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu phản ánh trình độ khái quát khai táhc các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu đề ra”. Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Công thức được xác định như sau: H = Q/C Trong đó: H : Hiệu quả kinh tế Q : Kết quả thu được C : Chi phí bỏ ra 3 Bản chất của hiệu quả kinh tế là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối liên hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế gắn liền với nhau quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội đó là quy luật năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh tế là đạt kết quả tối đa với một chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt được kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây đựôc hiẻu theo nghĩa rộngbao gồm các chi phí để tạo ra nguồn lực, đồng thời phải bao gồm các chi phí cơ hội. Hiệu quả kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế đạt được với chi phí kinh tế bỏ ra để đạt được kết quả đó. Quan hệ so sánh ở đây là quan hệ so sánh tương đối. Quan hệ tuyệt đối chỉ có ý nghĩa trong một phạm vi rất hẹp. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đựơc đánh giá thông qua một hoặc một số chỉ tiêu nhất định. Những chỉ tiêu hiệu quả này phụ thuộc chặt chẽ vào mục tiêu hoạt động của chủ thể. Vì vậy, phân tích hiệu quả của các phương án cần xác định rõ chiến lược phát triển cũng như mục tiêu của mỗi chủ thể trong từng giai đoạn phát triển. Những mục tiêu trong hoạt động doanh nghiệp mà doanh nghiệp quan tâm có liên quan tới lợi nhuận ổn định là mcụ tiêu bao trùm nhất, tổng quát nhất. Cho đến nay, khi phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh nhiều người thường dùng lợi nhuận để làm cơ sở phân tích. Hiệu quả kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế nói riêng và phát triển xã hội nói chung. Vì vậy một mặt tận dụng và tiết kiệm các nguồn lực hiện có, mặt khác thúc đẩy tiến bộ khoa học cộng nghệ, tiến nhanh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. 1.1.1.2. Lý thuyết về tiêu thụ - Khái niệm kênh phân phốise Lưu thông phân phối hàng hoá là khâu kêt nối sản xuất với tiêu dùng, kết nối các ngành kinh tế với nhau, cac doanh nghiệp với nhau. Trong nền kinh tế, trình độ xã hội hoá sản xuất ngày càng cao, thị trường ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, hình thành mạng lưới vô cùng phức tạp và rộng lớn thì hoạt động lưu thông hàg hoá ngày càng trở nên sôi động với nhiều hình thức kênh phong phú. Đối với các 4 doanh nghiệp nói chung, các trang trại và doanh nghiệp nói riêng, việc lụa chọn các kênh phân phối thích hợp với sản phẩm kinh doanh của mình, tổ chức có hiệu quả các kênh đó được coi là chiến lược quan trọng. Hoạt động lưu thông phân phối hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng được thực hiện qua các kênh phân phối. Kênh phân phối là tập hợp những cá nhân, những tổ chức hay các doanh nghiệp tham gia vào quá trình tạo ra dòng vận chuyển hàng hoá, dịch vụ từ người sản xuất đến tiêu dung - Kênh phân phối giống cây trồng, vật nuôi Kênh phân phối giống cây trồng, vật nuôi: là loại kênh phân phối hàng hoá tư liệu sinh vật nông nghiệp.Kênh này có những nét dặc trưng: - Các trung tâm giống quốc gia - Các viện nghiên cứu - Các trường đại học Các công ty cung ứng sản xuất giống các cấp Người sản xuất nông nghiệp Sơ đồ 1: Kênh phân phối giống cây trồng, vật nuôi Đây là kênh sản xuất và chuyển giao công nghệ về giống và sử dụng giống, loại kênh phgân phối đặc biệt vè sản phẩm nông nghiệp mang tính chất tư liệu sinh học. Kênh kết hợp nghiên cứu sản xuất hoàn thiện sản phẩm trong quá trình chuyển giao công nghệ giống, trong đó nghiên cứu và chất xám đóng vai trò then chốt Là loại kênh phân phối sản phẩm vừa mang tính độc quyền của nhà nước, vừ mang tính xã hội cao, được nhà nước quan tâm thường xuyên, đồi hỏi cao và có chính sách hỗ trợ về công nghệ, tài chính.. Kênh mang tính trực tiếp và cung cấp là chủ yếu. Các trung tâm giống quốc gia vừa là đầu kênh, vừa phải vươn lên làm chủ kênh, biến hoạt động mang tính kinh 5 doanh trong qúa trình chuyển giao. Còn các công ty giống địa phương , làm nhiệm vụ rung chuyển nhưng phỉa khảo nghiệm, địa phương hoá trước khi cung cấp chuyển giao cho nông dân và chủ trang trại. + Các kênh phân phối sản phẩm nông nghiệp tiêu dùng cá nhân Kênh phân phối sản phẩm tiêu dùng cá nhân so với loại kenh tiêu thụ hàng hoá công nghiệp và dịch vụ tiêu dùng cá nhân thì số lượng kênh nhiều hơn và có một số kênh gián tiếp thì nhìn chung dài hơn. Cụ thể gồm có những kênh sau: K1 SXNN Sxnn K2 SX NN K3 K4 K5 K6 K7 SX NN SX NN SX NN SX NN SX NN Thu gom Thu gom Chế biến Thu gom Chế biến BÁN BUÔN BÁN LẺ Người xuất khẩu THỊ TRƯỜNG NƯỚC NGOÀI NGƯỜI TIÊU DÙNG Sơ đồ 2: Kênh phân phối hàng hoá, dịch vụ nông nghiệp Trong hệ thống kênh ở sơ đồ trên có mấy điểm đáng chú ý thể hiện đặc trưng kênh sản phẩm nông nghiệp là: Một là: Tuỳ theo trình độ chuyên môn hóa, quy mô sản xuất và mức độ gắn kết với thị trường mà các kênh phân phối được tổ chức dài hay ngắn. Kênh 1 và kênh 2 là hai kênh ngắn, chủ yếu hoạt động ở thị trường nông thôn. Cáckênh khác dài hơn 6 thường đáp ứng cho người tiêu dùng thành phố. Đối với các kênh phục vụ xuất khẩu thường được tổ chức dài hơn mới đến được tay người tiêu dùng nước ngoài. Hai là: Ngoài kênh 1 và kênh 2 thì 5 kênh còn lại khâu trùng gían đầu tiên là người thu gom hoặc người chế biến nhưng có chức năng thu mua. Đặc trưng này là do sản phẩm nông nghiệp thường được sản xuất nhỏ lẽ phân tán đặc biệt đối với những nước sản xuất nông nghiệp chưa được phát triển như nước ta. Ba là: Người nông dân với tư cách là người sản xuất ở đầu kênh nhưng không phải là chủ kênh phân phối nên họ chỉ quan tâm đến các tác nhân trung gian đầu tiên trực tiếp quan hệ với hộ. Hộ đòi hỏi những người trung gian phải là những người kinh doanh mua bán rõ ràng, mua hàng nhiều, lấy hàng nhanh, đúng hẹn, giá cả công khai, thanh toán sòng phẳng, có sự hỗ trợ về công nghệ và tài chính Ngày nay với phương thức liên kết, thông qua kí kết các hợp đồng trách nhiệm giữa các nhà khoa học – nhà nông – doanh nghiệp – các nhà phân phối và có vai trò của nhà nước đang thực sự có vai trò to lớn trong giải quyết vấn đề phân phối sản phẩm nông nghiệp đến tay người tiêu dùng hiệu quả và đảm bảo giải quyết lợi ích hài hoà của mọi thành viên trong kênh. 1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất lúa 1.1.2.1. Nhân tố thuộc về tự nhiên - Khí hậu có ảnh hưởng rất lớn đến sự phân bố của cây lúa trên toàn thế giới và có quy luật trên từng vùng rộng lớn. Nhiệt độ , ánh sáng ảnh hưởng trực tiếp quá trình quang hợp, hô hấp, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa. Ngoài ra sự tác động bất thường của thời tiết còn là nguyên nhân gây hại cho cây lúa. - Đất đai Đất đai là tư liệu không thể thiếu trong sản xuất lúa, nhờ có đất đai mà cây lúa tồn tại mà củng chính nhờ đất đai mà cây lúa được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho quá trình trao đổi chất và sự chuyển hoá sinh lí, sinh hoá. Đất đaicó màu mỡ hay không là thể hiện qua độ phì nhiêu của đất, ở những môi truờng khác nhau thì độ màu mỡ cũng khác nhau… Vì vậy, để nâng cao hiệu quả sản xuất lúa cần quan tâm đến chế độ canh tác cho phù hợp với từng loại đất nhằm để cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng 7 cho cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt, dồng thời trong quá trình canh tác phải chú trọng đến việc cải tạo và bồ dưõng đất. 1.1.2.2. Yếu tố sinh học - Giống Giống có ảnh hưởng quan trọng đến năng suất nông nghiệp, điều này thể hiện ở chỗ mỗi giống có tiềm năng năng suất khác nhau. Thông thường, các giống địa phương có năng suất thấp hơn các giống lai ưu thế mới, chênh lệch năng suất này có thể lên đến 10 – 20%. Nhằm tăng hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp, hiện nay công tác lai tạo giống rất được chú trọng. Các nhà khoa học đã nghiên cứu nhận thấy có 2 hướng cải tiến năng suất theo hướng tăng hiệu suất sử dụng năng lượng bức xạ: + Giảm chiều cao cây, tăng số bông/1 đơn vị diện tích + Tăng số hạt và trọng lượng bông hay quả. Hệ số kinh tế tăng đi đôi với tăng lượng chất khô tích lũy vào thời kỳ cuối. Bước đầu của công tác chọn giống, các nhà khoa học chú ý nhiều đến các thành phần của năng suất: số bông, số quả, số hạt, trọng lượng hạt…. Những cố gắng cải tiến thành phần này của năng suất lại đưa đến việc giảm thành phần khác. Ví dụ ở cây lúa, làm tăng số bông thì số hạt trên một bông và trọng lượng bông giảm, làm tăng số hạt thì trọng lượng hạt lại giảm….Nguyên nhân dẫn đến sự bù trừ này là do sự mâu thuẫn giữa sức chứa và nguồn. Sức chứa là số lượng và độ lớn của các cơ quan có khả năng chứa các chất đồng hóa để tạo ra năng suất; nguồn là lượng chất đồng hóa được chuyển từ lá về bộ phận chứa năng suất. Trên thực tế, rất khó phân biệt chỉ tiêu đại diện cho sức chứa và đại diện cho nguồn. Khó tách rời sức chứa và nguồn và các nhà sinh lý cây trồng vẫn còn tranh luận sức chứa hay nguồn là yếu tố hạn chế năng suất cây trồng. Theo kết quả nghiên cứu của Viện KHKTNN Việt Nam thì: Thành phần sức chứa, tương quan với thời gian tạo ra diện tích lá trước trổ; số nhánh, số bông và số hoa/m2 quyết định 29,9% năng suất. + Thành phần nguồn, tương quan với chất khô và hiệu suất quang hợp sau trổ, số hạt/bông và số hạt/m2, trọng lượng bông và 1000 hạt, quyết định 23,1% năng suất. - Dinh dưỡng khoáng 8 + Đạm (N): tăng khả năng đẻ nhánh, tăng chiều cao cây lúa; tăng năng suất và chất lượng gạo + Lân (P2O5): giai đoạn đầu giúp phát triển rễ; giai đoạn sau giúp phân hóa mầm hoa; giúp lúa trỗ sớm, qua đó tăng năng suất và chất lượng tốt + Kali (K2O): tăng cường khả năng chống chịu sâu bệnh, hạn, rét do làm cho cây lúa cứng cây; tăng tỷ lệ hạt chắc, tăng năng suất phẩm chất + Lưu huỳnh (S): tăng năng suất; tăng hàm lượng protein và acid amin trong gạo + Magiê (Mg): tăng hấp thu và vận chuyển Lân; tăng cường quang hợp (là thành phần diệp lục tố). Tăng số hạt chắc và năng suất + Canxi (Ca): tăng cường độ cứng cây và khả năng chống chịu sâu bệnh, tăng năng suất và chất lượng gạo + Sắt (Fe): tăng cường quang hợp, tăng năng suất và chất lượng gạo + Kẽm (Zn): tăng khả năng hút Lân và dinh dưỡng; tăng năng suất và chất lượng gạo + Đồng (Cu): tăng cường khả năng chống nấm bệnh; tăng sinh trưởng, phát triển qua đó tăng năng suất và chất lượng + Mangan (Mn): tăng cường sinh trưởng và phát triển, tăng năng suất và chất lượng + Bo (Bo): tăng số hoa, tăng sức chống chịu của hạt phấn, giúp hạt phấn sống lâu; tăng tỷ lệ hạt chắc, tăng năng suất phẩm chất + Molypden (Mo): tăng khả năng hút dinh dưỡng, tăng sinh trưởng và phát triển; tăng năng suất và chất lượng - Sâu bệnh Có thể nói sâu bệnh là , một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng tới sản xuất lúa, nó có thể làm cho năng suất lúa giảm sút thạm chí mất trắng. ở lúa thì thường gặp một số bệnh: + Bệnh đốm vằn do nấm sống trong đất: Rhizoctonia solani, Trên lúa, nếu dùng giống ngắn ngày, năng suất cao, ruộng sạ, cấy dầy, thiếu ánh sáng, bón thừa đạm, bón đạm muộn, bón không cân đối N-P-K, ẩm độ trên ruộng quá cao, ruộng vụ trước trồng bị bệnh đốm vằn, không dọn sạch rơm rạ, lúa chét, cỏ dại… bệnh đốm vằn dễ xảy ra trong vụ tiếp theo. Bệnh đốm vằn, thường xảy ra vào giai đoạn lúa đẻ nhánh tối đa – 9 làm đòng, trổ (khoảng 35 – 70 NSS), bệnh âm thầm tiến triển nơi bẹ lá tiếp giáp mực nước, do đó nếu đi thăm đồng mà không chịu khó lội xuống ruộng quan sát thì sẽ không phát hiện được bệnh, đến khi bệnh phát triển lên lá đòng (trổ nóc) mới phòng trị thì đã quá muộn. Triệu chứng bệnh đốm vằn dễ nhân diện, lúc đầu bệnh xuất hiện ở bẹ lá giáp mực nước, vết bệnh có dạng đốm loang lổ như da beo, màu xanh xám, viền nâu, sũng nước, dần dần đốm bệnh ăn sâu vào bẹ lá làm bẹ lá vàng, khô chết dần, đồng thời bệnh còn ăn lan lên trên, một khi bệnh lan lên tới lá đòng (trổ nóc) thì năng suất có thể giảm tới 50%, hạt không đẹp, lúa bị lép, lửng, khi xay dễ bể. + Bệnh bạc lá lúa: : Bệnh bạc lá lúa (BBL) do vi khuẩn Xanthomonas campestris Oryzae gây ra và là một trong những bệnh nguy hiểm nhất trên cây lúa. Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện nóng ẩm nên ở các tỉnh phía Bắc thường xuất hiện từ tháng 3 trở đi, gây hại ở cả 2 vụ lúa trong năm, trong đó nặng nhất là các trà lúa vụ mùa, đặc biệt vào các thời kỳ hay có giông, bão. Các giống lúa thuần, lúa lai Trung Quốc rất dễ bị nhiễm bệnh. Bệnh chủ yếu xuất hiện ở các mép lá, cháy dần từ đầu chóp xuống (nên còn gọi là bệnh cháy lá) làm ảnh hưởng đến quá trình quang hợp của cây; nhẹ làm cây sinh trưởng, phát triển kém, còi cọc, đẻ nhánh yếu, giảm năng suất, bị nặng làm các lá bị cháy, đặc biệt cháy lá đòng làm cho hạt bị lép lửng, chất lượng gạo kém, giảm năng suất nghiêm trọng, từ 25 đến 50%, thậm chí gây thất thu hoàn toàn. + Bệnh lem lét hạt: *Do nhện gié thường sống trong các bẹ lá lúa khi mật số cao chúng có thể bò lên trên bông lúa chích hút các gié lúa đang phát triển, các bông lúa bị hại thường mọc thẳng đứng và phần lớn số hạt đều bị lép. *Do vi khuẩn Pseudomonas glumae (tên mới Bukhoderia glumae) làm thối đen hạt hoặc gây vết bệnh trên vỏ hạt. *Do nấm là chủ yếu: Alternaria padwickii, Bipolaris oryzae, Fusarium sp, Curvularia lunata, Microdochium oryzae, Phoma sp, Pyricularia oryzae, Sarocladium oryzae, Septoria sp, Tilletia barclayana, Ustilagonoides virens. 10 Sự phát sinh và tác hại *Thời kỳ cây lúa dễ mẫn cảm với bệnh là từ trổ bông đến chín sữa và rơi vào những tháng có nhiệt độ thấp ẩm độ không khí cao, lượng mưa lớn và số ngày mưa nhiều. *Lem lép hạt làm ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng hạt lúa, đồng thời tác hại vào vụ sau. + Rầy nâu Tác hại trực tiếp: rầy cám và rầy trưởng thành cánh dài hoặc cánh ngắn đều chích hút nhựa cây lúa gây ra hiện tượng cháy rầy khi mật số cao. Rầy nâu gia tăng mật số nhanh và cao (bột phát) gây hại nặng cho cây lúa khi: - Trồng lúa liên tục trong năm - Dùng giống nhiễm rầy - Gieo sạ mật độ dày - Bón dư thừa phân đạm, - Phun thuốc trừ sâu không đúng cách (trộn nhiều loại thuốc, phun nhiều lần…). Tác hại gián tiếp: là môi giới truyền vi rút gây bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá cho cây lúa. Đặc điểm truyền bệnh - Rầy nâu chích hút nhựa cây lúa bị bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá rồi mang mầm bệnh vi rút này trong cơ thể để truyền sang cho cây lúa khoẻ mạnh khi chúng đến chích hút cây lúa đó. - Rầy nâu mang mầm bệnh có khả năng truyền bệnh cho đến khi chết. - Cây lúa càng non càng dễ bị nhiễm bệnh, về sau có thể không trổ bông được, năng suất giảm nghiêm trọng hoặc mất trắng. Cây lúa già bị nhiễm bệnh thì năng suất bị giảm ít hơn. " Tóm lại, rầy nâu chỉ truyền bệnh khi có nguồn bệnh (lúa bị bệnh, lúa chét bị bệnh, cỏ bị bệnh) tồn tại trên đồng ruộng. 1.1.2.3. Các yếu tố kinh tế - xã hội - Vốn Vốn là nhân tố không thể thiếu trong sản xuất kinh doanh, nó không chỉ ảnh hưởng tới sản xuất công nghiệp mà nó ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực king tế khác. 11 Vốn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng việc sản xuất lúa, người nông dân cần có vốn để trang bị dụng cụ tư liệu sản xuất, các yếu ýô đầu vào như phân bón, cày bừa, giống…. để phụ vụ cho việc sản xuất. Ngoài ra họ cần vốn để mở rộng quy mô sản xuất tăng năng suất cho cây trồng - Cơ cở hạ tầng Đầu tư cở sở hạ tầng cũng là một cơ sở để hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Có đầy đủ cơ sở hạ tầng thì tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận với sản xuất chuyên môn hoá,giúp việc lưu thông vận chuyển được dễ dàng giảm bớt chi phí trong sản xuất. - Giá cả thị trường Thi trường là nơi diễn ra sự trao đổi, mua bán hàng hoá giữa người bán và người mua. Việc xác định thị trường cho người sản xuất lúa là cơ sở quan trọng chho ngành xác định phương pháp và mục tiêu sản xuất, từ đó ta có thể xây dựng, quy hoạch các vung sản xuất tập trung đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhưng tronh sản xuất, nhu cầu và giá cả là hai động lực thúc đẩy hay hạn chế việc snả xuất hàng hoá. Nếu ở đâu có điều kiện sản xuất phù hợp, có thị trường tiêu thụ và giá cả hợp lí thì ở đó sản xuất. Vấn đề muốn nói ở đây là giá cả phải bù đắp được chi phí và phải đảm bảo được mức lãi hợp lí. Bên cạnh đó, nhu cầu về sản phẩm lại rất đa dạng và phong phú, do đó việc xác định diện tích gieo trồng và các loại giống phù hợp cũng hết sức cần thiết. Ngoài giá cả sản phẩm lúa, giá cả các yếu tố đàu vào cũng là các yếu tố tác động đến quyết định của người sản xuất, đó chính là chi phí sản xuất. Sự tăng hay giảm chi phí sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người sản xuất, do đó có tác động đến quy mô. Thị trường là nơi điều tiết cung cầu, là nơi thực hiện điều tiểt giữa người mua và người bán. Tuy nhiên trong điều kiện đất nước ta hiện nay, lợi ích giữa các bên tham gia vào thị trường chưa được gắn kết, voà mùa thu hoạch người sản xuất thường bị ép giá, mà dễ bị tổn thương nhất là người nông dân. Do đó, sự thay đổithị trường cũng gây nên sự thay đổi về sự thu nhập của họ. Vì vậy cần phải cóquy hoạch và định hướng trong sản xuất để tránh những thiệt hại cho người nông dân. - Chính sách nhà nước + Chính sách đất đai 12 Luật đất đai sửa đổinăm 1993 công nhận quyền sử dụng hợp pháp và dài hạn cho người dân, họ có thể cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng đất canh tác của mình…đây là cơ sở pháp lí để bảo vệ lợi ích của người sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân trong đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và họ sẽ quan tâm hơn đến mối quan hệ giữa sản xuất và cải tạo đất. + Chính sách khuyến nông: Khuyến nông là chính sách quan trọng của nhà nước để thúc đẩy, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp phát triển. Những năm qua nhờ chính sách này người nông dân đã nâng cao năng suất và phẩm chất của cây trồng, từ đó thu nhập của người nông dân được cải thiện, hiệu quả sản xuất ngày càng được nâng cao. 1.1.2.4. Yếu tố con người - Tập quán canh tác của người dân: Đây cũng là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất và sản lượng cây trồng. Nếu tập quán canh tác lạc hậu sẽ hạn chế đến quy mô sản xuất, hạn chế mức đầu tư và hạn chế việc áp dụng khoa học kĩ thuật vào trong quá trình sản xuất làm cho năng suất cây trồng giảm, hiệu quả thấp. Ở trình độ thâm canh cao hơn, tập quán canh tác tiến bộ hơn sẽ là cơ sở đến áp dụng khoa học kĩ thuật vào trong quá trình sản xuất. Nhờ sự tiến bộ của khoa học công nghệ nên đã làm thay đổi tập quán canh tác của người dân, trước hết sự lai tạo các giống mới có chất lượng và năng suất cao đã làm tăng hiệu quả sản xuất, đồng thời trong một số khâu sản xuất máy móc đã thay thế được sức lao động của con người. Để hoạt động sản xuất có hiệu quả cần phải tăng cường công tác khuyến nông để người nông dân thấy được tầm quan trọng của việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào trong quy trình sản xuất, mặt khác Nhà nước cũng cần có chính sách hợp lí như dồn điền đổi thửa, quy hoạch vùng sản xuất theo từng vùng sản xuất theo từng giống lúa…để máy móc hoạt động có hiệu quả hơn. - Trình độ của người nông dân: Trình độ của người nông dân cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng cây trồng.Nếu trình độ của người nông dân thấp, không có kinh nghiệm trong sản xuất sẽ hạn chế tới khả năng tiếp cận và việc áp dụng khoa học kĩ 13 thuật vào trong quá trình sản xuất, khả năng nắm bắt các thông tin về các yếu tố ảnh hưởng trong quá trình sản xuất , từ đó làm cho năng suất cây trồng giảm, đạt hiệu quả thấp - Khả năng áp dụng khoa học- kĩ thuật Việc áp dụng khoa học- kĩ thuật vào trong sản xuất có tác động rất lớn tới năng suất và sản lượng cây trồng. Nếu con người biết tiếp cận tốt và áp dụng khoa học kĩ thuật vào trong hoạt động sản xuất thì sẽ làm cho hoạt động có hiệu quả hơn,năng suất và chất lượng tốt hơn. 1.1.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất lúa - Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá mức độ đầu tư các yếu tố sản xuất * Chi phí đầu tư phân bón / sào * Chi phí giống / sào * Chi phí thuốc BVTV / sào * Chi phí khác / sào ( bao gồm các khoản thuê lao động, thuê máy móc, thuê các khoản dịch vụ khác) - Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất. + Giá trị sản xuất (GO) Giá trị sản xuất (GO): là chỉ tiêu cho biết trong một năm hoặc một vụ thì đơn vị sản xuất tạo ra được khối lượng sản phẩm có giá trị là bao nhiêu, chỉ tiêu này phản ánh qui mô về giá trị sản xuất mà ngành nông nghiệp tạo ra cho xã hội. Có công thức xác định như sau: GOi = Qi * Pi (1) n GO= Qi*Pi (2) i=1 Trong đó : Qi : Khối lượng sản phẩm i Pi : Giá cả của sản phẩm i Trong sản xuất lúa chỉ sử dụng công thức (1) 14 + Chi phí trung gian trên một đơn vị diện tích ( IC) bao gồm những khoảng chi phí vật chất và dịch vụ thuê hoặc mua ngoài được sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm nông nghiệp + Giá trị gia tăng (VA) Giá trị gia tăng (VA): là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các ngành thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định. Đó là nguồn gốc của mọi khoản thu nhập, sự giàu có và phồn vinh xã hội. Nó không chỉ biểu hiện hiệu quả của sản xuất theo chiều rộng mà còn là một trong những cơ sở quan trọng để tính các chỉ tiêu kinh tế khác. Được xác đinh bởi công thức sau: VA = GO – IC - Hệ thống các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất + Hiệu suất GO/IC GO/IC: Giá trị sản xuất trên chi phi trung gian, chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí trung gian có thể tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản xuất trong kỳ. + Hiệu suất VA/IC VA/IC: Giá trị tăng thêm trên chi phí trung gian, chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí trung gian có thể tạo ra bao nhiêu đồng giá trị tăng thêm trong kỳ. + Hiệu suất lợi nhuận trên chi phí ( Pr/TC): đối với chỉ tiêu này việc xác định lợi nhuận khó khăn do hầu hết các hộ đều sử dụng nhiều đến lao động gia đình. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ ra có được bao nhêu đồng lợi nhuận 1.1.4. Đặc điểm và giá trị kinh tế của cây lúa 1.1.4.1. Đặc điểm sinh học Sinh trưởng và phát triển của cây lúa phụ thuộc rất nhiều yếu tố, từ điều kiện tự nhiên, tình hình canh tác, phân bón đất đai, mùa vụ gieo trồng, giống và thời gian sinh trưởng của từng giống lúa.Quá trình sinh trưởng của cây lúa có thể chia ra làm hai thời kỳ: Sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực. - Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng: Ở thời kỳ này cây lúa chủ yếu hình thành và phát triển các cơ quan dinh dưỡng như ra lá, phát triển rễ, đẻ nhánh… 15 - Thời kỳ sinh trưởng sinh thực: Là thời kỳ phân hoá, hình thành cơ quan sinh sản bắt đầu từ khi làm đòng đến khi thu hoạch. Bao gồm các quá trình làm đòng, trổ bông, hình thành hạt. Quá trình làm đốt tuy là sinh trưởng dinh dưỡng nhưng lại tiến hành song song với quá trình phân hoá đòng nên nó cũng nằm trong quá trình sinh thực. Thời kỳ này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành số bông, tỷ lệ hạt chắc và trọng lượng hạt lúa. + Quá trình nẩy mầm: Hạt hút nước, độ ẩm trong hạt tăng, hoạt động các men hô hấp và phân giải rõ rệt, một loạt các phản ứng sinh hoá xảy ra, phôi được cung cấp glucoza, axitamin, các tế bào phân chia, lớn lên trục phôi phình to, đẩy mầm khi nẩy mầm, đầu tiên xuất hiện lá bao hình vảy, không có diệp lục. Đồng thời trong quá trình nẩy mầm, từ phôi xuất hiện rễ phôi. Rễ này dài, sau này phát triển thành các lông tơ giúp hạt hút nước trong thời kỳ đầu. + Quá trình phát triển của bộ rễ: Sau khi nẩy mầm rễ lúa phát triển từ phôi là rễ mộng, rễ này chủ yếu có một cái. Rễ mộng xuất hiện rồi dài ra, có thể hình thành lông rễ, rễ mộng hoạt động trong một thời gian ngắn rồi chết đi và được thay thế bằng các lớp rễ phụ được hình thành từ mặt các đốt gốc của cây. Những mắc đầu chỉ ra được trên dưới năm rễ, nhưng mắc sau có thể đạt tới 3-20 rễ. Tập hợp các lớp sẽ tạo thành rễ chùm. + Quá trình phát triển lá: Lá được hình thành từ các mầm lá ở mắc thân, khi hạt nẩy mầm, hình thành các lá đầu tiên là lá bao mầm, lá không hoàn toàn rồi đến lá thật 1,2,3… Các lá phát triển liên tục từ ba lá đầu này, cây lúa đã tự nuôi dưỡng hoàn toàn sống độc lập, lá quang hợp, rễ hút dinh dưỡng. Thông thường trên cây lúa có khoảng 5-6 lá cùng hoạt động, lá già tàn rụi dần để các lá non mới lại tiếp tục. + Quá trình đẻ nhánh: Lúa sau khi bén rễ hồi xanh thì làm đốt, làm đòng. Nhánh lúa hình thành từ các mầm nách ở gốc thân. Quá trình hình thành một nhánh qua bốn giai đoạn: phân hoá nhánh, hình thành nhánh, nhánh dài trong bọc lá và nhánh xuất hiện. Trong quá trình hình thành nhánh đầu tiên xuất hiện một lá bao hình ống dẹt, rồi xuất hiện các lá của nhánh, nhánh phát triễn 3-4 lá có thể tách ra khỏi cây mẹ và sống tự lập. + Quá trình làm đòng: Ở thời kỳ này thân lúa chính thức mới được hình thành, số lóng kéo dài và chiều dài các lóng quyết định chiều cao của cây. Quá trình làm 16 đòng là quá trình phân hoá và hình thành các cơ quan sinh sản, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành năng suất lúa. + Quá trình trổ bông, nở hoa, thụ phấn: Sau khi hoàn thành quá trình làm đòng thì cây lúa trổ ra ngoài do sự phát triển nhanh của lóng trên cùng. Khi cây lúa thoát ra khỏi bẹ lá là quá trình trổ xong. Cùng với quá trình trổ bao phấn trên một bông các hoa ở đầu bông và đầu gié nở trước, các hoa ở gốc bông, các hoa ở gốc bông nở cuối cùng. Khi hoa nở phơi màu, váy cá hút nước trương to lên, đồng thời với áp lực của vòi nhị làm cho vỏ trấu nở ra, hạt phấn rơi vào đầu nhuỵ, đó là quá trình thụ phấn. Sau quá trình thụ phấn là quá trình thụ tinh và hình thành hạt. Trong điều kiện bình thường hạt phấn rơi xuống đầu nhuỵ, sau 15 phút ống phấn bắt đầu dài ra, các chất trong hạt bắt đầu dồn về ống phấn. Sau thụ tinh là quá trình phát triển phôi và phôi nhũ. + Quá trình chín hạt: Chúng ta có thể chia quá trình chín hạt ra làm ba thời kỳ: chín sữa, chín sáp và chín hoàn toàn.  Chín sữa: Sau phơi màu 6-7 ngày các chất dự trữ trong hạt ở dạng lỏng, trắng như sữa, hình dạng hạt hoàn thành có màu xanh, trọng lượng hạt tăng nhanh ở thời kỳ này.  Chín sáp: Ở thời kỳ này chất dịch trong hạt dần dần đặc lại, hạt cứng và màu xanh dần chuyển sang màu vàng.  Chín hoàn toàn: Thời kỳ này hạt chắc cứng, màu vàng nhạt và trọng lượng hạt đạt tối đa. Quá trình lúa chín kéo dài 30-40 ngày tuỳ theo giống, thời vụ. Đây là quá trình quyết định năng suất lúa. 1.1.4.2. Đặc điểm sinh thái Ngoài sự tác động của con người thì khí hậu thời tiết là yếu tố quan trọng nhất của điều kiện sinh thái, nó có ảnh hưởng lớn nhất và thường xuyên đến quá trình sinh trưỡng và phát triển của cây lúa. + Về nhiệt độ: Quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa phụ thuộc rất nhiều về nhiệt độ trong vụ gieo trồng. Nếu thời tiết thuận lợi, nhiệt độ trung bình cao cây lúa đạt được tổng nhiệt cần thiết sẽ ra hoa và chín sớm hơn tức là rút ngắn thời gian sinh trưởng và ngược lại. Để cho cây lúa phát triển tốt thì cần nhiệt độ khác nhau qua các thời kỳ sinh trưởng 17  Thời kỳ nẩy mầm: Nhiệt độ thích hợp cho cây lúa nẩy mầm là 30-350C. Nhiệt độ giới hạn thấp nhất là 10-120C và quá cao là trên 400C không có lợi cho quá trình nẩy mầm của lúa.  Thời kỳ đẻ nhánh, làm đòng: Ở thời kỳ này cây lúa đã bén rễ, hồi xanh. Nhiệt độ thích hợp là 25-320C. Nhiệt độ dưới 160C quá trình bén rễ, đẻ nhánh, làm đòng không thuận lợi.  Thời kỳ trổ bông làm hạt: Thời kỳ này cây lúa rất nhạy cảm trước sự thay đổi của nhiệt độ. Trong quá trình nở hoa, phơi màu, thụ tinh đòi hỏi nhiệt độ phải ổn định. Nếu gặp nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao đều không có lợi. + Nước: Là thành phần chủ yếu trong cơ thể lúa, là điều kiện để thực hiện quá trình sinh lý trong cây và là điều kiện ngoại cảnh không thể thiếu của cây lúa. Theo Goutchin, để tạo ra một đơn vị thân lá, cây lúa cần 400-450 đơn vị nước, để tạo ra một đơn vị hạt, cây lúa cần 300-350 đơn vị nước. Nhu cầu nước của cây lúa qua các thời kỳ sinh trưởng là khác nhau.  Thời kỳ nẩy mầm: Hạt giống được bảo quản dưới độ ẩm 13%, khi ngâm hạt, hạt hút nước đạt 22% thì có thể hoạt động và nẩy mầm tốt khi độ ẩm của hạt đạt 25-28%.  Thời kỳ cây con: Trong điều kiện gieo thẳng cây lúa ở giai đoạn cây con không cần nước nhiều, ta chủ động giữ đủ ẩm và cho nước vào ruộng từ từ khi cây được 2-4 lá.  Thời kỳ đẻ nhánh: Ở giai đoạn này chủ động tháo nước sát gốc lúa. Để tạo điều kiện cho cây lúa đẻ nhánh, sau khi cây đẻ nhánh hữu hiệu làm đòng trổ bông ta cần cho nước vào đầy đủ tránh bị khô nước làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng của cây lúa. Để lúa sinh trưởng thuận lợi, đạt năng suất cao cần cung cấp nước đầy đủ.  Đối vơí công nghiệp chế biến. - Gạo dùng làm nguyên liệu để sản xuất bia, rượu… - Tấm dùng để sản xuất tinh bột, rượu, cồn, aceton, thuốc chũă bệnh…. - Cám dùng để chế biến thức ăn cho gia súc non và vỗ béo, chế biến thức ăn tổng hợp, điều chế thuốc chữa bệnh, chế tạo sơn, xà phòng, làm mĩ phẩm… - Trấu dùng để sản xuất làm men nấm, làm chất đốt… 18 - Rơm rạ làm chất đốt, sản xuất nấm rơm, làm thức ăn cho gia súc, làm phân bón. Nếu tận dụng và khâi thác tốt các sản phẩm phụ thì giá trị cây lúa khá lớn.  Giá trị xuất khẩu. Do cây lúa được trồng ở các nước châu Á, ngoài việc sử dụng trong nội địa lúa gạo còn là mặt hàng xuất khẩu. Ở Thái Lan trong những thập niên 60 xuất khẩu lúa gao chiếm đến 40 – 50 tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Nước ta hiện nay là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới. Xuất khẩu từ tầm quan trọng của cây lúa, vấn đề đặt ra hiện nay trong sản xuất lúa là phải áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ vào tất cả các khâu sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm lúa có chất lượng cao, năng suất lớn và hướng tới nền sản xuất nông nghiệp bền vững, nâng cao giá trị kinh tế đem lại từ sản xuất lúa. 1.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT LÚA GẠO Ở VIỆT NAM Xuất phát điểm của Việt nam là một nước nông nghiệp, cây lúa là cây trồng chính và lâu đời, cây lúa được phân bố khắp mọi miền của đất nước từ Bắc vào Nam, là một trong những nước có điều kiện khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa. Hơn 70 % dân số Việt nam sống bằng nghề trồng lúa, nhân dân ta rất cần cù, sáng tạo và giàu kinh nghiệm trong nghề trồng lúa nước, được kế thừa những kinh nghiệm của cha ông và đúc rút nhiều thành công trong công tác chăm sóc và gieo trồng Bảng 1: diện tích, năng suất, sản lượng lúa gạo việt nam Chỉ tiêu ĐVT 2008 2009 2009/2008 ± % + Diện tích lúa Nghìn ha 7400,2 7440,1 +39,9 0,5 + Năng suất Tạ/ha 52,3 52,2 -0,1 0,2 + Sản lượng Nghìn tấn 38729,8 38895,5 165,7 0,4 (Nguồn: Niên giám thống kê cả nước 2009) Qua số liệu thực tế, diện tích sản xuất lúa của nước ta qua 2 năm tăng lên . Từ 7400,2 nghìn ha (năm 2008), tănglên 7440,1 nghìn ha (năm 2009), tức tăng 39,9 nghìn ha so với năm 2009, tương ứng giảm 0,5%.Tuy vậy năng suất cũng không tăng lên qua 2 năm. Từ 52,3 ta/ha (năm 2008) xuống còn 52,2 tạ/ha (năm 2009), tức giảm 0,1 tạ/ha, 19 tương ứng 0,2%. Sản lượng lúa vẫn tăng được ổn định khi diện tích tăng qua 2 năm. Sản lượng năm 2009 đạt 38895,5 nghìn tấn, tăn 165,7 tấn so với năm 2008, tương ứng tăng 0,4% 1.3. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT LÚA CỦA TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Những năm vừa qua tình hình sản xuất lúa của tỉnh TT Huế có những biến động theo chiều hướng tích cực. Qua số liệu thu thập được ta thấy rằng tỉnh TT Huế sản xuất lúa ba vụ. Tuy nhiên chủ yếu là vụ ĐX và vụ HT, còn vụ Mùa chiếm diện tích không đáng kể, cụ thể là năm 2003 gieo trồng 625 ha, đạt năng suất 14,7 tạ/ha. Con số này năm 2004 là 692 ha, đạt năng suất 15,2 tạ/ha. Nếu xem xét cả năm thì có kết quả như sau: Diện tích sản xuất lúa năm 2003 là 51.414 ha, đạt năng suất 106,4 tạ/ha. Đến năm 2004, diện tích giảm còn 51.316 ha, tức giảm 98 ha, tương ứng giảm 0,2%. Tuy nhiên, năng suất lúa lại tăng lên 112 tạ/ha (2004), tức tăng 5,6 tạ/ha, tương ứng tăng 5,3%. Nguyên nhân là do thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng các lại cây khác có hiệu quả kinh tế hơn. Mặc dù giảm diện tích trồng lúa nhưng do tăng năng suất lúa không những ổn định được sản lượng lúa mà còn tăng sản lượng năm 2004 lên 246.496,6 tấn, tăng so với năm 2003 là 11.920,9 tấn, tương ứng tăng 5,1%. Đây là một kết quả đạt được của tỉnh TT Huế Bảng 2: diện tích, năng suất và sản lượng lúa của tỉnh TT Huế Năm 2003 Chỉ tiêu ĐX HT Năm 2004 Cả Cả 2004/2003 mùa năm 625 51,68 14,7 106,4 921 235,73 123,92 112,51 1,052 246,49 +10,75 +4,56 ĐX HT mùa năm +/- % 692 51,316 - 368 -0,71 15,2 112 +5,6 +5,26 1. Diện tích gieo trồng (ha) 2. Năng suất 26,647 24,142 49 42,7 26,323 24,301 50,5 46,3 (tạ/ha) 3. Sản lượng 130,65 104,16 (tấn) (Nguồn: niên giám thống kê tỉnh TT Huế 2005) 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan