Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán thuộc công ty cà...

Tài liệu đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán thuộc công ty cà phê phước an, huyện krông pắk, tỉnh đắk lắk

.PDF
79
409
108

Mô tả:

PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ Cà phê là cây công nghiệp quan trọng, nó không chỉ là cây trồng lợi thế của vùng Tây Nguyên mà còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1857, mãi đến đầu thế kỷ XX mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Trải qua nhiều hình thức tổ chức sản xuất từ các đồn điền cà phê đến các nông trường quốc doanh cà phê. Với một thời gian không dài chỉ trong vòng 26 năm, trong một phần tư thế kỷ, kể từ sau năm 1975 ngành cà phê Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc với tốc độ kỷ lục so với nhiều nước trồng cà phê khác trên thế giới. Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đã có diện tích trồng cà phê trên 500.000 ha với sản lượng cà phê xuất khẩu hàng năm trên dưới 900.000 tấn với kim ngạch xấp xỉ trên dưới 1,5 tỷ USD. Việt Nam là một nước sản xuất, xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới và là nước xuất khẩu cà phê Robusta số 1 thế giới. Hiện nay Cà phê Việt Nam đang được xuất khẩu sang 88 quốc gia và vùng lãnh thổ, trên các châu lục. Nó không những mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn mang lại hiệu quả xã hội và cải thiện môi trường sinh thái rất lớn. Đóng góp vào kết quả trên phải kể đến vai trò tích cực của vùng kinh tế Tây Nguyên. Tây Nguyên với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 m đến 600 m so với mặt biển, là vùng đất rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm trong đó cà phê được xem là cây công nghiệp quan trọng giữ vị trí số một với tổng diện tích khoảng 470.000 ha, chiếm 92,79% diện tích trồng cà phê của cả nước. Điều đó đã góp phần khai thác tiềm năng đất đai, lao động và khí hậu ở cao nguyên và miền núi, tạo nên công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu nông dân. Đắk Lắk là một trong 5 tỉnh thuộc khu vực của Tây Nguyên nơi đây đóng góp một sản luợng cà phê rất lớn cho toàn khu vực Tây Nguyên cũng như 1 của cả nước. Cà phê được trồng ở Đắk Lắk từ rất lâu nhưng đến năm 1986, xuất phát từ chính sách đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ và chính quyền Đắk Lắk mới có chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển và thâm canh cây cà phê. Thực hiện chủ trương của Tỉnh, từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX các đơn vị làm công tác xuất nhập khẩu đã tìm đến từng hộ nông dân với hình thức đầu tư ứng trước, nghĩa là “quốc doanh” ứng trước cho nông dân máy cày, phân bón, có cả lương thực và thu hồi vốn sau khi có cà phê nhân, nông trường quốc doanh thì vận động bà con vào làm công nhân nhận khoán trồng và chăm sóc cà phê. Từ đó Đắk Lắk hình thành nhiều vùng chuyên canh cây cà phê, có đơn vị phấn đấu chỉ tiêu trong một mùa mưa trồng một nghìn ha như Công ty cà phê Phước An, Thắng Lợi, Ea Tiêu, Xí nghiệp liên hiệp cà phê Việt - Đức. Bên cạnh đó, Đắk Lắk còn liên doanh trồng cà phê với nước ngoài, cụ thể là Liên doanh Việt-Xô, Việt - Đức. Vùng chuyên canh cà phê chiếm 86% diện tích sản xuất nông nghiệp và 89% sản lượng cà phê trong toàn Tỉnh. Hiện nay, tỉnh Đắk Lắk có 8 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê do Tỉnh quản lý đang thực hiện các loại khoán trên với tổng diện tích khoảng 6.770 ha. Cùng chung với sự phát triển trong hoạt động sản xuất cà phê trên địa bàn Tỉnh, Công ty cà phê Phước An đã có những bước thay đổi trong cách thức quản lý sản xuất theo từng giai đoạn lịch sử, từ quản lý theo lối hành chính bao cấp, chuyển sang khoán đến hộ gia đình trong giai đoạn hiện nay. Điều đó đã góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nguời dân vùng núi. Hình thành và phát triển từ những năm 1977, mô hình cà phê khoán đến các hộ đang được sự quan tâm và đầu tư của công ty cũng như các hộ dân. Tuy nhiên, trước tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay, Thị trường cà phê trên thế giới trong những năm vừa qua thường chao đảo, không ổn định nhất là về giá cả. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) do không còn giữ được hạn ngạch xuất nhập khẩu, giá cả trôi nổi trên thị trường tự do cho nên có những giai đoạn giá cà phê xuống thấp chưa từng có so với vài chục năm trở lại 2 đây. Tình trạng này đã dẫn đến hậu quả là nhiều nước phải hủy bỏ bớt diện tích cà phê, hoặc không tiếp tục chăm sóc vì kinh doanh không còn thấy có hiệu quả. Bên cạnh đó trong nước mô hình sản xuất cà phê theo lối tự quản lý của hộ đang chiếm một vị trí mạnh (gần 80% diện tích cà phê của cả nước do các hộ tự quản lý), ngược lại mô hình khoán chỉ chiếm khoảng gần (20% diện tích trồng cà phê) do công ty và hộ nhận khoán hợp tác cùng quản lý. Chính những biến động và khó khăn đó sẽ làm cho hoạt động sản xuất cà phê cũng như sự tồn tại của các hình thức khoán ở công ty cà phê Phước An nói riêng mà cụ thể là những người dân nhận khoán của công ty ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng. Vì thế chúng tôi thiết nghĩ việc tìm hiểu, đánh giá kết quả đầu tư và hiệu quả sản xuất cà phê khoán tới hộ dân tại công ty cà phê Phước An là rất cần thiết. Để từ đó tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm phát triển hình thức nhận khoán tới hộ một cách hiệu quả và bền vững. Xuất phát từ những lý do trên trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại công ty cà phê Phước An thuộc Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk tôi đã chọn đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán thuộc Công ty cà phê Phước An, Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk ” để làm khoá luận tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài - Đánh giá thực trạng, tiềm năng để phát triển cà phê theo phương thức khoán tới hộ thuộc công ty cà phê Phước An. - Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cà phê của các hộ gia đình nhận khoán ở công ty cà phê Phước An. - Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cà phê trên địa bàn công ty cà phê Phước An. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp - Phương pháp điều tra phỏng vấn thu thập số liệu và thông tin cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu. 3 - Các phương pháp phân tích để đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên nhân của các vấn đề. - Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo Đối tượng và phạm vi nghiên cứu a) Đối tượng nghiên cứu Đối tượng và nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài là những vấn đề kinh tế, kỹ thuật trong mối quan hệ với các vấn đề tổ chức quản lý hiệu quả sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán. b) Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Do hạn chế về khả năng và thời gian nghiên cứu nên đề tài chỉ tập trung phản ánh tình hình sản xuất cà phê tại hai đội đại diện cho 2 hình thức khoán khác nhau: (có đầu tư – không có đầu tư của công ty), đồng thời là hai đội có diện tích cà phê lớn nhất trong công ty cà phê Phước An, huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk. Về thời gian: Qua khảo sát thực tế tại công ty Phước An, chúng tôi chỉ tiến hành đánh giá, phân tích thực trạng sản xuất cà phê của hộ trong năm 2009. Do hạn chế về thời gian thực tập cũng như khả năng của bản thân nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của quý Thầy, Cô giáo cùng bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn. 4 PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU 1.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển ngành cà phê 1.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển cây cà phê trên Thế giới Lịch sử về cà phê thực sự cũng đa dạng như cách pha chế nó. Một truyền thuyết kể rằng: Một người chăn dê nhận thấy rằng đàn gia súc của mình trở nên nghịch ngợm hơn bình thường sau khi ăn những quả màu đỏ từ bụi cây cà phê dại. Không lâu sau những thầy tu bắt đầu đun những những hạt này và sử dụng chất lỏng này để thức suốt đêm trong các lễ hội. Câu chuyện khác lại kể về một thầy tu Đạo Hồi - người đã bị kết tội bởi kẻ thù của mình. Hình phạt là phải đi lang thang trong sa mạc và cuối cùng là chết đói. Trong cơn mê sảng, chàng trai trẻ đã nghe thấy âm thanh hướng dẫn mình ăn những quả từ cây cà phê gần đó. Anh ta đã sống sót, khoẻ mạnh và quay lại với cộng đồng của mình, công bố rộng rãi kinh nghiệm về công thức. Ban đầu, các bộ lạc phía đông châu Phi đã nghiền quả cà phê sau đó trộn lẫn với mỡ động vật, vê lại thành những viên nhỏ. Sau đó vào khoảng năm 1000 sau Công Nguyên, người Ethiopia đã pha chế một loại rượu từ những hạt cà phê bằng cách lên men những hạt cà phê khô trong nước. Cây cà phê cũng đã mọc tự nhiên ở bán đảo Ai Cập và từ đó trong suốt thế kỷ XI, cà phê đã được phát triển thành một dạng đồ uống nóng. Cà phê cũng đã du nhập vào Châu Âu trong khoản thời gian này thông qua thành phố Venice và đến châu Mỹ La Tinh sau đó nhiều thập kỷ, khi một người Pháp mua một cành cà phê mang đến Martinique. Brazin đã nổi lên như một nơi sản xuất cà phê đứng đầu trên thế giới và là danh hiệu đó vẫn còn đến hôm nay. 5 1.1.1.2 Qúa trình ra đời và phát triển cây cà phê ở Việt Nam Cà phê được đưa vào trồng ở Việt Nam từ năm 1857, trước hết là ở một số nhà thờ tại Hà Nam, Quảng Bình, Kontum... Tới đầu thế kỷ XX trở đi thì cây cà phê mới được trồng trên quy mô tương đối lớn của các chủ đồn điền người Pháp với tổng diện tích không quá vài ngàn hecta. Sau cách mạng tháng Tám, diện tích cà phê ở miền Bắc được phát triển thêm tại một số nông trường quốc doanh và thời kỳ có diện tích cao nhất là trên 10.000 ha vào năm 1963 – 1964. Cà phê trồng ở miền Bắc trong những năm trước đây chủ yếu là cà phê chè (Coffea arabica), năng suất thường đạt từ 400 600 kg/ha, có một số điển hình thâm canh tốt đã đạt trên 1 tấn/ha. Ở miền Nam trước ngày giải phóng, vào năm 1975 diện tích cà phê có khoảng 10.000 ha. Diện tích trồng cà phê ở miềm Nam trong thời kỳ này chủ yếu là giống cà phê vối (Canephora robusta). Năng suất cà phê vối trong thời kỳ này thường đạt trên dưới 1 tấn/ha. Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây nguyên nhờ có vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước: Liên xô cũ, CHDC Đức, Bungary, Tiệp khắc và Ba lan, đến năm 1990 đã có 119.300 ha. Ngày nay trong cơ chế quản lý mới, được áp dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật cho nên năng suất đã tăng lên rất nhanh. Đến nay, diện tích cà phê trên cả nước 521.000 ha và sản lượng khoảng trên 900.000 tấn và Việt Nam trở thành nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 trên thế giới. Cà phê trồng ở nước ta có bao gồm cà phê vối (Robusta) chiếm 90% diện tích, cà phê chè (Arabica) 10% và cà phê mít (Excelsa) 1%. 1.1.2 Vị trí, giá trị kinh tế của cây cà phê Việt Nam là một nước nông nghiệp với 70% dân số sống ở vùng nông thôn và miền núi cao nguyên. Nên việc phát triển ngành nông nghiệp để tạo công ăn việc làm cho người lao động ở nhưng khu vực đó là vấn đề hết sức có ý nghĩa. 6 Cây cà phê được xem là cây công nghiệp lâu năm không những có giá trị về mặt kinh tế mà còn có tác dụng rất lờn về nhiều mặt của xã hội và tạo công ăn việc làm ổn định, đặc biệt góp phần vào việc giảm tình trạng du canh, du cư ở những miền núi cao nguyên. Sản phẩm cà phê chủ yếu là hạt, Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu sang các nước phát triển cà phê dưới dạng cà phê nhân thô chưa qua chế biến. Tuy vậy, cà phê lại là nguồn xuất khẩu quan trọng đóng góp một tỷ trọng không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Cà phê hiện nay là nguồn thu nhập chính trong đời sống của đa số hộ đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng, là mặt hàng chiếm tới trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Đắk Lắk mỗi năm. Chúng ta đã xây dựng được những thương hiệu nổi tiếng như Trung Nguyên, Cà phê Moment, cà phê Buôn Ma Thuột... Được biết Ngành sản xuất cà phê Việt Nam là nguồn thu nhập quan trọng của 600 nghìn lao động và hơn 1 triệu người sống nhờ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan đến cây cà phê. 1.1.3 Tác dụng của cây cà phê đối với chương trình xoá đói giảm nghèo nông thôn cao nguyên và miền núi Khi nói đến vị trí của cây cà phê trong cơ cấu cây trồng ở miền núi cũng như ở các khu vực khác thì thường nêu lên những giá trị kinh tế mà nó đem lại như: Góp phần định canh định cư cho đồng bào dân tộc ít người, tạo công ăn việc làm, làm giàu cho kinh tế hộ, phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ môi trường tạo cảnh quan xanh đẹp… và thực tế ở một số nơi đã thoát nghèo và làm giàu từ chính cây cà phê đem lại. Tuy nhiên không phải nơi nào, vùng đất nào, cũng có thể lấy cà phê làm cây trồng chính để mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn. Người ta thường ví Cà phê là cây của “người giàu”, nghĩa là khâu chăm sóc kỹ thuật rất quan trọng. Nó đòi hỏi người trồng phải có đủ vốn đầu tư cộng thêm những hiểu biết về kỹ thuật, chăm sóc thu hoạch phải đầy đủ có như thế mới phát huy hiệu quả của nó đem lại. Chính vì thế mà có những hộ nông dân nghèo không có đủ vốn 7 thì tác dụng cà phê đem lại là điều ngược lại. Do đó để phát triển tốt cà phê, rõ ràng về phía Nhà nước cần phải có một chương trình đồng bộ, hoàn chỉnh cho nông dân từ sản xuất đến chế biến, đến tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay vai trò các công ty, doanh nghiệp cà phê đóng một vị trí quan trọng, chính những đơn vị này sẽ là cầu nối giúp người nông dân phát triển kinh tế. 1.1.4 Khái niệm, ý nghĩa và bản chất của hiệu quả kinh tế 1.1.4.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế Hiệu quả là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. Nói cách khác, kết quả mà chủ thể nhận được theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí bỏ ra bao nhiêu thì có lời bấy nhiêu. Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá các phương án hành động và được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. Hiệu quả tổng hợp là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện nhiều mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí để có được những kết quả đó. Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong những điều kiện cụ thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng vào sản xuất nông nghiệp. Hiệu quả phân bổ là giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí chi thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất nó là hiệu quả kỹ thuật có tính đến các yếu tố giá sản phẩm và giá đầu vào. Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là phần thu thêm trên một đơn vị đầu tư thêm đạt được chỉ khi hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ là tối đa, có nghĩa là cả yếu tố giá trị và hiện vật tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Vậy muốn đạt được hiệu quả kinh tế thì phải đạt đồng thời cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. 8 Sơ đồ minh họa cho khái niệm hiệu quả kinh tế: Giả sử có 4 nông trại sản xuất nông nghiệp là A, B, C, D quá trình sản xuất chỉ sử dụng 2 yếu tố đầu vào là X1 ,X2 để cùng sản xuất ra một mức sản lượng Q0. Trong đó: Q0 X2 - Là sản lượng đầu ra Q0 Q0 - Là đường đồng lượng P1P2 - Là đường đồng phí Q0 D P2 C R A B Q0 0 X1 P1 Sơ đồ 1: Hiệu quả kinh tế, Hiệu quả kỹ thuật, Hiệu quả phân bổ Từ sơ đồ trên ta thấy: TE=OC/OD Hiệu quả kỹ thuật TINE=CD/OD Phi hiệu quả kỹ thuật AE=OR/OC Hiệu quả phân bổ AINE=RC/OC Phi hiệu quả phân bổ Vậy ta có: EE = OR/OD = OC/OD* OR/OC=TE*AE Hiệu quả kinh tế = Hiệu quả kỹ thuật *Hiệu quả phân bổ Qua kết quả trên cho được thì trang trại A đạt hiệu quả kinh tế, trang trại B, C đạt hiệu quả kỹ thuật còn trang trại D không đạt hiệu quả vì cùng một mức sản lượng là Q0 giống trang trại C, nhưng trang trại D còn phải lãng phí thêm một khoảng là DC mới đạt mức sản lượng giống trang trại C. 9 1.1.4.2 Ý nghĩa và bản chất của hiệu quả kinh tế Bản chất của việc phân tích hiệu quả là so sánh giữa chi phí và kết quả theo những mục tiêu nhất định được biểu hiện dưới dạng hiện vật. Đó là số lượng, chất lượng của những sản phẩm dịch vụ đầu vào và đầu ra. Những sản phẩm này không thể so sánh trực tiếp với nhau nên những chi phí, lợi ích cần được tính ra giá trị tương đương. Muốn vậy phải thông qua giá cả, là nhân tố quyết định trong tính toán hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong việc sử dụng hai yếu tố cơ bản trong sản xuất kinh doanh đó là yếu tố nguồn lực và giá trị trong việc sử dụng các yếu tố nguồn lực. Yếu tố nguồn lực (yếu tố đầu vào): Chi phí trung gian, lao động sống, khấu hao tài sản, thuế ... Yếu tố giá trị (yếu tố đầu ra ): Số lượng, giá trị sản phẩm, giá trị sản xuất, thu nhập, lợi nhuận, giá trị gia tăng… Bản chất của hiệu quả kinh tế là mối tương quan so sánh tương đối và tuyệt đối giữa lượng kết quả thu được với lượng chi phí bỏ ra. Vì thế, việc xác định các yếu tố đầu vào trong đánh giá hiệu quả kinh tế là gặp phải những khó khăn bởi nhưng yếu tố tư liệu sản xuất khi tham gia vào quá trình sản xuất và những yếu tố phi vật chất như chính sách môi trường, công nghệ, nó đòi hỏi phải toàn diện. Do đó có thể nói trên bình diện xã hội, thước đo của hiệu quả là mức độ tối đa hoá trên một đơn vị hao phí lao động xã hội tối thiểu. Chỉ khi nào việc sử dụng các yếu tố nguồn lực đạt được cả chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ mới đạt được hiệu quả kinh tế trong sản xuất. 1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê ở nước ta Việt Nam được chia thành hai vùng khí hậu phù hợp cho sản xuất cà phê. Vùng Tây Nguyên và tỉnh Đồng Nai có đất đỏ bazan, rất thuận lợi để trồng cà phê vối và các tỉnh miền Bắc, với độ cao phù hợp (khoảng 600-800m) phù hợp 10 với cà phê chè. Việt Nam trồng hai loại cà phê chính: cà phê vối và cà phê chè, trong đó diện tích cà phê vối chiếm tới hơn 95% tổng diện tích gieo trồng. Cà phê chủ yếu được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc và Tây Nguyên. Diện tích cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên, tại các tỉnh như Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà phê vối. Diện tích cà phê của khu vực này chiếm tới 72% tổng diện tích cả nước và sản lượng cũng chiếm khoảng 92% tổng sản lượng cả nước. Cà phê chè trồng chủ yếu ở vùng Nam Trung Bộ, vùng núi phía Bắc do các vùng này ở vùng cao hơn, nhưng với diện tích và sản lượng rất khiêm tốn, tập trung nhiều ở các tỉnh Quảng Trị, Sơn La và Điện Biên. Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm (và các năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là 48,5%, 45,8% và 33%). Tăng trưởng cà phê Việt Nam những năm đầu thập niên 90 chủ yếu dựa trên tăng diện tích. Sau đó, tăng năng suất trở thành yếu tố chính đóng góp cho tăng trưởng sản lượng cà phê ở Việt Nam. Cùng với xu hướng đó, cà phê dần trở thành mặt hàng nông sản quan trọng của Việt Nam trong thập kỷ 90 chỉ trong vòng 7 năm, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2, sau Brazin với diện tích cà phê lên tới 520.000 ha đạt mức sản lượng 900.000 tấn. Trong 10 năm trở lại đây Ngành cà phê đã có những bước phát triển nhanh chóng đưa sản lượng cà phê tăng lên hàng trăm lần. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra những cơ hội lớn cho ngành nông nghiệp nước ta phát huy lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái để phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh cao như cà phê. Xem xét diễn biến tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam qua các niên vụ 2005/2006 - 2007/2008 gần đây có thể thấy được sự tăng trưởng nhanh chóng cả về sản lượng lẫn kim ngạch xuất khẩu bên cạnh sự biến động về giá cả. Trong niên vụ 2005/2006 cả nước xuất khẩu 775.458 tấn (12,9 triệu bao), giảm 7,3% so với năm trước và tăng 35% về trị giá xuất khẩu với kim 11 ngạch xuất khẩu đạt 1,40 tỷ USD. Sở dĩ sản lượng cà phê giảm xuống là do cà phê mất mùa vì thời tiết khô hạn kéo dài, cây cà phê sinh trưởng và phát dục khó khăn. Tiếp đến niên vụ 2006/2007, sản lượng xuất khẩu tăng 74% so với niên vụ 2005/2006, đạt 1.200.000 tấn với kim ngạch xuất khẩu cà phê cả nước đã đạt 1,50 tỷ USD. Bảng 1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu niên vụ từ 2005-2009 Chỉ tiêu ĐVT Niên vụ Niên vụ Niên vụ Niên vụ 2005/2006 2006/2007 2007/2008 2008/2009 Khối lượng Tấn 775.458 1.200.000 1.077.375 954.000 Kim ngạch Tỷ USD 1,40 1,50 2,09 1,95 Nguồn : Tổng cục thống kê 2009 Điều đó đã cho thấy, cây cà phê ngày càng chứng tỏ thế mạnh của mình trong sản xuất nông nghiệp. Trong niên vụ 2007/2008, cả nước xuất khẩu được 1.077.375 tấn cà phê nhân giảm chút ít về lượng so với niên vụ 2006/2007 nhưng tăng 31% về giá trị, đạt giá trị kim ngạch khoảng trên 2,09 tỷ USD. Đây cũng là năm đạt kim ngạch xuất khẩu cà phê cao nhất từ trước đến nay. Giá xuất khẩu bình quân đạt 1.937 USD/tấn, tăng 16% so với niên vụ trước. Do giá cà phê thế giới tăng cao nên giá bán cà phê trong nước đạt mức bình quân 29.000-30.000đ/kg, có thời điểm đạt gần 40.000đ/kg. Với mức giá này, người sản xuất bù đắp được chi phí và sản xuất có lãi. Điều đáng chú ý là trong niên vụ này các doanh nghiệp đã phối hợp với nhau khá tốt, bán rải đều cà phê trong suốt niên vụ nên không để xảy ra tình trạng đầu vụ bán và giao hàng ồ ạt gây tác động xấu tới thị trường, tránh tình trạng bị khách hàng ép giá. Mặc dù chịu ảnh hưởng của sản lượng thế giới tăng, cộng thêm tác động xấu của thị trường tài chính thế giới và suy thoái của nền kinh tế Mỹ. Tuy vậy niên vụ 2008/2009 vẫn xuất khẩu được 954.000 tấn, đạt kim ngạch 1,95 tỷ USD (giảm 22,4% về lượng, nhưng tăng 2,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2007). Tính trung bình cả năm 2008, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt 12 2.044 USD/tấn, tăng 31% so với năm 2007, trong đó có lúc lên đỉnh điểm là 2.240 USD/tấn. Tuy nhiên, điều đáng buồn là giá cà phê xuất khẩu lại liên tục rớt mạnh, đặc biệt là từ cuối quý I đầu quý II giá tụt thê thảm khiến mức giá trung bình xuất khẩu của 11 tháng giảm khoảng 350 USD/tấn so với cùng kỳ. Nguyên nhân giá cà phê xuống thấp, ngoài tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, yếu tố đầu cơ của các quỹ đầu tư, còn nguyên nhân quan trọng là trong thời gian 8 tháng đầu vụ 2008/2009 các nước xuất khẩu cà phê đã xuất 65,7 triệu bao so với 63,8 triệu bao cùng kỳ vụ trước. Chính vì được cung cấp dồi dào, lượng dự trữ của các nhà rang xay đã đủ nên giá cà phê không giữ được ở mức cao. Theo Vicofa, qua diễn biến giá cả của vụ 2008/2009 cũng lộ ra những điểm yếu của ngành cà phê Việt Nam, đặc biệt là chúng ta chưa có chiến lược chủ động trong khâu tiêu thụ sản phẩm. “Vào đầu vụ chúng ta đã xuất ra một lượng khá lớn cà phê nên không giữ được giá. Việc xuất khẩu chưa có sự điều hành thống nhất trong khi nông dân cần tiền để trang trải cho các nhu cầu về đời sống và sản xuất”. Nhìn lại tình hình Ngành cà phê Việt Nam những năm qua chúng ta thấy rõ sự phát triển đạt tốc độ rất cao đáng ca ngợi, tự hào và thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam ra thế giới ngày càng mở rộng. Hiện nay, cả nước có khoảng 520.000 ha cà phê (riêng các tỉnh Tây Nguyên chiếm 90% diện tích). Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam dự báo, xuất khẩu cà phê Việt Nam trong năm 2009 ước đạt 980.000 tấn với giá trung bình khoảng 1.800 USD/Tấn, tương đương với kim ngạch khoảng 1,764 tỷ USD, giảm 8,6% về lượng và giảm 17,4% về trị giá so với năm 2008. Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam ngày càng mở rộng, ngoài các nước ở châu Âu và Hoa Kỳ, cà phê Việt Nam còn xuất khẩu sang vùng Trung Cận Đông, châu Phi, một số nước trong Hiệp hội ASEAN và vùng Trung Mỹ. Trong đó phải kể đến 10 nước nhập khẩu hàng đầu cà phê Việt Nam gồm: Bỉ, Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Italia, Ba Lan, 13 Pháp, Hàn Quốc, Anh, Nhật Bản. Trong nhóm 10 nước này chiếm thị phần rất lớn khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, trong 10 tháng đầu năm 2009 xuất khẩu cà phê của cả nước đạt 942.000 tấn với kim ngạch 1,39 tỷ USD, tăng 17,4% về lượng nhưng vẫn giảm 17,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2008. Những số liệu cho thấy nếu như năm 2008, Hoa Kỳ - thị trường giữ vị trí quán quân về thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam, thì sang năm 2009 và cụ thể là 10 tháng đầu năm 2009 đã nhường vị trí này cho thị trường Bỉ và đứng thứ 3 về thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Trong 10 tháng đầu năm 2009, Bỉ là thị trường dẫn đầu nhập khẩu cà phê của Việt Nam, với lượng nhập 123.786 tấn, trị giá 179.020 nghìn USD, tăng 171,32% về lượng và tăng 85,56% về trị giá so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường Đức, với lượng nhập 105.429 tấn, trị giá 156.409 nghìn USD, tăng 3,92% về lượng, nhưng giảm 27,20% về trị giá; đứng thứ 3 là thị trường Mỹ, với lượng nhập 97.477 tấn, trị giá 147.828 nghìn USD, tăng 24,07% về lượng và giảm 9,55% về trị giá. Đứng thứ 4 là thị trường Ialia với lượng nhập 86.754 tấn, trị giá 129.447 nghìn USD, tăng 40,60% về lượng và giảm 0,26% về trị giá. Tiếp đến là các thị trường như Tây Ban Nha, Pháp, Philippine, Malaxia, Trung Quốc,... Đáng chú ý trong 10 tháng đầu năm 2009, xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường Ấn Độ tăng mạnh, tăng 259,51% về lượng và 153,40% về trị giá, với lượng xuất 12.094 tấn, trị giá 17.003 nghìn USD. Tuy nước ta có sản lượng xuất khẩu cà phê là lớn và có thị trường xuất khẩu khá rộng trên thế giới, nhưng cà phê Việt Nam xuất khẩu mới chỉ ở dạng xuất khẩu thô. Xuất khẩu cà phê thô chưa tinh chế chiếm tới 95% trong tổng sản lượng xuất khẩu, do đó giá trị đem lại là không cao. 14 Bảng 2: Thị trường xuất khẩu cà phê trong tháng 10 và 10 tháng năm 2009 So với 10T/08 10T/09 Nước (%) Lượng Trị giá Lượng Trị giá (Tấn) (Tỷ USD) (Tấn) (Tỷ USD) Bỉ 123.786 179.020 171,32 85,56 Đức 105.429 156.409 3,92 -27,20 Mỹ 97.477 147.828 24,07 -9,55 Italia 86.754 129.447 40,60 -0,26 Tây Ban Nha 67.622 99.083 13,41 -21,27 Nhật Bản 52.559 82.670 4,32 -25,99 Hà Lan 30.686 44.021 169,08 83,11 Hàn Quốc 26.221 38.862 -23,21 -44,31 Anh 24.889 36.288 -9,75 -36,55 Pháp 22.898 33.753 23,55 -10,93 Philippine 16.657 23.670 64,82 4,37 Thụy Sĩ 16.495 24.965 -23,26 -39,67 Malaixia 16.438 24.531 14,21 -20,40 Trung Quốc 12.998 18.992 12,64 -17,66 Singapore 12.412 18.263 -31,40 -51,90 Ấn độ 12.094 17.003 259,51 153,40 Nga 11.162 16.555 -20,93 -43,46 Ba Lan 8.938 12.858 -4,74 -34,14 Mehico 6.995 9.690 * * Nguồn: Tổng cục thống kê 2009 Vì vậy mà ngành cà phê cần phải có biện pháp nhằm nâng cao sản xuất cà phê tinh chế và xây dựng cho cà phê những thương hiệu vững chắc để có thể đứng vững và cạnh tranh lâu dài trên thị trường thế giới. 15 1.2.2 Tình hình sản xuất cà phê trên địa bàn nghiên cứu 1.2.2.1 Tình hình sản xuất cà phê ở tỉnh Đắk Lắk Đắk Lắk được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho nguồn tài nguyên đất khá dồi dào, trong đó có 311.000 héc-ta đất đỏ Bazan, chiếm 55,6% tổng diện tích đất đỏ bazan toàn Tây Nguyên, điều kiện sinh thái khá thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu... Nhận thức được những tiềm năng, lợi thế đó từ sau ngày giải phóng, tỉnh Đắk Lắk luôn chú trọng đến việc phát triển nhanh cây cà phê cả về quy mô, số lượng cũng như chất lượng và xác định đây là cây công nghiệp chủ lực của địa phương. Số liệu điều tra được thể hiện qua bảng 3 như sau: Bảng 3: Diện tích và sản lượng thu hoạch cà phê của toàn Tỉnh Chỉ tiêu ĐVT Niên vụ Niên vụ Niên vụ (2003/2004) (2006/2007) (2008/2009) Diện tích Ha 165.500 178.900 178.196 Sản lượng Tấn 284.000 450.000 415.494 Nguồn: Tổng cục thống kê Đắk Lắk 2008 Năm 1975, toàn Tỉnh chỉ có trên 3.700 ha cà phê, năm 1985 tăng lên 15.000 ha, năm 1990 là 76.000 ha. Có thể nói trong 6 năm trở lại đây khi giá cà phê trên thị trường có chiều hướng tích cực thì diện tích cây cà phê ở trong Tỉnh cũng biến động theo chiều hướng gia tăng. Qua biểu đồ cho ta thấy được nếu trong niên vụ 2003/2004 toàn Tỉnh chỉ có 165.500 ha, thì đến sau 2 năm tiếp theo là niên vụ 2006/2007 diện tích đã tăng lên thêm 13.000 ha tương đương với diện tích là 178.900 ha. Sự tăng lên quá nhanh về diện tích không chỉ dừng lại ở con số đó mà kết qủa là đến niên vụ 2008/2009 diện tích trồng cà phê của tỉnh là 178.196 ha, bình quân mỗi năm tăng 2.400 ha. 16 450000 400000 350000 300000 250000 Diện tích Sản lượng 200000 150000 100000 50000 0 2003/2004 2006/2007 2008/2009 Biểu đồ 1: Biểu đồ diện tích và sản lượng cà phê tỉnh Đắk Lắk qua các niên vụ (2003/2004, 2006/2007, 2008/2009) Đồng thời sản lượng cũng có phần tăng lên, nếu trong niên vụ 2003/2004 là 284.000 tấn tiếp đến đầu năm 2006 giá cà phê thế giới tăng khá nhanh cùng với thời tiết khá thuận lợi, mưa đều, không xảy ra hạn hán và sâu bệnh. Nên năng suất và sản lượng cà phê của Đắk Lắk tính hết niên vụ 2006/2007 tăng lên thành 450.000 tấn, đây được coi là niên vụ đạt cao nhất của Đắk Lắk. Với giá thành sản xuất khoảng 10.000 đồng/kg cà phê nhân thì đây được đánh giá là vụ cà phê người nông dân thu lợi nhuận cao nhất kể từ năm 1998 trở lại đây. Và niên vụ 2008/2009 vừa rồi sản lượng thu được 415.494 tấn nhưng lại là vụ cà phê giá bán thấp nhất, chỉ trên dưới 25.000 đồng/kg, thấp hơn niên vụ trước 22%. Sản lượng xuất khẩu đạt 326.738 tấn, tăng 6% nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt gần 500 triệu USD, giảm hơn 21% so với niên vụ trước. Cùng với tăng nhanh về diện tích, việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh như: chọn giống, bón phân, tưới nước, tạo tán,... đã làm năng suất và sản lượng cà phê tăng mạnh. Trước năm 1990, năng suất bình quân cà phê kinh doanh chỉ đạt 8 tạ - 9 tạ nhân/ha/năm, đến năm 1994 năng suất đạt 18,5 tạ/ha. 17 Những năm qua năng suất bình quân đạt 25 tạ - 28 tạ/ha/năm; cá biệt ở một số vùng sản xuất đã cho năng suất bình quân đạt 35 tạ - 40 tạ/ha, vườn cà phê của một số hộ gia đình đạt trên 50 tạ/ha. Hàng năm, sản lượng cà phê nhân của Tỉnh bình quân đạt 430.000 tấn; cà phê qua chế biến rang xay đạt trên 15.000 tấn và cà phê hòa tan trên 1.000 tấn. Hơn 90% sản lượng cà phê ở Đắk Lắk dành cho xuất khẩu tới 56 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 600 triệu USD/năm, chiếm gần 90% tổng kim ngạch xuất khẩu và đóng góp hơn 40% GDP của Tỉnh, tạo việc làm ổn định cho 400 nghìn lao động. Chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là trên 33 thị trường truyền thống, trong đó có 10 nước có kim ngạch nhập khẩu trên 10 triệu USD, chiếm 70% tổng số lượng cà phê xuất khẩu của tỉnh (tương đương với 228451 tấn) như: Nhật Bản trên 65,3 triệu USD, Đức 59,9 triệu USD, Italia 48,2 triệu USD,.... Sản xuất cà phê bền vững, cho chất lượng cao đang là mục tiêu mà các doanh nghiệp và nhóm hộ nông dân ở Đắk Lắk hướng tới. Trong tổng số 30 doanh nghiệp sản xuất cà phê trên địa bàn Đắk Lắk, hiện có 5 doanh nghiệp sản xuất được cấp chứng chỉ “Sản xuất cà phê bền vững và có trách nhiệm” theo bộ tiêu chuẩn UTZ, gồm các công ty cà phê: Ea Pốk, Thắng Lợi, Tháng Mười và Krông Ana, đặc biệt là công ty cà phê Phước An. Ngoài việc đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp cà phê của Đắk Lắk còn chú trọng đến việc mở rộng thị trường tiêu thụ cà phê nội địa, theo tính toán của các doanh nghiệp thì trong niên vụ vừa qua, tổng số lượng cà phê tiêu thụ nội địa của các doanh nghiệp tỉnh Đắk Lắk đạt 77.662 tấn, tăng 61% so với niên vụ trước và chiếm khoảng 18,7% tổng sản lượng cà phê nhân của tỉnh. Cũng trong niên vụ qua, các doanh nghiệp của tỉnh Đắk Lắk đã nhập khoảng 40 - 50 ngàn tấn cà phê của các tỉnh lân cận như Lâm Đồng, Đắk Nông và Gia Lai để chế biến. Sự phát triển nhanh về diện tích, năng suất, sản lượng cà phê đã đem lại lợi ích to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh và người trồng cà phê. Từ kết quả và thực tiễn trên, nhằm hướng tới phát triển cà phê bền vững trong thời kỳ mới, Tỉnh ủy Đắk Lắk vừa ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát 18 triển cà phê bền vững đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 với mục tiêu phát triển cà phê theo tiêu chí của thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột: ổn định về năng suất, sản lượng, chất lượng, phát triển cà phê phải gắn chặt với phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, du lịch, bảo vệ môi trường. 1.2.2.2 Tình hình sản xuất cà phê tại huyện Krông Pắk – Đắk Lắk Krông Pắk là 1 trong 12 huyện của tỉnh Đắck Lắk, trung tâm huyện là Thị trấn Phước An. Hiện tại, huyện đang xây dựng khu công nghiệp phía Đông Nam Thị trấn Phước An. Được hưởng thế mạnh mà thiên nhiên đem tặng cho khu vục Đắk lắk, vì vậy mà huyện Krông Pắk được nằm giữa hai cao nguyên Buôn Ma Thuột và M’Đrắk, địa hình thoải theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, có đồng bằng phù sa tốt để phát triển cây cà phê và nhiều lợi cây công nghiệp khác. Kinh tế Huyện chủ yếu là: trồng cây cà phê, hồ tiêu, cao su, đậu tương, điều, lúa, cơ khí sửa chữa, vật liệu xây dựng và chế biến lâm sản. Huyện có tuyến giao thông chính là quốc lộ 21 chạy qua. Krông Pắk có lịch sử trồng cà phê từ những năm đầu thế kỷ XX. Năm 1922 đã lập nhiều đồn điền cà phê tại Huyện, điển hình là đồn điền CaDa do người Pháp xây dựng, đây là một trong những nơi đầu tiên được du nhập cây cà phê với diện tích 4.000 ha cà phê kinh doanh. Sau giải phóng 1954, số diện tích cà phê đó được giao lại theo quyết định số 109/QĐ-UB về việc thành lập Nông trường quốc doanh địa phương, lấy tên là Nông trường Phước An huyện Krông Pắk (hiện nay là Công ty cà phê Phước An). Đến nay cây cà phê vẫn chiếm một vị thế quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các nông trường quốc doanh. Huyện Krông Pắk hôm nay đã phát triển theo chiều hướng đi lên. Hai năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế của Krông Pắk luôn đứng trong nhóm dẫn đầu của Tỉnh. Năm 2007, thu ngân sách của huyện đạt gần 100 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đạt gần 11 triệu đồng/người/năm. Kinh tế Krông Pắk đang được đánh giá là phát triển nhanh theo hướng bền vững, đa dạng. 19 Hiện nay, tổng diện tích cà phê của huyện Krông Pắk khoảng trên 18.195 ha cho tổng sản lượng trên 45.200 tấn, là địa phương thuộc diện có diện tích cà phê, sản lượng cà phê lớn nhất của tỉnh Đắk Lắk. Mỗi mùa thu hoạch cà phê, nhất là khi được mùa, được giá đối với người dân nơi đây như là dịp lễ hội. Chỉ ở một thị trấn như thị trần Phước An diện tích cà phê đã lên tới trên 3.800 ha, trong đó khoảng 1.400 ha là cà phê nhân dân, diện tích còn lại chủ yếu thuộc Công ty cà phê Phước An quản lý, số ít diện tích thuộc Nông trường khác. Có thể nói niềm vui không chỉ đến với những công nhân làm cà phê, những gia đình có diện tích gieo trồng, đối với mỗi người dân lao động nơi đây khi mùa thu hoạch cà phê đến họ lại có thêm công ăn việc làm, có thêm thu nhập, mỗi ngày công lao động thu hái cà phê lên đến cả trăm nghìn đồng. Cà phê vừa mang ý nghĩa kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt xã hội, góp phần làm thay đổi đời sống tạo sự ổn định cho nhiều người dân ở địa phương. 1.3 TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA CÔNG TY CÀ PHÊ PHƯỚC AN, HUYỆN KRÔNG PẮK, TỈNH ĐẮK LẮK 1.3.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Công ty cà phê Phước An được xây dựng và phát triển trên vùng đất CADA. Với cao nguyên đất đỏ Bazan rộng lớn và khí hậu đặc trưng phù hợp cho cây cà phê phát triển. Công ty cà phê Phước An tiền thân là Nông trường cà phê Phước An thành lập năm 1977 là Doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo quyết định số 649/QĐ-UB ngày 27/10/1992 của UBND Tỉnh Đắk Lắk, Quyết định đổi tên doanh nghiệp số 1044/QĐ-UB ngày 05/6/1996 của UBND Tỉnh Đắk Lắk. Trong hơn 30 năm qua, Công ty luôn được sự quan tâm của lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND Tỉnh Đắk Lắk và các ban ngành liên quan, cùng với sự nỗ lực và quyết tâm của toàn thể CBCNV của công ty đã không ngừng vươn lên phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đạt kết quả cao trong kinh doanh, góp phần vào sự nghiệp phát triển của toàn Tỉnh. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan