Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá hiện trạng sản xuất, thành phần dinh dưỡng và hàm lượng kim loại nặng t...

Tài liệu đánh giá hiện trạng sản xuất, thành phần dinh dưỡng và hàm lượng kim loại nặng trong cây cải xoong (nasturtium microphyllum) tại thái nguyên

.PDF
77
275
75

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Rau xanh là nguồn thực phẩm không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của con người. Nó không chỉ cung cấp một lượng lớn các vitamin mà còn cung cấp một phần các nguyên tố khoáng đa lượng, vi lượng rất cần thiết trong cấu tạo tế bào. Đồng thời, rau còn là những loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao và cũng là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, một phần không nhỏ sản phẩm rau xanh trên thị trường chưa đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Chính vì thế, xu hướng phát triển của ngành sản xuất rau xanh trên thế giới hiện nay là tăng tỷ trọng các loại rau bản địa để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Thái Nguyên là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của khu vực miền núi và trung du phía Đông Bắc. Ý thức được việc sản xuất rau sạch cho địa phương và cho các vùng lân cận, năm 2008 Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã phê duyệt “Đề án Phát triển rau an toàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2008 - 2015”. Một số nghiên cứu trước đã cho thấy cây cải xoong là loại rau dại vừa có giá trị dinh dưỡng cao, vừa có nhiều dược tính quý, lại vừa có khả năng hút nhiều kim loại nặng trong môi trường sống. Có thể nói những loại cây có nhiều đặc tính quý như cây cải xoong là hiếm. Trong khi ở Thái Nguyên, hiện tại nhiều vùng đất bị ô nhiễm kim loại nặng (KLN), cây cải xoong đang mọc hoang dại ở một số vùng núi. Người dân ở các vùng này vẫn lấy về làm rau ăn như một loại rau dại. Gần đây, bắt đầu xuất hiện một vài người trồng cây cải xoong để bán rau. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu xác định xem cây cải xoong có khả năng hấp thụ kim loại nặng nhiều hay ít và hấp thụ trong những bộ phận nào (thân, rễ, lá) là chủ yếu. Mặt khác, khi xác định được khả năng hấp thụ kim loại nặng của cải xoong còn giúp đưa ra khuyến 2 cáo về việc sử dụng cải xoong theo đúng mục đích để phát huy được những tác dụng tích cực cũng như hạn chế những nhược điểm cho từng đối tượng sử dụng và từng mục đích sử dụng. Cho đến nay ở nước ta chưa có một nghiên cứu đầy đủ toàn diện nào về cây cải xoong; đặc biệt, ở vùng Thái Nguyên cây cải xoong chưa từng được nghiên cứu. Vì vậy, nghiên cứu về thực trạng sản xuất, thành phần dinh dưỡng và hàm lượng kim loại nặng trong cây cải xoong tại Thái Nguyên để khuyến cáo cho người sản xuất và người tiêu dùng là hết sức cần thiết. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành đề tài: Đánh giá hiện trạng sản xuất, thành phần dinh dưỡng và hàm lượng kim loại nặng trong cây cải xoong (Nasturtium microphyllum) tại Thái Nguyên. 2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI - Mục tiêu tổng quát của đề tài: Điều tra, đánh giá hiện trạng sản xuất; phân tích thành phần dinh dưỡng và hàm lượng các kim loại nặng chính trong cây cải xoong tại tỉnh Thái Nguyên để đưa ra những kết luận cho người quản lí, người sản xuất và người tiêu dùng cải xoong tại Thái Nguyên cũng như trong cả nước tham khảo. - Mục tiêu cụ thể: Đề tài nhằm 3 mục tiêu cụ thể sau: + Điều tra hiện trạng sản xuất cải xoong để đưa ra được kết luận về diện tích, năng suất, sản lượng, giá bán, hiệu quả kinh tế… của cải xoong tại tỉnh Thái Nguyên; + Phân tích thành phần các chất dinh dưỡng chính để đưa ra được kết luận về hàm lượng protein, gluxit, lipit… trong cải xoong tại các điểm nghiên cứu trong tỉnh Thái Nguyên; + Phân tích hàm lượng các kim loại nặng chính để đưa ra được kết luận về hàm lượng chì, cadmi, asen, kẽm… trong cải xoong tại các điểm nghiên cứu trong tỉnh Thái Nguyên; từ đó so sánh với tiêu chuẩn cho phép của từng nguyên tố để đánh giá, nhận xét. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 1.1.1. Cơ sở lí luận của đề tài Rau là nguồn thực phẩm không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hàng ngày của con người nó cung cấp phần lớn các khoáng chất, vitamin và các chất dinh dưỡng khác cho con người. Theo nghiên cứu của các nhà dinh dưỡng học thì hàng ngày chúng ta cần 2.300 - 2.500 calo cho năng lượng để hoạt động sống và làm việc. Để có đủ năng lượng và vitamin thì mỗi ngày cần bổ sung thêm khoảng 300g rau (Sylvia S.Mader, 2004) [42]. Từ nhu cầu về rau hàng ngày càng gia tăng, người nông dân đã không ngừng nâng cao năng suất rau nhờ áp dụng các biện pháp thâm canh tăng vụ, tăng cường phân bón và hoá chất bảo vệ thực vật. Việc sử dụng một lượng lớn và không đúng quy định về phân bón và hoá chất bảo vệ thực vật đã làm giảm chất lượng của các loại rau. Ngoài ra, do quá trình đô thị hoá và chất thải của các nhà máy xí nghiệp công nghiệp đã dẫn đến tình trạng nhiễm bẩn đất, nước và nông sản; đặc biệt là ở khu công nghiệp tập trung hay ở các thành phố lớn. Theo quy định về tiêu chuẩn chất lượng rau sạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì rau sạch có 2 tiêu chuẩn chung sau [24]: - Rau quả sạch đảm bảo phẩm cấp, chất lượng; không dập, nát, héo, úa, hư hại; không rấm, ủ bằng chất độc; sạch đất, cát bám bẩn. - Hàm lượng nitrat, kim loại nặng, dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật và vi sinh vật gây bệnh trong mức cho phép. Trong đề tài này chúng tôi chỉ đề cập tới tiêu chuẩn thứ 2, cụ thể là nghiên cứu hàm lượng kim loại nặng trong cải xoong. Thực vật có nhiều cách phản ứng khác nhau đối với sự có mặt của các ion kim loại trong môi trường. Có nhiều giả thuyết đã được đưa ra để giải thích cơ chế vận chuyển, hấp thụ và loại bỏ kim loại nặng trong thực vật, 4 chẳng hạn chúng hình thành một phức hợp tách kim loại ra khỏi đất, tích luỹ trong các bộ phận của cây, sau đó được loại bỏ qua lá khô, rửa trôi qua biểu bì, bị đốt cháy hoặc đơn thuần là phản ứng tự nhiên của cơ thể thực vật. Cây cải xoong là một loại thực vật thủy sinh hay bán thủy sinh, sống lâu năm và lớn nhanh, có nguồn gốc từ châu Âu tới Trung Á. Miền núi và trung du phía Bắc có mùa đông lạnh nên hoàn toàn có thể trồng được cải xoong. Hiện nay, xu hướng phát triển của ngành sản xuất rau xanh trên thế giới là tăng tỷ trọng, sản lượng và chất lượng rau bản địa để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Đã có những nghiên cứu cho rằng cây cải xoong hút nhiều kim loại nặng. Ở miền núi và trung du phía Bắc có rất nhiều vùng trong đất và nước bị ô nhiễm kim loại nặng nhưng cải xoong vẫn sống bình thường trên các vùng đó. Ở một số vùng núi trong tỉnh Thái Nguyên, nơi có suối nước chảy đã có nhiều cây cải xoong mọc hoang dại, sinh trưởng và phát triển rất tốt mặc dù không được bón phân và phun thuốc phòng trừ sâu bệnh. Hiện tại, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có nhiều vùng môi trường bị ô nhiễm kim loại nặng do khai thác khoáng sản hoặc sử dụng hóa chất trong công nghiệp và nông nghiệp không hợp lí mà cây cải xoong sống bình thường ngay trên các vùng đó. Mặt khác, nhu cầu tiêu thụ rau xanh, đặc biệt là các loại rau bản địa trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cũng như các đô thị khác là rất lớn. Với những cơ sở lí luận trên thì việc nghiên cứu hiện trạng sản xuất, thành phần dinh dưỡng và hàm lượng kim loại nặng trong cây cải xoong là hết sức cần thiết. 1.1.2. Cơ sở pháp lí của đề tài Trong quá trình thực hiện đề tài dựa vào cơ sở là các văn bản pháp luật sau: 5 - Luật Bảo vệ môi trường 2005 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2006 [16]. - Quyết định số 867/1998/QĐ-BYT ngày 04 tháng 04 năm 1998 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Danh mục tiêu chuẩn vệ sinh đối với lương thực, thực phẩm [22]. - Quyết định số 03/2006/QĐ-BKHCN ngày 10 tháng 01 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ ban hành Quy định về công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hoá [23]. - Quyết định số 04/2007/QĐ-BNNPTNT ngày 19 tháng 01 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về Sản xuất rau an toàn [24]. - Quyết định số 99/2008/QĐ-BNNPTNT ngày 15 tháng 10 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về Quản lý sản xuất, kinh doanh rau, quả và chè an toàn [25]. - Quyết định số 16/2008/QĐ-BTNMT ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường [26]. - QCVN 08: 2008/BTNMT - Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành năm 2008 [20]. - QCVN 08: 2008/BTNMT - Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về giới hạn cho phép của kim loại nặng trong đất do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành năm 2008 [21]. 1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÍ MÔI TRƯỜNG BẰNG THỰC VẬT 1.2.1. Giới thiệu về công nghệ thực vật xử lý ô nhiễm môi trường Công nghệ thực vật xử lý ô nhiễm (phytoremediation) là phương pháp sử dụng thực vật để hấp thụ, chuyển hóa, cố định hoạc phân giải chất ô nhiễm trong đất, nước. Thuật ngữ “phytoremediation” bắt nguồn từ “phyto” (Theo 6 nghĩa Hy Lạp là thực vật) và “remediation” (theo nghĩa Latin là xử lý) (Trần Kông Tấu và CS, 2005) [27]. Hiện nay, trong việc giảm thiểu ô nhiễm kim loại nặng các nhà khoa học đang hướng tới các phương pháp rẻ tiền hơn và thân thiện với môi trường hơn, đó là phương pháp xử lý ô nhiễm bằng thực vật - một trong những giải pháp quan trọng, có tính khả thi cao để xử lý các vùng đất, nước bị ô nhiễm kim loại nặng. Ở Việt Nam, một số tác giả cũng đề xuất biện pháp làm sạch ô nhiễm kim loại nặng trong đất bằng cách sử dụng một số cây có khả năng tích tụ các kim loại độc hại ở mức cao như cúc su si, ngũ gia bì, cây cải xoong có thể xử lý được Cr và Ni từ nước thải mạ điện, rong đuôi chó và bèo tấm lại có khả năng giảm thiểu được Pb, Zn, Fe và Cu có trong hồ Bẩy Mẫu. Cây ổi thơm và dưa leo (Herterostrema villosum) có khả năng hấp thụ Pb và Cd rất cao, cây dương xỉ có thể làm sạch nước bị ô nhiễm As… (Trần Kông Tấu và cs, 2005) [27]. Trong những năm gần đây, người ta quan tâm rất nhiều về công nghệ sử dụng thực vật để xử lý môi trường. Theo tài liệu nghiên cứu, thế giới có ít nhất 400 loài thuộc 45 họ thực vật có khả năng hấp thụ kim loại. Các loài này là thực vật thân thảo hoặc thân gỗ, có khả năng tích luỹ và không có biểu hiện về mặt hình thái khi nồng độ kim loại trong thân cao hơn hàng trăm lần so với các loài bình thường khác [17]. Quá trình hút tách KLN nhờ thực vật hay còn gọi là quá trình tích lũy nhờ thực vật là quá trình hấp thụ và chuyển hóa các KLN trong đất thông qua rễ vào các cơ quan khí sinh của thực vật. Các loài thực vật có khả năng này được gọi là các loài thực vật siêu tích tụ, chúng có khả năng hấp thụ một lượng lớn các KLN một cách không bình thường so với các loài thực vật khác (ví dụ hấp thụ 0,1% đối với Cr, Cu, Ni hoặc 1% đối với Zn, Mn trong thân). Các loài siêu tích tụ phân bố rộng trong hệ thống thực vật, tuy nhiên về đặc điểm canh tác, phòng trừ dịch bệnh, nhu cầu dinh dưỡng, sinh lý của các đối tượng này chưa được biết nhiều (Võ Văn Minh, 2009) [17]. 7 Quá trình hút tách các chất nhờ thực vật là việc sử dụng các loài thực vật siêu tích tụ để loại bỏ kim loại trong đất bằng cách hấp thụ kim loại từ rễ chuyển lên thân, sau đó các chất ô nhiễm trong thân sẽ được thu hoạch, xử lý tiếp như là các chất thải nguy hại hoặc xử lý bằng cách phục hồi kim loại. Tùy thuộc vào KLN ô nhiễm mà lựa chọn một loài thực vật hay kết hợp nhiều loài để trồng xử lí (Võ Văn Minh, 2009) [17]. Sau thời gian trồng nhiều tuần hoặc nhiều tháng, thực vật được phân tích hàm lượng kim loại, và nếu thích hợp, thu hoạch đem thiêu đốt hoặc ủ để phục hồi kim loại. Nếu cần thiết quá trình này có thể lặp lại để loại bỏ các chất ô nhiễm đến dưới giới hạn cho phép. Cũng có thể sử dụng nhiều loài thực vật trên cùng một vị trí hoặc là trồng theo thứ tự thời gian để loại bỏ được nhiều hơn một chất ô nhiễm. Nếu thực vật thu hoạch được thiêu đốt, tro phải được xử lý như đối với chất thải nguy hại. Tuy nhiên, lượng tro đem đi xử lý không quá 10% so với phương pháp chôn lấp chất ô nhiễm thông thường (Võ Văn Minh, 2009) [17]. Có thể nói vấn đề ô nhiễm kim loại nặng trong đất, nước tại các khu công nghiệp tập trung và các thành phố lớn hiện nay ở Việt Nam là một thực tế đáng báo động. Hiện tại, vẫn chưa có một qui trình công nghệ hữu ích nào để xử lý ô nhiễm kim loại nặng trong đất, nước. Việc lựa chọn phương pháp xử lý ô nhiễm các kim loại phải căn cứ loại cây trồng, đặc điểm hệ rễ, sinh khối, pH đất, loại kim loại nặng. Xu hướng hiện nay các nhà nghiên cứu đi theo hướng lựa chọn các loại thực vật dễ trồng, chi phí thấp, có khả năng chịu được nồng độ ô nhiễm cao và nhất là có khả năng làm sạch môi trường với thời gian ngắn (Võ Văn Minh, 2009) [17]. Theo Dương Thanh Tú và cs (2008), Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã tiến hành sử dụng bèo tây trong việc xử lý ô nhiễm kim loại nặng và thu được kết quả rất tốt. Bèo tây, còn gọi là bèo lục bình hoặc bèo sen Nhật (tên khoa học: Echihornia crassipes) có nguồn gốc từ Nam Mỹ, có khả năng hấp thụ rất mạnh Cr, tiếp đến Cu và Cd [29]. 8 Tác giả Lê Đức và cs (2000), đã sử dụng bèo tây và rau muống trên nền đất ô nhiễm chì ở huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, kết quả cho thấy cùng một sinh khối khả năng hút chì của bèo tây gấp 2,7 lần rau muống và hàm lượng chì trong đất giảm 39,5% sau 60 ngày thả bèo... [17]. 1.2.2. Các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến quá trình hấp thụ kim loại nặng của thực vật Khả năng linh động và tiếp xúc sinh học của KLN chịu ảnh hưởng lớn bởi các đặc tính lý hóa của môi trường đất như: pH, hàm lượng khoáng sét, chất hữu cơ, CEC và nồng độ KLN trong đất. Thông thường pH thấp, thành phần cơ giới nhẹ, độ mùn thấp, thực vật hút KLN mạnh [17]. Để phát triển hiệu quả công nghệ thực vật xử lý ô nhiễm, các đặc tính của thực vật và các đặc tính của môi trường đất cần được khảo sát, đánh giá kĩ lưỡng. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy, thực vật có sinh khối cao trồng trong môi trường đất ô nhiễm và pH thấp, khả năng hấp thụ Zn tăng và tính độc của Zn đã làm giảm 50% sản lượng. Ví dụ: ngô và cải trong điều kiện thuận lợi, các loài thực vật có thể đạt 20 tấn sinh khối khô/ha. Trong trường hợp đất ô nhiễm đồng thời cả Zn và Cd ở mức 100mg Zn, 1mg Cd cây trồng bị giảm sản lượng đáng kể khi hàm lượng Zn trong thân đạt 500mg/kg lúc thu hoạch. Bởi vì Cd ít độc hơn Zn 100 lần, độc tính đối với thực vật của Zn là yếu tố kiểm soát sản lượng thực vật. Khi sản lượng giảm 50% (10 tấn/ha), sinh khối khô chứa 500mg/kg, thực vật chỉ loại bỏ 5kg Zn/ha/năm [17]. Cây T.caerulescens có thể loại bỏ cả Zn và Cd, có sản lượng thấp hơn các loài trên nhưng có thể chống chịu cao đến 25,000mg Zn/kg mà không bị giảm sản lượng. Thậm chí khi sản lượng thấp (5 tấn/ha) điểm bắt đầu giảm sản lượng - Zn được loại bỏ cũng tới 125kg/ha. Như vậy, có thể kết luận rằng khả năng siêu tích tụ và chống chịu cao quan trọng hơn khả năng cho sinh khối cao. Hơn nữa, việc tái chế kim loại trong thân với mục đích thương mại đối với các loài siêu tích tụ tốt hơn là phải trả tiền để xử lý sinh khối (Võ Văn Minh, 2009) [17]. 9 Trong một số trường hợp, để xử lý một nguyên tố trong đất bằng thực vật đòi hỏi phải bổ sung vào đất các yếu tố khác, bởi vì hóa tính đất hoặc thực vật làm giảm khả năng hấp thụ và chuyển hóa lên thân. Khi thêm yếu tố kìm như HEDTA, EDTA vào đất khả năng hòa tan và linh động của KLN tăng, tiếp xúc với thực vật dễ dàng hơn [27]. 1.2.3. Cơ chế của công nghệ thực vật xử lý kim loại nặng trong đất Công nghệ thực vật xử lý KLN trong đất là một dạng của công nghệ thực vật xử lý ô nhiễm. Đây là loại công nghệ bao gồm phức hệ các cơ chế khác nhau của mối quan hệ giữa thực vật và môi trường đất [17]: * Cơ chế chiết tách chất ô nhiễm bằng thực vật Quá trình chiết tách chất ô nhiễm bằng thực vật là quá trình xử lý chất độc đặc biệt là KLN, bằng cách sử dụng các loài thực vật hút chất ô nhiễm qua rễ, sau đó chuyển hóa lên các cơ quan trên mặt đất của thực vật. Chất ô nhiễm tích lũy vào thân cây và lá, sau đó thu hoạch và loại bỏ khỏi môi trường. * Cơ chế cố định chất ô nhiễm bằng thực vật Quá trình xói mòn, rửa trôi và thẩm thấu có thể di chuyển chất ô nhiễm trong đất vào nước mặt, nước ngầm. Cơ chế cố định chất ô nhiễm nhờ thực vật là cách mà chất ô nhiễm tích lũy ở rễ cây và kết tủa trong đất. Quá trình diễn ra nhờ chất tiết ở rễ thực vật cố định chất ô nhiễm và khả năng linh động của kim loại trong đất. Thực vật được trồng trên các vùng đất ô nhiễm cũng cố định được đất và có thể bao phủ bề mặt dẫn đến làm giảm xói mòn đất, ngăn chặn khả năng tiếp xúc trực tiếp giữa chất ô nhiễm và động vật. * Cơ chế xử lý chất ô nhiễm nhờ quá trình thoát hơi nước ở thực vật Thực vật có thể loại bỏ chất độc trong đất thông qua cơ chế thoát hơi nước. Đối với quá trình này, chất ô nhiễm hòa tan được hấp thụ cùng với nước vào rễ, chuyển hóa lên lá và bay hơi vào không khí thông qua khí khổng. 1.2.4. Ưu điểm và hạn chế của công nghệ thực vật xử lý kim loại nặng trong đất * Ưu điểm [17] 10 - Có thể sử dụng trên quy mô rộng, trong khi các công nghệ khác không thực hiện được. Sinh khối thực vật chứa các chất ô nhiễm có thể chiết, phục hồi lại như một nguồn tài nguyên. Ví dụ: sinh khối chứa Zn, một chất dinh dưỡng sẽ được chuyển đến những nơi thiếu Zn để bổ sung vào nguồn thức ăn cho động vật. - Có thể được sử dụng để xử lý tại chỗ hoặc chuyển chỗ. Xử lý tại chỗ luôn được cân nhắc ưu tiên, bởi vì nó giảm thiểu mức độ xáo trộn đất và giảm mức độ phát tán ô nhiễm thông qua không khí và nước. - Công nghệ thực vật xử lý ô nhiễm là công nghệ xanh, thân thiện với môi trường, tạo ra sự thẩm mỹ nên cộng đồng dễ chấp nhận. - Công nghệ thực vật không đòi hỏi các dụng cụ đắt tiền, các chuyên gia có trình độ cao và tương đối dễ dàng thực hiện. Nó có khả năng xử lý thường xuyên ở một vùng rộng lớn với nhiều chất ô nhiễm khác nhau. - Ưu điểm lớn nhất của công nghệ thực vật xử lý ô nhiễm là chi phí thấp hơn so với các công nghệ thông thường. * Hạn chế [17] - Xử lý chậm hơn phương pháp hóa lý, vì vậy phải mất thời gian dài. Thực vật xử lý một lượng nhỏ chất ô nhiễm qua mỗi mùa trồng, do đó cần mất nhiều thập kỉ mới có thể làm sạch chất ô nhiễm và chất ô nhiễm vẫn không được xử lý hoàn toàn. - Khí hậu và các yếu tố vật lý, hóa học, nồng độ chất ô nhiễm ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, phát triển của các loài thực vật. Các nhà khoa học cho rằng, chỉ có những vùng đất ô nhiễm nhẹ mới có thể sử dụng được phương pháp này, vì hầu hết các loài thực vật không thể sinh trưởng trong điều kiện môi trường ô nhiễm nặng. - Chất ô nhiễm hòa tan có thể thẩm thấu ra ngoài vùng rễ phụ thuộc vào yếu tố ngăn chặn. - Thực vật dùng để xử lý ô nhiễm thường bị giới hạn về chiều dài rễ. - Sử dụng các loài thực vật nhập nội có thể ảnh hưởng đến đa dạng sinh học. 11 - Xử lý thực vật sau xử lý ô nhiễm cũng cần được quan tâm. Sinh khối thực vật thu hoạch từ quá trình xử lý ô nhiễm được xếp vào loại nào, xử lý ra sao? Vì vậy, cần phải tiêu thụ và xử lý thích hợp. 1.2.5. Một số vấn đề môi trường cần quan tâm đối với công nghệ thực vật xử lý ô nhiễm Có rất nhiều vấn đề cần quan tâm về mặt môi trường liên quan đến việc sử dụng công nghệ thực vật xử lý ô nhiễm. Một trong các mối quan tâm lớn nhất là vấn đề sức khỏe con người. Liệu các loài thực vật tích lũy kim loại có tác động đến chuỗi thức ăn thông qua động vật ăn cỏ và côn trùng hay không? Ví dụ, chất ô nhiễm trong phấn hoa của các loài thực vật tích tụ sau khi sử dụng để xử lý chất ô nhiễm có phát tán vào côn trùng khác nhau bằng ong và côn trùng khác hay không? Các loài côn trùng tiêu hóa KLN có đưa vào chuỗi thức ăn hay không?, … Các vấn đề quan tâm khác bao gồm hậu quả tác động của các hoạt động xử lý đến mùa màng và thực vật vùng lân cận như phát tán thuốc trừ sâu, các loài thực vật ngoại lai. Sử dụng các loài thực vật nhập nội cần quan tâm bởi vì rủi ro tiềm tàng về tác động đến sự đa dạng sinh học thực vật ở vùng bản địa. Vấn đề này có thể giải quyết bằng cách sử dụng các loài thực vật bản địa ở một vùng cụ thể hoặc sử dụng các loài nhập nội vô sinh. 1.3. KHÁI QUÁT VỀ RAU AN TOÀN 1.3.1. Khái niệm về rau an toàn Những sản phẩm rau tươi có chất lượng đúng như đặc tính của chúng, mức độ nhiễm các chất độc hại và các vi sinh vật gây hại không vượt quá chỉ tiêu cho phép, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng và nuôi trồng được coi là rau đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, gọi tắt là “rau an toàn” (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1993) [24]. 1.3.2. Chất lượng của rau an toàn Rau an toàn phải đạt được các yếu tố sau [24]: 12 - Chỉ tiêu hình thái: Sản phẩm được thu hoạch đúng lúc, đúng với yêu cầu từng loại rau, không dập nát, hư thối, không lẫn tạp chất, sâu bệnh và có bao gói thích hợp (tuỳ loại). - Chỉ tiêu nội chất: Chỉ tiêu nội chất được qui định cho rau tươi bao gồm: Dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật; hàm lượng Nitrat (NO3-); hàm lượng một số kim loại nặng chủ yếu: Cd, Pb, Cu, Zn…; mức độ nhiễm các vi sinh vật gây bệnh (E.coli, Salmonella…) và ký sinh trùng đường ruột (như trứng giun đũa). Tất cả các chỉ tiêu trong từng loại rau phải đạt dưới mức cho phép theo tiêu chuẩn quy định của FAO/WHO hoặc của Việt Nam. 1.3.3. Ảnh hưởng của rau không an toàn đến sức khỏe con người và động vật Rau xanh là một thực phẩm không thể thiếu được trong bữa ăn hàng ngày của con người, vì chúng không chỉ cung cấp các loại dinh dưỡng thiết yếu như: vitamin, khoáng chất và các chất dinh dưỡng khác… Rất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể. Hàng ngày, mỗi người cần khoảng 300g rau (Sylvia S.mader, 2004) [42]. Từ nhu cầu về rau càng ngày càng gia tăng, mỗi người nông dân trồng rau đã không ngừng nâng cao năng suất trồng rau nhờ các biện pháp thâm canh tăng vụ, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật làm cho năng suất và sản lượng các loại rau hàng ngày càng tăng mạnh. Ngoài ra, do quá trình đô thị hóa và chất thải của các nhà máy xí nghiệp công nghiệp đã dẫn đến tình trạng nhiễm bẩn đất, nước, các loại sản phẩm nông nghiệp đặc biệt là ở khu công nghiệp tập trung, và các thành phố lớn. Bên cạnh đó việc sử dụng một lượng lớn và không đúng quy định về phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật đã làm giảm chất lượng của rau. Theo quy định về tiêu chuẩn chất lượng rau sạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì rau sạch gồm hai tiêu chuẩn chính như sau [24]: - Rau sạch là rau không bị ô nhiễm bởi các tác nhân sinh học, hóa học, vật lý vượt quá quy định cho phép và không gây nguy hại tới sức khỏe cho người tiêu dùng. 13 - Hàm lượng nitrat, kim loại nặng, dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật và vi sinh vật gây bệnh trong mức cho phép. Trong đề tài này tôi chỉ tiến hành nghiên cứu tới tiêu chuẩn thứ hai, cụ thể là hàm lượng kẽm trong rau cải xoong và ảnh hưởng của chúng. Kim loại nặng là nhóm kim loại có khối lượng riêng từ 5 trở lên, nghĩa là chúng nặng gấp 5 lần hoặc hơn nữa so với khối lượng riêng của nước. Ví dụ cadmi, chì, kẽm và thủy ngân… Kim loại nặng có thể tự nhiên có sẵn ở trong đất hoặc được bổ sung thêm một khối lượng nhỏ qua công đoạn bón phân (nhất là phân lân), chất phụ gia cho đất (thạch cao, phân chuồng) và hóa chất sử dụng trong công nghiệp [9]. Nhiều quốc gia có quy định cụ thể về mức kim loại nặng tối đa trên rau quả tươi. Các cây trồng thuộc nhóm nguy cơ cao này cần được kiểm tra hàm lượng kim loại nặng nếu điều kiện môi trường thuận lợi cho cây trồng hấp thu. Trong trường hợp mức dư lượng chỉ bằng hoặc dưới một nửa ngưỡng cho phép thì cứ sau 3 năm, kiểm tra lại một lần. Nếu mức dư lượng lớn hơn một nửa so với mức quy định thì tái kiểm tra hàng năm. Trong trường hợp mức dư lượng vượt ngưỡng cho phép thì cần thay đổi địa điểm sản xuất hoặc điều chỉnh phương thức canh tác và các điều kiện khác làm hạn chế khả năng hấp thu [10]. 1.3.4. Tiêu chuẩn môi trường để sản xuất rau an toàn * Tiêu chuẩn đất [24] Đất trồng rau phải ở địa hình cao, thoát nước, có thành phần cơ giới nhẹ, độ dày tầng đất trên 1 m, tầng canh tác dày trên 20 cm, pHKCl từ 6 - 7, hàm lượng chất hữu cơ khá. Về vị trí phải xa đường quốc lộ ít nhất 100 - 200 m, xa các khu công nghiệp, không bị ảnh hưởng bởi các nguồn nước thải thành phố. Đất phải được cày bừa kỹ làm sạch, không có các nguồn lây bệnh, đảm bảo các chỉ tiêu vệ sinh, trong đất không có dư lượng thuốc trừ sâu và KLN. * Tiêu chuẩn nước [24] 14 Vùng trồng rau an toàn phải chủ động tưới tiêu, nguồn nước tưới phải sạch, không có mùi hôi thối, tốt nhất là dùng nước giếng khoan đủ tiêu chuẩn, nước ao hồ sạch về tiêu chuẩn vệ sinh. Tuyệt đối không được sử dụng nguồn nước thải hoặc nguồn nước chảy qua khu công nghiệp và đô thị lớn để tưới cho rau an toàn. Nước rửa rau phải dùng nước giếng khoan đã lọc qua bể lọc hoặc nước đã được qua xử lý. * Tiêu chuẩn không khí [24] Vùng rau an toàn phải được bố trí trên khu vực có môi trường không khí trong sạch, cách xa các khu công nghiệp và các trục đường giao thông chính. Các chỉ tiêu về môi trường không khí như lượng bụi, SO2, Pb,... phải đạt tiêu chuẩn cho phép theo TCVN (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2007). 1.3.5. Quy trình chung để sản xuất rau an toàn Mỗi một loại rau quả đều có một quy trình sản xuất riêng tuỳ theo nhu cầu sinh lý của chúng, để đảm bảo tiêu chuẩn rau an toàn cung cấp cho nhu cầu của thị trường cần phải thực hiện đầy đủ các quy định này. Ngoài việc đảm bảo các yếu tố môi trường đất, nước, không khí để sản xuất rau an toàn cần tuân thủ các quy định sau [24]: - Thời vụ: Phải sản xuất nhiều chủng loại rau an toàn để rải vụ và cung cấp đủ cho nhu cầu người tiêu dùng, tránh tình trạng thiếu rau thời kỳ giáp vụ. - Giống: Các loại rau ăn lá, hoa, thân, củ, quả, hạt... đều có thể sản xuất theo quy trình rau an toàn. Tuy nhiên, mỗi loại rau thích ứng với từng loại đất và điều kiện sinh thái khác nhau. Các loại hạt giống và cây con đều phải sạch sâu bệnh, giống nhập nội phải qua kiểm dịch thực vật trước khi đưa vào sản xuất. Cần thiết phải xử lý hạt giống trước khi gieo trồng. - Phân bón: Tuyệt đối không được sử dụng phân tươi hoặc sử dụng nước bẩn để hoà tan phân và pha thuốc trừ sâu. Hạn chế sử dụng phân đạm chứa gốc NO3-, nhất là thời kỳ gần thu hoạch. Sử dụng phân chuồng ủ hoặc 15 phân rác ủ hoai mục và phân lân hữu cơ vi sinh để bón lót, tuỳ theo yêu cầu cụ thể của từng loại rau mà có chế độ bón lượng phân khác nhau. Chú ý bón cân đối các loại phân vô cơ N, P, K theo quy trình cụ thể của từng loại cây trồng. Khuyến khích việc sử dụng các loại phân bón qua lá, kích phát tố, điều hoà sinh trưởng nhưng phải đúng liều lượng, đúng kỹ thuật. - Phòng trừ sâu bệnh: Chú trọng biện pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM) đối với rau an toàn thì việc sử dụng thuốc BVTV là rất hạn chế, đặc biệt là các thuốc hoá học. Ưu tiên dùng thuốc trừ sâu sinh học, thảo mộc hoặc một số thuốc BVTV ít độc hại, có thời gian phân huỷ nhanh ít gây độc hại cho thiên địch và con người. - Thu hoạch và bảo quản: Thu hoạch đúng thời gian theo quy trình kĩ thuật của từng loại cây để đảm bảo rau có chất lượng tốt nhất, không bị úa, dập nát, bảo quản đúng theo tiêu chuẩn kỹ thuật của rau an toàn. Ngoài những yêu cầu trên, khu vực trồng rau an toàn còn phải bố trí trên những địa bàn có truyền thống tập quán và kinh nghiệm sản xuất lâu đời, trình độ kỹ thuật thâm canh cao, có đủ cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật, phải cách ly với các khu vực sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm. 1.3.6. Tình hình sản xuất rau và rau an toàn trên thế giới Hiện nay trên thế giới nhu cầu về rau xanh rất lớn vì rau xanh là nguồn cung cấp chất khoáng và vitamin cần thiết đối với cơ thể con người. Theo tổ chức Nông - Lương thế giới (FAO), hiện nay trên thế giới có khoảng 15 triệu ha đất sử dụng cho trồng rau, bao gồm hơn 120 chủng loại rau khác nhau với sản lượng lên tới 426.187 triệu tấn. Trong đó những chủng loại rau quan trọng chiếm diện tích lớn nhất là cà chua 2,7 triệu ha, dưa hấu 1,93 triệu ha, hành 1,91 triệu ha, cải bắp 1,7 triệu ha, ớt 1,1 triệu ha... Tuy nhiên, trình độ phát triển nghề trồng rau của các nước không giống nhau. Ở các nước phát triển cây rau được chú trọng hơn so với các nước đang phát triển [5]. Ngày nay, cùng với mức độ tăng trưởng nhanh của sản xuất nông nghiệp, trình độ thâm canh cao, ngành trồng trọt đã bộc lộ những mặt trái của 16 nó. Việc ứng dụng ồ ạt các chất hoá học (như phân bón, thuốc trừ sâu) và công nghệ sinh học... đã gây ô nhiễm môi trường canh tác và cả các nông phẩm. Rau xanh là đối tượng sử dụng các chất dinh dưỡng rất cao so với các loại cây trồng khác. Điều đáng quan tâm là lượng sử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu bệnh trên cây rau ít được tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình đã khuyến cáo nên đã gây ra hiện tượng ô nhiễm sản phẩm này. Vấn đề rau sạch đã được những người nghiên cứu, người sản xuất và đông đảo những người tiêu dùng quan tâm nhiều hơn. Ở các nước phát triển và một số nước trong khu vực đã nghiên cứu và hoàn thiện các quy trình kỹ thuật sản xuất rau an toàn, phương pháp đánh giá thuốc bảo vệ thực vật, nitrat, vi sinh vật gây hại, cấp chứng chỉ cho rau sản xuất an toàn. Ở Nhật và các nước Tây Âu, rau sản xuất đại trà thường được sản xuất theo quy trình canh tác tiên tiến, hợp lý và được các cơ quan quản lý, thanh tra nông nghiệp kiểm tra hết sức chặt chẽ. Do vậy, chất lượng rau sản xuất đại trà của họ cũng tương đương chất lượng rau sạch của nước ta. Còn rau sạch của các nước phát triển thường là rau sạch tuyệt đối, được sản xuất trong nhà kính. Đối với loại rau sạch này giá thành sản xuất thường bằng 170 - 200% giá rau đại trà và việc tiêu thụ thường phải theo hợp đồng đặt hàng và có sẵn địa chỉ như: các bệnh viện, nhà an dưỡng, trường tiểu học, mẫu giáo, các nhà hàng khách sạn cao cấp... Còn rau sản xuất đại trà hầu như đều qua các chợ mua buôn bán [5]. 1.3.7. Tình hình sản xuất rau và rau an toàn ở Việt Nam Việt Nam là một nước có tiềm năng phát triển ngành rau quả. theo số liệu thống kê diện tích trồng rau cả nước năm 1985 là 224.000 ha, năm 1990 là 241.000 ha, năm 1997 là 377.000 ha, năm 2000 là 445.000 ha. Tổng sản lượng rau xanh 10 năm gần đây tăng từ 3.225.000 tấn lên 6.007.000 tấn. Trung bình cứ mỗi năm tăng 278.200 tấn. Năng suất rau nước ta năm cao nhất (1997) đạt 138,8 tạ/ha bằng 74% so với năng suất trung bình toàn thế giới (178 tạ/ha). Nhưng năng suất rau vẫn bấp bênh, năm 2000 năng suất rau 17 của chúng ta là 135 tạ/ha. Sở dĩ năng suất bếp bênh như vậy là do chúng ta chưa có bộ giống tốt chủ yếu là do nông dân tự để giống. Chủng loại rau của chúng ta tuy phong phú nhưng cơ cấu cây trồng lại không phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, cơ cấu canh tác của ta là 54% rau ăn lá, 26% rau ăn quả, 5% rau ăn củ, 7% rau ăn bắp thân, hoa, 8% là rau gia vị. Trong khi đó thị hiếu của người tiêu dùng lại chuyển sang rau gia vị, rau ăn thân, ăn quả. Ngoài ra mức độ an toàn của sản phẩm chưa cao, sản phẩm rau và môi trường canh tác bị ô nhiễm ngày một gia tăng. Đó là nguyên nhân làm cho sản phẩm rau của chúng ta chưa hấp dẫn được người tiêu dùng trong nước cũng như người tiêu dùng quốc tế (Hoàng Thị Hoa, 2008) [10]. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và sản xuất rau an toàn ở nước ta đã được triển khai ở một số thành phố như: Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Lạt... đã thu được những kết quả nhất định đem lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường cho người sản xuất và người tiêu dùng. Nhưng vấn đề về vốn và lưu thông phân phối lại là một trở ngại lớn cho quá trình sản xuất khi chúng được sản xuất trên quy mô lớn. 1.4. KHÁI QUÁT VỀ CÂY CẢI XOONG 1.4.1. Giới thiệu về cây cải xoong Ngay từ cuối thế kỉ 19, người ta đã phát hiện ra loài cải xoong (Nasturtium microphyllum), thuộc dòng Hyperaccumlators, biết ăn kim loại nặng từ trong đất. Những nông dân phát ruộng đã tìm thấy từ trong thân của loại này một lượng lớn KLN. Sau này người ta phát hiện ra khoảng 20 loài cải dại thuộc loại này rất thích KLN như: Kẽm, đồng, chì… Hấp thụ chất độc đó chúng không chết mà ngược lại chúng phát triển rất nhanh [39]. Cải xoong có nguồn ngốc Châu Âu, ngày nay được trồng ở phía Tây Châu Á và nhiều nước trong vùng nhiệt đới như Mã Lai, Ấn Độ, In-đô-nê-xia, Việt Nam,… và ở phía Bắc Châu Phi. Cải xoong giàu Calcium (64 mg), sắt (1,1 mg), vitamin A, C,… [42]. 18 Ở Việt Nam, cải xoong được trồng chủ yếu ở vùng cao, có khí hậu mát như miền Bắc. Thân cải non, mềm, xốp dài 20 - 60 cm, mỗi lóng thân dài 1 5 cm tùy thuộc rất lớn vào thời tiết và sự chăm sóc, mỗi mắt có thể mọc một cành. Lá kép có 3 - 9 lá phụ, lá đỉnh to nhất, lá cải hình tròn nhỏ màu xanh đậm, rìa lá răng cưa. Cải xoong thuộc loại rễ chùm, có nhiều rễ phụ ở đốt thân có thể hút chất dinh dưỡng và nếu đem trồng sẽ thành cây độc lập [24]. Cải xoong rất thích sống ở nơi nhiều đất bùn, sống dưới nước, độ ngập khoảng 4 - 5 cm nơi có dòng nước chảy như ở dưới chân của thác nước, mực nước sâu thì thân cải mọc dài. Cây sinh trưởng tốt ở nhiệt độ 15 - 200C, ở độ cao trên 1000m so với mặt nước biển (như vùng Đà Lạt). Độ pH của đất thích hợp nhất 6 - 7, không sống được trong đất phèn, đất mặn hoặc đất cát trong mùa nắng. Cây rất thích độ ẩm cao, cần nước tưới thường xuyên [24]. 1.4.2. Những nghiên cứu về cây cải xoong 1.4.2.1. Giá trị dinh dưỡng của cây cải xoong Cải xoong chứa một lượng đáng kể sắt, canxi và axít folic cùng với các vitamin A và C, và một số lợi ích cho việc ăn cải xoong, chẳng hạn việc nó có tác dụng như một chất kích thích nhẹ, một nguồn hóa chất thực vật, có tác dụng chống ôxi hóa, lợi tiểu, long đờm và trợ giúp tiêu hóa. Ngoài ra rau cải xoong còn chứa rất nhiều các vitamin B1, B2, E, và phốt pho, iốt và một số khoáng chất vi lượng có tác dụng bảo vệ sức khỏe, chống bệnh tật, chống bệnh bướu cổ, nhiễm trùng, chống sự lão hóa, giữ gìn xuân sắc tươi trẻ. Tại một số khu vực, cải xoong được coi là cỏ dại nhưng tại những khu vực khác thì nó lại được coi là rau ăn hay cây thuốc. Cải xoong là một món ăn phổ biến và không hạn chế của con người [39]. Kết quả phân tích các thành phần hoá học trong 100g rau cải xoong (phần dùng để ăn được) có giá trị dinh dưỡng như sau: Nước chiếm 93g, protein 1,7 2g, chất béo 0,2 - 0,3g, gluxit 3 - 4g, chất xơ 0,8 - 1g, vitamin A, B1, B2, C và nhiều chất khoáng khác. Đặc biệt, lượng iôt trong rau cải xoong rất cao 20 30mg/100g rau cải xoong phần ăn được. Vitamin C cao (40 - 50mg/100g rau). 19 Nhờ trong rau cải xoong chứa lượng vitamin C cao, lại có vitamine A, B1, B2 nên đã giúp bảo vệ sức khỏe, chống oxy hóa, chống độc, làm tăng sức đề kháng cho cơ thể, chống hiện tượng lão hoá bệnh lý, giữ gìn nét tươi trẻ. Ngoài ra, nhiều yếu tố khoáng chất rất dễ hấp thu như canxi, iôt vì chúng đều ở dạng liên kết hữu cơ. Nếu lượng canxi đầy đủ mỗi ngày cho cơ thể là 1.000 mg thì sẽ giúp người ta ít mắc bệnh tim và góp phần chống lão hoá. Còn iôt cần cho tuyến giáp để phòng chống bướu cổ và tăng khả năng tự vệ cho cơ thể, tăng sự trao đổi chất của tế bào, chống còi xương và bệnh béo phì, các bệnh ngoài da, bệnh xơ cứng động mạch ở người già. Song lượng iôt cần cho cơ thể rất nhỏ chỉ 0,1 0,15mg/ngày, nhưng thiếu lại sinh bệnh, như vậy mỗi ngày cần ăn rau cải xoong từ 9 - 10g là đủ lượng iôt trên. Rau cải xoong giúp ta ăn ngon miệng lại tẩy độc, lợi tiểu, có nhiều chất xơ nên tác dụng tốt đối với dạ dày, có tác dụng thông gan mật và góp phần làm giảm bệnh ứ máu. Món ăn rau cải xoong nấu với cá tươi vừa ngon, bổ, mát, có tác dụng giải nhiệt, phòng nhiệt, lợi tiểu, cầm máu, chữa bệnh phổi và một số bệnh khác [1]. 1.4.2.2. Giá trị kinh tế của cây cải xoong Hiện nay rau cải xoong rất được ưa chuộng để làm thực phẩm cải thiện bữa ăn hàng ngày đặc biệt được tiêu thụ rất nhiều cho các của hàng đặc sản, khách sạn… Vì nó là món ăn ngon miệng, bổ và hợp khẩu vị người Việt Nam. Do vậy, người dân đã bắt đầu mở rộng diên tích trồng rau cải xoong, phát triển sản xuất đại trà để phục vụ lợi ích kinh tế nhất là ở các tỉnh phía Bắc nước ta với khí hậu phù hợp cho sự phát triển của rau cải xoong. Hiện tại, đã xuất hiện những vùng trồng cải xoong hàng vài ha (như chân đèo Mã Phục, Cao Bằng). Thu nhập của người trồng cải xoong thường cao hơn so với những loài rau thông dụng khác. 1.4.2.3. Giá trị về xử lý môi trường của cây cải xoong Hiện nay, trên thế giới có ít nhất 400 loài thuộc 45 họ thực vật có khả năng hấp thụ kim loại trong đó có rau cải xoong. Các loài này là thực vật thân thảo hoặc thân gỗ, có khả năng tích luỹ và không có biểu hiện về mặt hình 20 thái khi nồng độ kim loại trong thân cao hơn hàng trăm lần so với các loài bình thường khác. Có nhiều giả thuyết đã được đưa ra để giải thích cơ chế vận chuyển, hấp thụ và loại bỏ kim loại nặng trong thực vật, chẳng hạn chúng hình thành một phức hợp tách kim loại ra khỏi đất, tích luỹ trong các bộ phận của cây, sau đó được loại bỏ qua lá khô, rửa trôi qua biểu bì, bị đốt cháy hoặc đơn thuần là phản ứng tự nhiên của cơ thể thực vật. Rau cải xoong cũng vậy [17]. Cải xoong là loài thực vật rất "nghiện" kim loại nặng. Nhiều loài cải dại khác cũng lớn nhanh như thổi khi được "ăn" nhiều chất độc tính cao như kẽm, niken... [17]. Rau cải xoong có khả năng thích nghi cao đối với các KLN như: As, Zn, Ni, Cu…Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu hết các loài thực vật rất nhậy cảm với độc tính KLN và hầu hết có ngưỡng chịu đựng được với KLN thấp (As, Zn, Ni, Cu). Trong khi đó rau cải xoong có khả năng thích nghi được trong điều kiện môi trường có nồng độ KLN cao [17]. Hơn nữa, mặc dù rau cải xoong không phải là loài siêu tích tụ, nhưng nó có thể được sử dụng để xử lý một số KLN từ các vùng đất ô nhiễm hoặc chất thải một cách an toàn, như rễ và thân lá của rau có thể tích lũy hơn 5 lần đối với Zn, Cr…Ngoài cải xoong, một số loài thực vật thông thường khác cũng có khả năng hấp thụ kim loại nặng như bèo tây, cỏ Vertiver , rau muống, dương xỉ kết hợp với nấm cộng sinh... [17]. 1.4.3. Sơ lược tình hình sản xuất và tiêu thụ rau cải xoong 1.4.3.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau cải xoong trên thế giới và Việt Nam Cải xoong có nguồn ngốc từ châu Âu, ngày nay được trồng nhiều ở phía tây châu Á, ở Bắc Phi, Bắc Mỹ và nhiều nước trong vùng khí hậu nhiệt đới như Malaixia, Ấn Độ, In đô nê xi a, Việt Nam… Ở việt nam cải xoong chủ yếu được trồng ở vùng cao có khí hậu mát mẻ như miền bắc các tỉnh miền núi phía bắc, ở Sa Pa, Đà Lạt, Bình Thuận, đồng bằng sông Cửu Long, Vĩnh Long đây là những vùng có truyền thống trồng và sử dụng rau cải
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan