Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc ở việt nam từ năm 1930 đến năm 1945...

Tài liệu đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc ở việt nam từ năm 1930 đến năm 1945

.PDF
165
204
114

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------- NGUYỄN VĂN CHUNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------- NGUYỄN VĂN CHUNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số : 62 22 56 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. VŨ QUANG HIỂN HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Nhiều tư liệu và kết luận khoa học mới của luận án chưa từng được nghiên cứu, công bố trên bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Văn Chung MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI .......................................................................................................................6 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài ...................................................6 1.2. Tóm lƣợc những kết quả nghiên cứu .........................................................24 1.3. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu.............................................26 Chƣơng 2. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939 .........27 2.1. Những yếu tố tác động đến việc giải quyết vấn đề dân tộc ......................27 2.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin ..................................................27 2.1.2. Quan điểm của Quốc tế Cộng sản ..........................................................31 2.1.3. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề dân tộc ..............................36 2.1.4. Thực tiễn vấn đề dân tộc ở Việt Nam và Đông Dương ..........................39 2.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với vấn đề giƣơng cao ngọn cờ dân tộc ...................................................................................................43 2.2.1. Chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản về việc thành lập ở Đông Dương một Đảng Cộng sản ..........................................................................................43 2.2.2. Giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ nước Việt Nam và đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu .......................................................46 2.3. Quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc (từ tháng 10-1930 đến tháng 3-1935) .......................................................................................................55 2.3.1. Giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi toàn Đông Dương ..................55 2.3.2. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất ......61 2.3.3. Chỉ đạo thực hiện giải quyết vấn đề dân tộc ..........................................69 2.4. Vấn đề dân tộc trong những năm 1936 - 1939 ..........................................75 2.4.1. Tình hình mới và chủ trương mới của Đảng ..........................................75 2.4.2. Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất .........................................................................................80 2.4.3. Chỉ đạo thực hiện giải quyết vấn đề dân tộc ..........................................81 Chƣơng 3. CHỦ TRƢƠNG THAY ĐỔI CHIẾN LƢỢC VÀ SỰ CHỈ ĐẠO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC GIAI ĐOẠN 1939-1945 .............................90 3.1. Chủ trƣơng thay đổi chiến lƣợc..................................................................90 3.1.1. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, tình thế cách mạng xuất hiện ......90 3.1.2. Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương .....................................................................................................93 3.1.3. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất ....106 3.2. Lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết dân tộc, tiến hành khởi nghĩa toàn dân, thành lập nhà nƣớc của chung toàn dân tộc .................................113 3.2.1. Xây dựng khối đoàn kết dân tộc và chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám ............................................................................................113 3.2.2. Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa dân tộc và thành lập nhà nước của chung toàn dân tộc ..........................................................................................118 Chƣơng 4. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ....................................................123 4.1. Nhận xét ......................................................................................................123 4.1.1. Chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi quan điểm và sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản .........................123 4.1.2. Quá trình giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam là cuộc đấu tranh quyết liệt về quan điểm, tư tưởng trong nội bộ Đảng .....................................126 4.1.3. Quá trình giải quyết vấn đề dân tộc khẳng định sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở thuộc địa, bản lĩnh và sự trưởng thành của Đảng qua mỗi giai đoạn cách mạng ...............................................129 4.2. Bài học kinh nghiệm ..................................................................................132 4.2.1. Xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam để đề ra chủ trương, đường lối ............................................................................................132 4.2.2. Giương cao ngọn cờ dân tộc, giải quyết đúng đắn nhiệm vụ dân tộc và dân chủ .......................................................................................................135 4.2.3. Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, dựa vào sức mình là chính ....138 4.2.4. Tôn trọng quyền dân tộc tự quyết và đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, cơ sở cho việc phát huy sức mạnh từng dân tộc và liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương ..........................................................................................139 4.2.5. Tập hợp, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất ..................................................................142 KẾT LUẬN ............................................................................................................146 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .....................................................................................................149 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................150 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề dân tộc - quốc gia dân tộc (nation) có nội dung rộng lớn, có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải được nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn và sáng tạo, gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể. Từ khi thực dân Pháp áp đặt ách thống trị trên bán đảo Đông Dương, lập ra Liên bang Đông Dương, gồm Việt Nam và Cao Miên (năm 1887), sau có thêm Lào (năm 1899), các nước Việt Nam, Lào và Campuchia mất độc lập, nhân dân mất tự do. Độc lập dân tộc trở thành khát vọng cháy bỏng của mọi người dân mất nước. Đó là thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10-1930 đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương) đã vận dụng lý luận và phân tích thực tiễn để đề ra chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam theo những nhận thức và cách thức khác nhau, hình thành nên những quan điểm khác nhau trên hai mối quan hệ: Một là, mối quan hệ dân tộc giữa Việt Nam với Lào và Campuchia, có hai loại quan điểm: 1- Giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước và 2- Giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi cả ba nước ở Đông Dương. Mỗi quan điểm đó đều chi phối việc đặt tên đảng và xác định sứ mệnh lãnh đạo của Đảng, thành lập mặt trận dân tộc thống nhất và chính quyền cách mạng ở từng nước hoặc chung cho cả ba nước. Hai là, giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ “độc lập dân tộc” và “cách mạng ruộng đất”, khi thì đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, khi thì đặt hai nhiệm vụ đó ngang hàng nhau, thậm chí có lúc nhấn mạnh cách mạng ruộng đất. Thực tiễn đó chứng tỏ việc vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào thực tiễn cách mạng Việt Nam là một quá trình không đơn giản, một chiều, mà có sự tác động của những nhân tố chủ quan và khách quan. Tình hình đó dẫn đến cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng, có lúc rất gay gắt, để cuối cùng đi tới sự thống nhất một chủ trương đúng đắn và đưa cách mạng đến thành công. Điều đó thể hiện trách nhiệm của Đảng đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, thể hiện bản chất của một chính đảng cách mạng. 1 Cũng trong thời gian này, do có những quan điểm và chủ trương trái ngược tinh thần chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản trên nhiều vấn đề, trong đó có chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, vấn đề đặt tên Đảng, nên trong một thời gian dài, Nguyễn Ái Quốc đã chịu sự phê phán gay gắt và đối xử lạnh nhạt của Quốc tế Cộng sản… Sự đánh giá sai lệch đó đã gây ra hậu quả không tốt cho phong trào cách mạng Việt Nam cũng như ảnh hưởng đến hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 30 của thế kỷ XX. Nghiên cứu chủ trương và quá trình Đảng giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong thời kỳ 1930 - 1945, đã làm sáng tỏ nhận thức, quan điểm và sự điều chỉnh của Đảng ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong điều kiện chịu sự chỉ đạo sâu sắc của Quốc tế Cộng sản và việc áp dụng một cách dập khuôn, máy móc sự chỉ đạo đó, cách mạng Việt Nam khó tránh khỏi những hạn chế ở những thời điểm cụ thể. Tuy nhiên, trải qua quá trình lãnh đạo cách mạng, xuất phát từ thực tiễn trong nước, cũng như tư duy và năng lực sáng tạo của mình, Đảng đã có sự điều chỉnh quan điểm, nhận thức trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương, cũng như mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với cách mạng ruộng đất. Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 mở đầu cho sự thay đổi chiến lược của Đảng và Hội nghị Trung ương tháng 5-1941, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, Đảng đã bổ sung và hoàn thiện chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, với những quyết sách đúng đắn, giải quyết một cách đúng đắn, thỏa đáng vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương, cũng như mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với cách mạng ruộng đất. Từ những vấn đề trên, nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 góp phần làm sáng rõ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền; những cống hiến của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc; rút ra một số bài học kinh nghiệm. Trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu chủ trương Đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930-1945 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc; góp phần tạo cơ sở, tiền đề cho Đảng giải quyết vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc, cũng như trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương; đồng thời góp phần hoạch định chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. 2 Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài “Đảng lãnh đạo giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945” làm đề tài luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích - Góp phần làm sáng tỏ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc 1930-1945. Từ đó, rút ra nhận xét và một số kinh nghiệm. 2.2. Nhiệm vụ - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đề ra chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng; - Phân tích có hệ thống những chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng và Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930-1945; - Nhận xét quá trình Đảng và Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc thời kỳ 1930 - 1945; rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo vận dụng để giải quyết vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những chủ trương, biện pháp của Đảng trong việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ với hai nước Lào và Campuchia; mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc với cách mạng ruộng đất. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Vấn đề dân tộc mà luận án nghiên cứu là thuộc phạm trù dân tộc quốc gia, không phải vấn đề dân tộc tộc người hay dân tộc thiểu số. Về mặt nội dung, luận án tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, quan điểm, chủ trương của Đảng và Hồ Chí Minh trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ với dân tộc Lào và Campuchia; mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với cách mạng ruộng đất; nhận xét và rút ra bài học kinh nghiệm của Đảng giải quyết vấn đề dân tộc trong thời kỳ 1930 - 1945. 3 - Không gian nghiên cứu là ở Việt Nam và phạm vi thời gian là thời kỳ 1930 - 1945 từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến khi lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành chính quyền thành công. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận của luận án Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc. 4.2. Nguồn tư liệu Nguồn tư liệu được sử dụng để nghiên cứu của luận án bao gồm: - Các tài liệu kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin; - Văn kiện Đảng toàn tập, Hồ Chí Minh toàn tập, chủ yếu trong thời kỳ 1930 - 1945; - Những công trình chuyên khảo của các tác giả trong và ngoài nước (sách và những bài viết trên các tạp chí); các luận văn, luận án có liên quan đến đề tài. - Những tư liệu có liên quan đến đề tài đang được lưu trữ tại các kho lưu trữ của Đảng, Nhà nước và các cơ quan khoa học. 4.3. Phương pháp nghiên cứu của luận án Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong luận án là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp giữa hai phương pháp đó. Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,… để làm rõ nội dung luận án đề cập. 5. Đóng góp của đề tài nghiên cứu 5.1. Về mặt khoa học - Hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945; - Góp phần làm rõ sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin của Đảng và Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa và phụ thuộc; - Góp phần cung cấp luận cứ khoa học để vận dụng vào việc củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay. - Rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử cho Đảng xử lý và giải quyết vấn đề dân tộc, mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong giai đoạn hiện nay. 4 5.2. Về mặt tư liệu - Sưu tầm, hệ thống một số tư liệu về chủ trương và sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam. - Luận án làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng trong các học viện, các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài; Chương 2: Quá trình nhận thức và chủ trương của Đảng về giải quyết vấn đề dân tộc từ năm 1930 đến năm 1939; Chương 3: Chủ trương thay đổi chiến lược và sự chỉ đạo giải quyết vấn đề dân tộc giai đoạn 1939-1945; Chương 4: Nhận xét và Kinh nghiệm. 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài Vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc trong cách mạng Việt Nam là một nội dung lớn, có ý nghĩa quan trọng, do vậy nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tổ chức và các nhà khoa học cả trong và ngoài nước. Cho đến nay, đã có hàng trăm cuốn sách, hàng nghìn bài báo, nhiều luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945. Nhiều vấn đề của thời kỳ lịch sử này đã được làm sáng tỏ. Nhưng vẫn còn đó những “khoảng trống” cần tiếp tục được nghiên cứu. Với những công trình đã xuất bản hoặc tài liệu được công bố, có thể khái quát những nghiên cứu về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc thành các nhóm sau: Nhóm thứ nhất, là những công trình, những bài nghiên cứu về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam nói chung, thời kỳ 1930-1945 nói riêng. Có thể kể đến công trình Tìm hiểu tính chất và đặc điểm của Cách mạng Tháng Tám của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1963; Góp phần tìm hiểu tư tưởng độc lập, tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh của Đinh Xuân Lâm và Lê Mậu Hãn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (Nxb. CTQG), Hà Nội, 1994; Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945 của Viện Lịch sử Đảng, Nxb.CTQG, Hà Nội, 1995; Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh của Trịnh Nhu, Vũ Dương Ninh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1996; Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, tập III, Thành công của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997; Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997; Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam của các tác giả Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1999; Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề dân tộc, dân chủ trong cách mạng Việt Nam (1930-1954) của TS. Chu Đức Tính, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001; Quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc tế của các 6 tác giả GS,TS. Trần Hữu Tiến, GS,TS. Nguyễn Ngọc Long, PGS,TS. Nguyễn Xuân Sơn, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002; các công trình của PGS. Lê Mậu Hãn, như: Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003; Các Cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011; Cách mạng Tháng Tám một sự kiện vĩ đại của thế kỷ XX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh những nội dung cơ bản của PGS, TS. Thành Duy, Nxb. Phương Đông, Hà Nội, 2005; Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, quyển 1 (1930-1954) của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006; Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc của GS, TS. Phan Ngọc Liên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008; hai công trình của tác giả Phạm Hồng Tung là Lịch sử cuộc vận động vì các quyền dân sinh, dân chủ ở Việt Nam (1936-1939), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008; Lịch sử cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh của PGS,TS Nguyễn Bá Linh, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2009; Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trên đường sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam của PGS, TS. Lê Văn Yên, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2009; Hồ Chí Minh con người của sự sống của GS,TS. Mạch Quang Thắng, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2010; Luận án tiến sĩ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), của tác giả Trần Viết Thi, Hà Nội, 2010; Luận văn thạc sĩ Nguyễn Ái Quốc với hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1930-1938, của tác giả Nguyễn Thúy Đức, Hà Nội, 2010; Hồ Chí Minh tiểu sử, GS. Song Thành chủ biên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010; Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay do Đậu Tuấn Nam chủ biên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010; Cách mạng Tháng Tám - Thắng lợi vĩ đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam, của GS,TS. Trịnh Nhu và TS. Trần Trọng Thơ, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2012; Dân tộc trong lịch sử và trong thời đại ngày nay của GS,TS. Trần Hữu Tiến, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2012; Hồ Chí Minh tiểu sử của Bảo tàng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2015, v.v.. Những công trình này có điểm chung là đều khẳng định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng và Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng tạo, trong đó tư 7 tưởng độc lập, tự do là vấn đề cốt lõi; chỉ ra sự tương đồng và khác biệt trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên với Luận cương chính trị tháng 10 - 1930; những chuyển biến trong nhận thức và chỉ đạo của Đảng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp; sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc vào thực tiễn Việt Nam, v.v.. Luận giải về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc, trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, các tác giả cho rằng, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Theo Người, đối với Việt Nam không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp. Trong cuốn Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, PGS. Lê Mậu Hãn cho rằng, độc lập, tự do là tư tưởng cách mạng cốt lõi, là lẽ sống của Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới. Tác giả khẳng định, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu trong cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là một chiến lược cách mạng đúng đắn của Hồ Chí Minh. Quyết định thay đổi chiến lược cách mạng tư sản dân quyền thành cách mạng giải phóng dân tộc, tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị lần thứ tám là một cột mốc đánh dấu sự trưởng về tư duy chính trị của Đảng, là sự phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng đã được xác định từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng… Sự thay đổi chiến lược này đã đáp ứng được yêu cầu của lịch sử, nguyện vọng của nhân dân, đã tạo nên lực hút kỳ diệu đối với mọi người Việt Nam yêu nước, dẫn đến sự vùng dậy mãnh liệt với khí thế xung thiên của cả một dân tộc, đập tan bộ máy thống trị của phát xít Nhật và tay sai, kiến lập nên nhà nước dân chủ cộng hòa, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong công trình Cách mạng Tháng Tám - Thắng lợi vĩ đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam, các tác giả Trịnh Nhu, Trần Trọng Thơ nhấn mạnh: Đặt nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập dân tộc lên hàng đầu, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, 8 Đảng đã bắt mạch đúng nguyện vọng thiêng liêng, cấp bách nhất của toàn dân tộc. Nhờ vậy lời kêu gọi cứu nước và những chính sách của Đảng tập hợp, đoàn kết, tổ chức quần chúng đấu tranh nhanh chóng được nhân dân hưởng ứng và thực hiện. Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc và lực lượng vũ trang kết tụ, phát huy được sức mạnh to lớn và toàn diện của nhân dân cả nước hướng vào thực hiện mục tiêu giành độc lập dân tộc. Cuốn sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề dân tộc dân chủ trong cách mạng Việt Nam của TS. Chu Đức Tính, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2001 cho rằng, xuất phát từ đặc điểm kinh tế - xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chính trị của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc và đánh đổ chế độ phong kiến. Từ đó, chỉ rõ hai kẻ thù, hai đối tượng của cách mạng là đế quốc thực dân xâm lược và địa chủ phong kiến tay sai. Tuy nhiên, căn cứ từ hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam…, nơi mà yếu tố dân tộc đang còn nổi trội, mà Hồ Chí Minh đã xử lý mối quan hệ dân tộc dân chủ, trong đó nội dung bản chất của dân chủ là vấn đề ruộng đất, là thực hiện người cày có ruộng, theo cách làm riêng của Việt Nam, mặc dù vì cách làm đó mà Hồ Chí Minh phải trải qua biết bao đau khổ trong lúc mình đúng mà bị hiểu sai. Trong cuốn Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc, cố GS,TS. Phan Ngọc Liên cho rằng, khi nói về dân tộc, sự thống nhất dân tộc, Hồ Chí Minh trước hết nhấn mạnh đến lòng yêu nước truyền thống, đến tinh thần, ý thức dân tộc những di sản vô cùng quý báu được xây đắp nên bằng mồ hôi, xương máu của dân tộc, suốt từ buổi đầu dựng nước đến nay. Trong cuốn sách Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trên đường sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2009, khi bàn về sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc xác định nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư sản dân quyền được Người vạch rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, PGS,TS. Lê Văn Yên cho rằng, sự sáng tạo của Người là ở chỗ, trong cuộc cách mạng này, nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải thực hiện trước hết, mục tiêu độc lập dân tộc phải được đặt lên hàng đầu, còn các nhiệm vụ khác, mục tiêu khác phải phục tùng và thực hiện từng bước. Đây là sự sáng tạo và thành công lớn của Người trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng ở một nước thuộc địa. 9 Bên cạnh các cuốn sách đã được xuất bản về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc, đã có hàng trăm bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, báo cáo khoa học, phản ánh, lý giải những chiều cạnh khác nhau và cả những tổng kết bước đầu về vấn đề này. Có thể kể đến các tác giả: GS. Song Thành, GS, TS. Trịnh Nhu, PGS, NGND. Lê Mậu Hãn, PGS, TS. Vũ Quang Hiển, PGS, TS. Phạm Xanh, PGS,TS. Nguyễn Thanh Tâm, PGS, TS. Trần Thị Thu Hương, PGS,TS. Ngô Đăng Tri… Những bài viết tiêu biểu về vấn đề này: Hồ Chí Minh với ngọn cờ độc lập lập dân tộc trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5 - 1990; Thắng lợi của khối đại đoàn kết dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 9 - 2006; Tư tưởng độc lập, tự do với chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12-2009; Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-2013… của PGS. Lê Mậu Hãn. Nội dung cơ bản trong những bài viết này khẳng định tư tưởng độc lập, tự do; chủ nghĩa dân tộc chân chính Hồ Chí Minh là nguồn cội cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. PGS. Lê Mậu Hãn khẳng định, thực chất của vấn đề dân tộc là quyền tự do, độc lập và quyền lựa chọn của mỗi dân tộc. Mỗi dân tộc phải tự mình tìm tòi, quyết định con đường, phương pháp thực hiện giải phóng và phát triển đất nước vì độc lập, tự do, đáp ứng nhu cầu tiến hóa của dân tộc. GS, TS. Trịnh Nhu có một loạt bài viết, như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, in trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo và đại đoàn kết trong cách mạng Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003; Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, sự kiểm nghiệm giá trị lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, in trong sách 60 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một số thành tựu chủ yếu, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005; Phát huy sức mạnh dân tộc, một yếu tố quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; Sự vững mạnh của Đảng, một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do và kháng chiến, kiến quốc (1930-1954); Chủ trương thay đổi chiến lược của Đảng, nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, in trong sách Mấy vấn 10 đề lịch sử Việt Nam tái hiện và suy ngẫm, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2007. Các bài viết trên đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, khẳng định vai trò của nhân tố dân tộc, chủ trương thay đổi chiến lược của Đảng và Hồ Chí Minh đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và trong các giai đoạn sau. Các bài viết Sự sáng tạo của Đảng trong quá trình xác định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc (1930-1945), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1-2010; Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930 - 1945, in trong sách Đảng Cộng sản Việt Nam - 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010; Về đường lối giải phóng dân tộc Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 8-2013, PGS, TS. Vũ Quang Hiển khẳng định, trong thời kỳ 1930 1941, để đi đến một đường lối dứt khoát, Đảng đã trải qua những bước quanh co, bị chi phối bởi những điều kiện chủ quan và khách quan. Tác giả nhấn mạnh, để xác định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng đã dũng cảm vượt lên những khuôn mẫu giáo điều, trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài, có lúc gay gắt, từng bước vượt qua những khó khăn về việc vận dụng lý luận và nhận thức thực tiễn nhằm xác định chính xác kẻ thù, nhiệm vụ chiến lược, đề ra chủ trương tập hợp lực lượng đúng đắn và phương pháp cách mạng khoa học, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể ở một nước thuộc địa. PGS, TS. Trần Thành trong bài viết Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-2010 lại khẳng định: Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc. Trong khi khẳng định nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ là đánh cả đế quốc và phong kiến, nhưng xuất phát từ một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã không coi hai nhiệm vụ đó ngang nhau, mà đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc để giải phóng dân tộc, đảm bảo mục tiêu trước mắt, trọng tâm là độc lập dân tộc, còn nhiệm vụ chống phong kiến đem lại ruộng đất cho dân cày thì được tiến hành từng bước, nhằm phục vụ cho nhiệm vụ phản đế. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh có độc lập thì mới giành được quyền bình đẳng dân tộc, quyền tự quyết dân tộc”. 11 Về vấn đề dân tộc và việc giải quyết vấn đề dân tộc còn có các bài viết: Vấn đề dân tộc - một trong những nguyên nhân tan rã của Liên bang Xô-viết, của Nguyễn Hồng Vân, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2-1996; Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc và Hội nghị thành lập Đảng về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc của TS. Trần Hải, Những luận điểm thống nhất và khác biệt giữa Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Luận cương chính trị của GS, TS. Phan Ngọc Liên, in trong sách Việt Nam trên con đường lớn bản hùng ca thế kỷ XX, do Triệu Quang Tiến chủ biên, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005; các bài viết Thành lập ở mỗi nước một chính Đảng riêng, chủ trương sáng suốt của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 2-1951, in trong sách Tình hữu nghị đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào truyền thống và triển vọng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005 và Hồ Chí Minh với việc thiết lập hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7-2013 của PGS, TS. Ngô Đăng Tri; Vấn đề dân tộc và phương thức hình dung về cộng đồng dân tộc trong những chuyển biến của thế giới của PGS, TS. Phạm Hồng Tung, in trong Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2001 - 2006), Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2006; Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin và sự vận dụng trong cách mạng Việt Nam của GS,TS. Trịnh Quốc Tuấn, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4-2010… Những công trình này tiếp tục đề cập đến vấn đề dân tộc và việc giải quyết vấn đề dân tộc, đến mô hình chính quyền nhà nước Việt Nam; sự tương đồng và khác biệt trong quan điểm cách mạng giữa Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và Luận cương chính trị tháng 10-1930, chỉ ra nguyên nhân của sự khác biệt đó… Bên cạnh các học giả Việt Nam, có một số tác giả là người nước ngoài viết về vấn đề dân tộc, hiện nay đã được dịch ra tiếng Việt. Đáng chú ý là công trình Dân tộc trong lịch sử và trong thời đại ngày nay, của tác giả An-phơ-rét Cô-din-gơ, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985. Nhóm thứ hai, là các công trình đề cập trực tiếp đến chủ trương của Đảng và Hồ Chí Minh trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Mặt trận Việt Minh - vấn đề dân tộc và giai cấp của PGS,TS. Nguyễn Tri Thư, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4-1990 nhấn mạnh đến sự đúng đắn của Đảng trong việc thành lập Mặt trận Việt Minh, đánh dấu một bước tiến lớn của Đảng ta 12 trong việc nhận thức vấn đề dân tộc và giai cấp trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Đó cũng là khẳng định trong thực tiễn những tư tưởng đúng đắn và sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề này, một vấn đề đã diễn ra cuộc đấu tranh không ít phần gay gắt trong nội bộ những người cộng sản Việt Nam trong những năm 30 của thế kỷ XX. Sự thừa nhận ở Đông Dương tồn tại ba dân tộc có quá trình phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội riêng, đã từng tồn tại với tư cách là các quốc gia trong lịch sử, đã tạo ra khả năng hết sức to lớn để động viên tinh thần dân tộc ở mỗi nước, chống lại âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của kẻ thù, tăng cường một bước mới về chất liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông Dương trong sự nghiệp giải phóng chống kẻ thù chung. Trong bài viết Nguyễn Ái Quốc và một giải pháp cho vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-1993, PGS, TS. Nguyễn Tri Thư khẳng định, việc sau khi đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp sẽ thành lập một nước Việt Nam độc lập, trên thực tế, Người (Hồ Chí Minh) đã đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương. Tới Hội nghị Trung ương lần thứ tám, tư tưởng sáng tạo trên của Nguyễn Ái Quốc đã được khẳng định dứt khoát và chứng tỏ là rất đúng đắn. Tư tưởng đó đã động viên tinh thần dân tộc ở mỗi nước, chống được âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của kẻ thù, đặt nền tảng cho liên minh chiến đấu và tình đoàn kết đặc biệt giữa ba nước Đông Dương. Tác giả Phạm Sang trong các bài viết: Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước Đông Dương, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1-1993 và Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1993, khẳng định: chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương chứng tỏ Hồ Chí Minh đã tuân thủ theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và giải quyết vấn đề dân tộc ở Đông Dương trong khuôn khổ của mỗi nước riêng biệt, nhằm thức tỉnh ý thức quốc gia dân tộc, khơi dậy sức mạnh của mỗi dân tộc, tạo ra sự tin cậy về chính trị, để đoàn kết quốc tế một cách tự nguyện, bình đẳng và có hiệu quả hơn. Tác giả nhấn mạnh: Quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và cách giải quyết mối quan hệ giữa ba dân tộc ở Đông Dương trong khuôn khổ mỗi nước riêng biệt, chẳng những là một quyết định chính xác, phù hợp, thể 13 hiện trí tuệ thiên tài của Hồ Chí Minh mà còn là một quyết định hết sức dũng cảm và đầy tinh thần trách nhiệm của Người trước giai cấp vô sản, các dân tộc Đông Dương và trước phong trào cách mạng thế giới. Nền tảng vững chắc của đường lối đúng đắn đó là trình độ hiểu biết sâu sắc, sự vận dụng nhuần nhuyễn nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, khả năng nắm bắt thực tiễn phong phú ở mỗi nước cũng như cả ba nước Đông Dương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng quan điểm trên, PGS, TS. Vũ Quang Hiển trong các bài viết: Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Đông Dương - cơ sở của liên minh chiến đấu và quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 10 - 2009 và Đảng giải quyết vấn đề dân tộc, xây dựng khối đoàn kết ba nước Đông Dương trong quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, in trong sách Đảng Cộng sản Việt Nam - 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010 hay bài viết Sáng tạo cách mạng của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản ở nước Việt Nam thuộc địa, in trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008, đã khẳng định, quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong phạm vi từng nước Đông Dương là một chủ trương đúng đắn, nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết, phát huy sức mạnh mỗi dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng mình; đập tan những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù về vấn đề dân tộc, về cái gọi là “Liên bang Đông Dương” và “họa cộng sản”; đồng thời tạo điều kiện đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung. Chủ trương đó đặt cơ sở để xây dựng một chính sách, thiết lập một quan hệ mới giữa Việt Nam với hai nước láng giềng cùng chung một kẻ thù xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc ở Đông Dương đã được nhận thức và giải quyết đúng đắn với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đó là cơ sở vững chắc để củng cố và tăng cường khối đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa hai dân tộc, tạo ra một nhân tố chiến lược, đảm bảo thắng lợi của cách mạng mỗi nước. Tiếp đó, trong bài viết Sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với việc thực hiện vấn đề dân tộc tự quyết, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 9-2011, PGS, TS. Hồ Tố Lương khẳng định, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là kết quả không chỉ của việc vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, mà còn là kết quả của việc giải quyết và thực hiện đúng đắn vấn đề dân tộc tự quyết của 14 Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và giải quyết mối quan hệ giữa ba dân tộc Đông Dương trong khuôn khổ mỗi nước riêng biệt là phù hợp với lý luận và thực tiễn cách mạng, thể hiện quan điểm đúng đắn khi vận dụng tính quốc tế và tính dân tộc trong xây dựng Đảng. Trong cuốn sách Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống chính trị nước ta trước thời kỳ đổi mới do GS, TSKH. Vũ Minh Giang chủ biên, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008 cho rằng, chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc tại Hội nghị Trung ương tám là một nhận thức mới về vấn đề dân tộc của Đảng ta sau khi đã khắc phục sai lầm “tả” khuynh về vấn đề này kéo dài từ tháng 10 - 1930. Hội nghị đã chủ trương gắn vấn đề giải phóng dân tộc với việc thành lập chính quyền mới ở Việt Nam. Đề ra mục tiêu của cuộc cách mạng dân tộc là thành lập chính quyền nhân dân do dân làm chủ không chỉ góp phần tạo nên vận hội mới cho dân tộc mà còn tạo ra động lực và sức mạnh vô địch từ khối đại đoàn kết toàn dân để đạt tới mục tiêu đó. Có thể nói, qua việc khái quát nội dung một số bài viết đề cập đến chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương của Đảng và Hồ Chí Minh, các tác giả đều khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của quyết định trên, nó phù hợp với đặc điểm chính trị, lịch sử, văn hóa của mỗi nước Đông Dương; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc. Nhóm thứ ba, những công trình, bài viết nghiên cứu về Quốc tế Cộng sản và mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với Quốc tế Cộng sản nói chung, giữa Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản nói riêng. Có thể kể ra những công trình tiêu biểu sau: Cuốn sách Thêm những hiểu biết về Hồ Chí Minh của GS.TS. Đỗ Quang Hưng, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1999, trong đó có những bài viết về quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản trong những năm 30 của thế kỷ XX đã cung cấp cho người đọc những tư liệu quý giá về một giai đoạn sóng gió, khó khăn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người; lý giải nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Cuốn sách Quốc tế Cộng sản với cách mạng Việt Nam, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2007 của TS. Hồ Tố Lương khẳng định, trong quá trình tồn tại của mình, Quốc tế 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan