VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ YẾN
ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
THEO LUẬT ĐẦU TƯ 2014 TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN
HÀN LÂM
HỌC VIỆN
KHOA
HỌC XÃ HỘI
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ YẾN
ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
THỊ YẾN
THEO LUẬT ĐẦU TƯ NGUYỄN
2014 TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM THEO LUẬT
tế
ĐẦU TƯ 2014 TỪNgành:
THỰCLuật
TIỄNkinh
THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
Mã số
: 83.80.107
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số
: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị Thu Hương
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị Thu Hương
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện Khoa học xã
hội.
Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học Viện
Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Yến
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCC
: Hợp đồng hợp tác kinh doanh
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
ĐUQT
: Điều ước quốc tế
FDI
: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ODA
: Hỗ trợ phát triển chính thức
KCN
: Khu công nghiệp
KCNC
: Khu công nghệ cao
KDTM
: Kinh doanh thương mại
KCX
: Khu chế xuất
KKT
: Khu kinh tế
LDN
: Luật Doanh nghiệp
LĐT
: Luật Đầu tư
LTM
: Luật thương mại
NXB
: Nhà xuất bản
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
UBND
: Uỷ ban nhân dân
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Quy trình cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
40
2.2
Quy trình đăng ký đầu tư
37
2.3
Quy trình thẩm tra đầu tư
46
MỤC LỤC
Mở đầu ……………………………………..………………………………1
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đăng ký đầu tư nước ngoài…...8
1.1.
Khái quát chung về đăng ký đầu tư nước ngoài …………………….8
1.2.
Lược sử các giai đoạn phát triển của hoạt động đăng ký đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam ………………………………………………...….….21
1.3.
Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong lĩnh vực đăng ký
đầu tư và bài học rút ra cho Việt Nam.…………………………………...24
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam và thực tiễn từ thành phố Hà Nội……………………………………33
2.1. Các quy định pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam...36
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Hà
Nội…………………………………………………………….…………..53
2.3. Một số nhận định, đánh giá chung pháp luật về đăng ký đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam và thực tiễn thi hành tại Hà Nội…………………...…59
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành từ thành phố Hà Nội…..….71
3.1. Những định hướng về việc hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam ………………………………………..……....71
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam ………………………………………………………………….…..75
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về đăng ký đầu
tư tại Hà Nội ………………………...…………………..……………….78
Kết luận …………………………………………….…………..…...…....82
Danh mục tài liệu tham khảo ……………………….…………..…….…..83
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự ra đời của hàng loạt các văn bản pháp luật về kinh doanh năm 2014
đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong thể chế kinh tế, chính trị của đất
nước, mang lại những tích cực to lớn cho môi trường kinh doanh và sự phát
triển của cộng đồng doanh nghiệp những năm tiếp theo. Trong đó phải kể
đến sự ra đời của LDN 2014, LĐT 2014 đánh dấu bước chuyển biến về tư
duy từ quản lý hành chính sang tư duy phục vụ doanh nghiệp, đánh dấu
những bước căn bản về thể chế quản lý doanh nghiệp. Điều này đã tạo môi
trường kinh doanh thông thoáng hơn, bình đẳng hơn cho các chủ thể thuộc
mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật về đăng
ký đầu tư nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp,
chậm đi vào cuộc sống. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất
lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực
hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa thực sự được
quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật còn hạn chế.
Đầu tư nước ngoài là phương thức đầu tư quốc tế quan trọng trong
tình hình thế giới hiện nay và là xu hướng chung mà tất cả các quốc gia
đang hướng tới. Ở Việt Nam, bên cạnh nguồn vốn trong nước đóng vai trò
quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan
trọng. Đăng ký đầu tư được coi là giai đoạn “cửa ngõ” để các Nhà đầu tư
có thể bước vào nhằm thực hiện hoạt động đầu tư với mục đích sinh lợi [8,
tr. 42 – 49]. Do vậy, đây được coi là giai đoạn tiên quyết để quyết định hoạt
động đầu tư có thành công hay không. Bên cạnh đó, ở một góc độ khác
LĐT 2014 có nhiều tư tưởng mở rộng tạo môi trường đầu tư cho doanh
nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tiễn kinh doanh hiện nay có những rào cản
1
do quy định pháp luật đặt ra, song cũng tồn tại những rào cản do vấn đề
thực thi. Một đạo luật mới được sửa đổi để phát triển mà đội ngũ thực thi
không chịu sửa đổi thì không thể phát triển theo đúng tinh thuần của luật đề
ra và càng không thể đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đặc biệt, trong giai
đoạn thực thi LĐT 2014 cho tới nay vẫn còn tồn tại một số quy định chỉ
mang tính chung chung, chưa hướng dẫn cụ thể đối với từng trường hợp và
nhiều quy định còn khá rườm rà, nhất là trong khâu đăng ký đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam. Điều này gây ảnh hưởng lớn tới hoạt động của các
nhà đầu tư khi mới gia nhập thị trường Việt Nam. Do vậy, nhiều hoạt động
nghiên cứu về đăng ký đầu tư nước ngoài đã và đang được thực hiện rất đa
dạng do xu hướng phát triển chung của thị trường đòi hỏi cần nghiên cứu
nhằm điều chỉnh cho phù hợp tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút đầu tư.
Vì vậy việc lựa chọn nghiên cứu đề tài:“Đăng ký đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam theo Luật đầu tư 2014 từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là
thực sự cần thiết. Điều này nhằm đánh giá thực trạng của pháp luật về đăng
ký đầu tư nước ngoài, qua đó làm rõ những điểm mới, điểm hạn chế còn
tồn tại và đề ra phương án giải quyết góp phần nâng cao hiệu quả của quản
lý nhà nước trong lĩnh vực đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo
một môi trường cạnh tranh và cởi mở cho các nhà đầu tư phát triển nền
kinh tế nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
hoạt động đăng ký đầu tư nước ngoài, thông qua quá trình nghiên cứu và
tìm hiểu cũng như xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, các nghiên cứu có liên
quan đến vấn đề đăng ký đầu tư nước ngoài đã giải đáp được các khía cạnh
khác nhau của hoạt động đầu tư nước ngoài, cụ thể:
2
Các công trình luận văn, luận án, chuyên đề như: Nguyễn Văn An
(2012), Nghiên cứu phát triển đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt
Nam vào lĩnh vực công nghiệp ở CHDCND Lào, Luận án Tiến sĩ kinh tế,
Đại học kinh tế quốc dân; Nguyễn Đình Khuyến (2006), Nguyễn Tiên
Phong (2011), Những vấn đề pháp lý về chuyển doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài thành công ty cổ phần, Luận văn thạc sĩ luật học; TS.
Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006), “Những xu thế đầu tư trực tiếp nước ngoài
và chiến lược thu hút - thúc đẩy đầu tư nước ngoài đến năm 2020”, Luận
văn tiến sĩ, Học viện ngoại giao Việt Nam; Đào Thị Bích Thủy (2012),
Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế trong mô
hình nền kinh tế đang phát triển, Tạp chí khoa học ĐHQHN, Kinh tế và
kinh doanh 28, Tr 193-199; Phạm Thị Mai Hương (2016), Thực trạng thu
hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc Ninh, Luận văn
Thạc sĩ quản lý kinh tế, Trường Đại học kinh tế và quản trị kinh doanh Đại học Thái Nguyên
Các chuyên đề được xuất bản thành sách hoặc được đăng tải trên các
tạp chí như: TS. Lê Xuân Bá (2006), “Tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, NXB Khoa học kỹ thuật; Tạp
chí nhà đầu tư số 93, tháng 2/2017, Tạp chí điện tử tài chính tháng
10/2017,…
Như vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên đã giải quyết được vấn
đề và phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau về đăng ký đầu tư nước ngoài
nói chung tại Việt Nam. Dù không phải là vấn đề mới song kể từ khi LDN
2014 cùng LĐT 2014 có hiệu lực thi hành cho tới nay thì vấn đề đăng ký
đầu tư hay đăng ký kinh doanh cũng có nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập
cần được nghiên cứu làm sáng tỏ. Mặt khác, với một công trình nghiên cứu
tổng thể, toàn diện về đăng ký đầu tư đi trước và có sự gắn kết với thực tiễn
3
triển khai trên địa bàn Hà Nội - một trong những trung tâm kinh tế hàng
đầu của cả nước là hết sức cần thiết hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, pháp luật và thực trạng áp dụng đăng
ký đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ việc áp dụng quy định LĐT 2014
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó đưa ra các đề xuất và khuyến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư nước ngoài nhằm xúc tiến hoạt động
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng hơn nữa trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ khung lý thuyết về hoạt động đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam.
Đánh giá thực trạng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hiện nay từ thực
tiễn tại Hà Nội để tìm ra những mặt mạnh, mặt hạn chế và nguyên nhân.
Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế những tồn tại hiện nay và nhằm
thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào những vấn đề
sau đây:
Các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật
đăng ký đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay;
Các quy định của LĐT 2014, nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành
và các quy định pháp luật về hoạt động đăng ký đầu tư nước ngoài;
4
Thực tiễn thi hành pháp luật về đăng ký đầu tư trên địa bàn thành phố
Hà Nội
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài đăng ký đầu tư nước ngoài là một đề tài có phạm vi nghiên cứu
rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, trong
yêu cầu của một bản luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên
cứu ở nội dung cụ thể sau:
- Nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về đăng ký đầu tư nước ngoài và
các văn bản hướng dẫn thi hành mà không nghiên cứu sâu hơn về quá trình
hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong bài luận văn này,
tác giả có sử dụng các quy định về đăng ký đầu tư nước ngoài theo luật đầu
tư với mục đích nhằm so sánh, đối chiếu, phân tích để nhận diện sâu sắc
hơn những thay đổi trong quy định pháp luật và bản chất của hoạt động
đăng ký đầu tư nước ngoài.
- Tìm hiểu về đăng ký đầu tư nước ngoài từ thực tiễn áp dụng tại Hà
Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác- Lênin;
- Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử,… được sử
dụng hầu hết trong chương 1 nhằm nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý
luận về đăng ký đầu tư nước ngoài, những đặc điểm của đăng ký đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam;
5
- Phương pháp hệ thống hóa, mô tả, phân tích các yếu tố liên quan đến
đăng ký đầu tư nước ngoài nhìn trong mối quan hệ biện chứng với các nhân
tố môi trường đăng ký đầu tư và những tác động liên quan đối với thành
phố Hà Nội được sử dụng chủ yếu trong chương 2 trên cơ sở các kinh
nghiệm và lý luận cơ bản về vấn đề đăng ký đầu tư nước ngoài đã được
trình bày và công bố trong các công trình liên quan đến đề tài. Từ đó tiếp
tục kế thừa và phát triển dựa trên góc độ tiếp cận và mục đích nghiên cứu;
- Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá, phân tích khi
tìm hiểu những quy định pháp luật liên quan đến đăng ký đầu tư trong
chương 2;
- Phương pháp đánh giá, tổng hợp,… được sử dụng trong chương 3
khi xem xét, tìm hiểu về các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam từ thực tiễn tại Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những phân tích, đánh giá trong đề tài mang ý nghĩa lý luận và thực
tiễn trong việc áp dụng quy định pháp luật trong hoạt động đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam nhằm hiểu và vận dụng tốt hơn pháp luật trong quá
trình áp dụng và từ đó đề xuất được các biện pháp nhằm tháo gỡ những
vướng mắc trong quy định pháp luật nhằm thu hút hơn nữa hoạt động đầu
tư vào Việt Nam trong giai đoạn tới. Cụ thể:
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và
nội dung quy định của pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài;
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đóng góp cho quá trình hoàn thiện pháp
luật về đăng ký đầu tư nước ngoài và thực tiễn áp dụng tại Hà Nội. Từ đó,
luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện và thực thi pháp luật về đăng
ký đầu tư nước ngoài để nâng cao hiệu quả thực thi trên thực tiễn trên địa
bàn Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
6
7. Cơ cấu của luận văn
Với những mục tiêu trên đây, luận văn được chia thành 3 chương như
sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đăng ký đầu tư nước ngoài
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam và thực tiễn từ thành phố Hà Nội.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành từ thành phố Hà Nội
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái quát chung về đăng ký đầu tư nước ngoài
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chung về đăng ký đầu tư nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm đăng ký đầu tư nước ngoài
Để hiểu được khái niệm về đăng ký đầu tư nước ngoài, trước hết cần
tìm hiểu về khái niệm đầu tư. Xuất phát từ khái niệm đầu tư theo từ điển
Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, đầu tư được hiểu là việc“bỏ nhân lực,
tài lực, vật lực vào một công việc gì dựa trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh
tế- xã hội” [13, tr.32]. Như vậy, đầu tư bao giờ cũng có đối tượng hay chủ
thể, mục đích và cách thức thực hiện xác định. Tuy nhiên, khái niệm này
còn khá chung chung và chưa thể hiện hết bản chất của khái niệm đầu tư.
Theo đó, đăng ký đầu tư theo khái niệm này được hiểu là việc Nhà đầu tư
ngay sau khi chuẩn bị “nhân lực, tài lực, vật lực” thực hiện thủ tục đăng ký
với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thực hiện hoạt động đầu tư.
Theo quan điểm của kinh tế học, đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh
doanh, để từ đó thu được số vốn lớn hơn số đã bỏ ra, thông qua lợi nhuận,
“là khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất, kinh doanh của một chủ thể đầu
tư, là chi phí ban đầu phục vụ một đối tượng nào đó, được sử dụng một
cách có chủ đích nhằm thỏa mãn nhu cầu của chủ đầu tư”[11]. Với cách
hiểu này thì đầu tư gói gọn trong một khâu của hoạt động kinh tế và đơn
thuần chỉ là hoạt động bỏ vốn ban đầu để hướng tới kết quả quá trình sản
xuất, kinh doanh. Đăng ký đầu tư theo đó cũng là khâu đầu tiên của quá
trình sản xuất kinh doanh được Nhà nước bảo hộ thông qua việc cấp phép
8
hoạt động, để thực hiện được thì Nhà đầu tư phải thực hiện thông báo với
cơ quan Nhà nước thông qua việc đăng ký đầu tư.
Tuy nhiên dưới góc nhìn của doanh nghiệp, đầu tư là hoạt động bỏ
vốn kinh doanh, để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế- xã hội, vì mục tiêu
tìm kiếm lợi nhuận, góp phần vào sự phát triển quốc gia. Từ góc nhìn này,
đăng ký đầu tư dường như có thể không được thực hiện vì bản chất của đầu
tư chính là việc bỏ vốn để sinh lợi, việc đăng ký đầu tư có thể được thực
hiện hoặc không bởi Nhà đầu tư không muốn vướng phải những rào cản từ
phía cơ quan nhà nước khi cơ quan nhà nước quản lý hoạt động đầu tư.
Nhưng việc không đăng ký đầu tư sẽ dẫn tới hệ lụy đối với Nhà đầu tư,
theo đó nhà đầu tư sẽ bị cơ quan nhà nước ra quyết định xử phạt vì không
đăng ký trước khi hoạt động kinh doanh.
Dưới góc độ pháp lý, theo quy định tại LĐT 2014, khái niệm đầu tư
đã được thu hẹp dần, cụ thể: “Đầu tư kinh doanh là việc Nhà đầu tư bỏ vốn
đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức
kinh tế, đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế,
đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”[6]. Với việc
thu hẹp khái niệm đầu tư, LĐT 2014 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn các
nội hàm của khái niệm đầu tư. Cũng dưới góc độ pháp lý này, hoạt động
đăng ký đầu tư là việc nhà đầu tư với tiềm lực về vốn thực hiện hoạt động
đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp phép hoạt động.
Hoạt động đăng ký đầu tư có hai hình thức là đăng ký đầu tư trong nước và
đăng ký đầu tư nước ngoài. Đăng ký đầu tư nước ngoài là hoạt động được
thực hiện bởi chủ thể có quốc tịch nước ngoài nhằm thực hiện hoạt động
đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư theo quy định pháp luật quốc gia tiếp
nhận đầu tư và pháp luật quốc tế có liên quan.
9
Với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa thì việc các doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam là quy luật tất yếu, khách quan. Đăng ký đầu tư
là “cửa ngõ” đề các Nhà đầu tư có thể bước vào nhằm thực hiện hoạt động
kinh doanh sinh lợi của mình. Do vậy, việc đăng ký đầu tư có vai trò và ý
nghĩa rất quan trọng trong hoạt động đầu tư. Trước khi hoạt động kinh
doanh, Nhà đầu tư phải tiến hành đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền về lĩnh vực dự kiến hoạt động kinh doanh. Đây là thủ tục bắt buộc
mà các Nhà đầu tư nước ngoài nếu muốn hoạt động kinh doanh tại Việt
Nam phải làm trước hết. Việc này vừa tạo cho doanh nghiệp sự bảo hộ từ
phía cơ quan nhà nước vừa giúp nhà nước dễ dàng quản lý, xử lý các
trường hợp kinh doanh trái phép, vi phạm pháp luật.
Trong các văn bản quy định pháp luật Việt Nam mới chỉ quy định việc
đăng ký đầu tư như là một chế định về quyền hạn và nghĩa vụ của chủ thể
kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài mà chưa quy định cụ thể giải thích
thuật ngữ “đăng ký đầu tư nước ngoài”. Do vậy, có thể tiếp cận khái niệm
“đăng ký đầu tư nước ngoài” dưới các góc độ sau:
Về góc độ kinh tế: Đăng ký đầu tư nước ngoài là việc chuẩn bị đầy đủ
các điều kiện cần để hình thành nên một tổ chức kinh doanh. Do đó, Nhà
đầu tư phải chuẩn bị địa điểm thực hiện hoạt động kinh doanh, chuẩn bị
vốn, đầu tư trang thiết bị, nhà xưởng, đội ngũ cán bộ công nhân viên quản
lý và phải có phương án hoạt động kinh doanh cụ thể. Khái niệm đầu tư
nước ngoài là khái niệm thể hiện nguồn gốc địa lý của vốn và quốc tịch gắn
với nơi định cư của chủ sở hữu vốn đầu tư. Đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài được phân biệt nhằm nhận biết nguồn vốn đầu tư và khẳng định
vai trò của nó đối với nền kinh tế mỗi quốc gia.
Về góc độ quản lý Nhà nước: Đăng ký đầu tư được coi là biện pháp
quản lý nhà nước về kinh tế. Đăng ký đầu tư nước ngoài là hoạt động quản
10
lý nhà nước đầu tiên đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
khác với doanh nghiệp trong nước ở đặc điểm là doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài phải thực hiện hoạt động đăng ký đầu tư. Hoạt động này sẽ
tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện các hoạt động quản lý Nhà nước tiếp
theo của mình được dễ dàng hơn, tránh việc kinh doanh trái phép hoặc
dùng các công cụ tài chính làm ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia, tình
hình an ninh trật tự và an toàn xã hội, thậm chí có thể gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chủ quyền quốc gia [4, tr53-56].
Mặc dù có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về hoạt động đăng ký
đầu tư nhưng nhìn chung có thể tiếp cận khái niệm này theo cách chung
nhất xuất phát từ khái niệm nhà đầu tư nước ngoài theo quy định tại khoản
14 điều 3 LĐT 2014: “Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch
nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”. Như vậy, đăng ký đầu tư nước
ngoài tiếp cận từ khái niệm này được hiểu là việc nhà đầu tư nước ngoài là
cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước
ngoài thực hiện thủ tục đăng ký đầu tư để được cấp phép hoạt động đầu tư
kinh doanh tại Việt Nam.Từ cách tiếp cận khái niệm chung về đăng ký đầu
tư nước ngoài có thể thấy, hoạt động đăng ký đầu tư nước ngoài là hoạt
động được thực hiện xuất phát từ chủ thể là tổ chức, cá nhân có quốc tịch
nước ngoài thực hiện hoạt động nhằm sinh lợi tại quốc gia tiếp nhận đầu tư,
hoạt động đăng ký đầu tư nước ngoài có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến
chủ thể đăng ký đầu tư và chủ thể nhà nước tiếp nhận đầu tư và ảnh hưởng
rất lớn đến nền kinh tế của cả quốc gia có chủ thể đăng ký đầu tư và chủ thể
của quốc gia tiếp nhận đầu tư nên có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.1.2. Đặc điểm của đăng ký đầu tư nước ngoài
11
Từ cách tiếp cận về khái niệm về đăng ký đầu tư nước ngoài trên có
thể rút ra được đăng ký đầu tư nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, về chủ thể, đăng ký đầu tư nước ngoài được thực hiện bởi
chủ thể có quốc tịch nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư tại quốc gia
tiếp nhận đầu tư bằng cách đóng góp một khối lượng vốn tối thiểu theo quy
định của từng quốc gia. Luật đầu tư của Việt Nam quy định chủ đầu tư
nước ngoài phải đóng góp tối thiểu so với vốn pháp định của dự án đối với
từng loại dự án trong lĩnh vực khác nhau theo quy định. Mặt khác, chủ thể
đăng ký đầu tư có thể đến từ nhiều quốc gia khác nhau cùng lúc đầu tư
đăng ký góp vốn vào cùng một dự án. Tuy nhiên phải đáp ứng về điều kiện
chủ thể theo quy định của quốc gia tiếp nhận đầu tư và quy định pháp luật
liên quan [22].
Song song với chủ thể bị quản lý trong hoạt động đầu tư là chủ thể
thực hiện hoạt động quản lý trong lĩnh vực đăng ký đầu tư. Chủ thể này
chính là nhà nước - quốc gia tiếp nhận đầu tư. Tùy đối tượng, loại hình hoạt
động mà hoạt động đăng ký đầu tư được nhà nước phân ra phạm vi thuộc
sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền tương ứng trong bộ máy quản lý
Nhà nước. Điều này giúp cho bộ máy quản lý nhà nước được hoạt động
xuyên suốt và có sự phối hợp giữa các cơ quan, bộ phận liên quan theo
thẩm quyền cấp phép với từng trường hợp cụ thể.
Thứ hai, đăng ký đầu tư nước ngoài là giai đoạn “cửa ngõ” để hình
thành nên chủ thể đặc biệt, không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc
gia tiếp nhận đầu tư mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế,
những hiệp định song phương, đa phương mà quốc gia đó là thành viên
trước khi được cấp phép hoạt động. Đây được coi là “luật chơi” dù bất cử
chủ thể nào muốn tham dự vào đều phải tuân thủ nếu muốn tiếp tục kinh
doanh. Việc phân loại các loại hình doanh nghiệp đăng ký đầu tư giúp cho
12
việc phân biệt các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư và áp dụng quy định
tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp. Nhờ vậy, chủ thể kinh doanh
dễ dàng lựa chọn được loại hình doanh nghiệp đăng ký đầu tư phù hợp mục
tiêu và quy mô doanh nghiệp.
Thứ ba, đăng ký đầu tư không chỉ gắn liền với việc di chuyển vốn mà
còn gắn liền với việc chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm, kiến thức
quản lý và góp phần vào việc tạo ra thị trường mới cho cả phía Nhà đầu tư
và nước tiếp nhận đầu tư. Do vậy, việc di chuyển nguồn lực sẵn có được
thực hiện từ quốc gia có chủ thể đăng ký đầu tư sang quốc gia tiếp nhận
đầu tư. Điều này có ý nghĩa không chỉ đối với chủ thể quốc gia đầu tư trong
việc tìm kiếm lợi nhuận mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với quốc gia tiếp
nhận đầu tư khi tận dụng, học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm, ứng dụng
được khoa học kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý, quản trị doanh
nghiệp tiến bộ, văn minh của các quốc gia phát triển trên thế giới.
Thứ tư, đăng ký đầu tư thường được thực hiện bởi các công ty đa quốc
gia nên thường gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế, do vậy có sự
đan xen giữa văn hóa, chính trị, kinh tế giữa các quốc gia nên việc đăng ký
đầu tư tại mỗi chủ thể từ các quốc gia khác nhau cũng có những đặc điểm
khác nhau. Việc hoạt động đầu tư không chỉ là xoay quanh các vấn đề kinh
tế mà nó còn kéo theo cả bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia được thể hiện
trong mỗi cá nhân, chủ thể kinh doanh khi lựa chọn hoạt động đầu tư của
mình, chẳng hạn như Hàn Quốc thường xuyên đưa nét văn hóa ẩm thực
riêng của mình sang đầu tư tại Việt Nam thông qua việc kinh doanh nhà
hàng phục vụ ăn uống, đặc biệt là các món ăn Hàn Quốc mang nét đặc
trưng của văn hóa Hàn Quốc.
Thứ năm, đăng ký đầu tư là một khâu khởi đầu nhằm phục vụ quá
trình vận hành doanh nghiệp nên không phát sinh lợi nhuận. Bản thân việc
13
đăng ký đầu tư mới chỉ là khâu bước đệm để hoạt động đầu tư được tiến
hành, nó chính là giấy phép thông hành để chủ thể kinh doanh có thể mang
những tiềm lực sẵn có của mình để tiến hành kinh doanh mang lại lợi ích
cho chính mình. Tại đây chưa có sự trao đổi về vật chất nên chưa phát sinh
lợi nhuận, hơn nữa giai đoạn này được coi là giai đoạn cũng gây mất nhiều
thời gian, gây tốn kém nhiều cho chủ thể đầu tư để chuẩn bị cho hoạt động
kinh doanh của mình.
Thứ sáu, đăng ký đầu tư nước ngoài có những đặc điểm cơ bản khác
biệt so với đăng ký đầu tư trong nước ở đặc điểm quốc tịch của chủ thể
đăng ký đầu tư, chủ thể đăng ký đầu tư nước ngoài là những cá nhân có
quốc tịch nước ngoài, các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp theo quy
định pháp luật nước ngoài. Còn đối với chủ thể đăng ký đầu tư trong nước
là những cá nhân có quốc tịch trong nước, các tổ chức kinh tế được đăng ký
thành lập hợp pháp theo quy định pháp luật trong nước. Đặc điểm khác biệt
cơ bản giữa đăng ký đầu tư nước ngoài so với đăng ký đầu tư trong nước
nữa là đăng ký đầu tư trong nước có thể hoặc không cần phải xin cấp Giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư tùy quy mô dự án đầu tư.
Như vậy, đăng ký đầu tư là một khâu của quá trình đầu tư với những
đặc điểm đặc trưng gắn với hoạt động đầu tư. Song với những nhà đầu tư
lần đầu đăng ký đầu tư thì vấn đề thủ tục pháp lý vẫn khiến họ gặp không ít
khó khăn, nhất là trong việc lựa chọn hình thức đầu tư.
1.1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động đăng ký đầu tư
1.1.2.1. Nhân tố khách quan:
a. Kinh tế
Các nhân tố kinh tế có vai trò quyết định trong việc hoàn thiện môi
trường kinh doanh và ảnh hưởng tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh
14
- Xem thêm -