Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 1997 đến nă...

Tài liệu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 1997 đến năm 2005

.PDF
120
1019
116

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN THỊ THANH NGA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005 Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 56 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. ĐINH XUÂN LÝ HÀ NỘI - 2011 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN (1997-2005) .......................................................... 8 1.1. Chủ trương, chính sách xã hội của Đảng và tình hình thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn Thái Nguyên trước năm 1997 .................. 8 1.1.1. Chủ trương, chính sách xã hội của Đảng thời kỳ đổi mới............................ 8 1.1.2. Tình hình thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn Thái Nguyên trước năm 1997 ................................................................................. 19 1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hoá tỉnh Thái Nguyên .............. 23 1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hoá ..................................... 23 1.2.2. Yêu cầu đặt ra đối với giải quyết các vấn đề xã hội ở tỉnh Thái Nguyên...................................................................................... 28 Chƣơng 2. CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN (1997-2005) ....................... 33 2.1. Chủ trương, chính sách xã hội của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (19972005) ........................................................................................... 33 2.1.1. Chủ trương chính sách xoá đói giảm nghèo ..................................... 33 2.1.2. Chủ trương, chính sách về lao động và việc làm ................................ 40 2.1.3. Chủ trương, chính sách đối với người có công với cách mạng .................................................................................................. 45 2.1.4. Chủ trương, chính sách bảo trợ xã hội, bảo hiểm xã hội .................. 48 2.2. Quá trình thực hiện chính sách xã hội ở tỉnh Thái Nguyên (1997-2005) 52 2.2.1. Thực hiện xóa đói giảm nghèo.......................................................... 52 2.2.2. Thực hiện chính sách lao động và việc làm ...................................... 59 2.2.3. Thực hiện chính sách người có công với cách mạng ........................ 62 2.2.4. Thực hiện chính sách bảo trợ xã hội, bảo hiểm xã hội ..................... 65 2 Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN. 72 3.1. Kết quả thực hiện chính sách xã hội (1997-2005) .................................. 72 3.1.1. Về xoá đói giảm nghèo ..................................................................... 72 3.1.2. Về lao động và việc làm.................................................................... 74 3.1.3. Về Thực hiện chính sách người có công với cách mạng .................. 77 3.1.4. Về thực hiện chính sách bảo trợ xã hội, bảo hiểm xã hội ................. 79 3.2. Một số kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên .................................................... 83 3.2.1. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương .............................................................................................. 83 3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phát huy các nguồn lực tổng hợp trong thực hiện chính sách xã hội ...................................... 87 3.2.3. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu công tác xã hội; cần khai thác những yếu tố tích cực trong phong tục, tập quán và tín ngưỡng của các tộc người ở địa phương để giải quyết tốt các vấn đề xã hội ................................ 91 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 101 PHỤ LỤC ........................................................................................................................... 108 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chính sách xã hội là bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính đảng, nhà nước, nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến đời sống con người, nhu cầu lợi ích của các nhóm, các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc trong xã hội, đồng thời góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với mục tiêu của các quốc gia dân tộc. Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, phạm vi chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: từ điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp đến quan hệ dân tộc… Trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ, chính sách xã hội đặt con người với tất cả những nhu cầu và lợi ích phong phú và đa dạng vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Thực tế cho thấy, chính sách xã hội có vị trí rất quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách xã hội góp phần tạo ra động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đồng thời đó cũng là động lực phát triển các mặt đời sống xã hội trên con đường đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Qua 25 năm thực hiện chính sách xã hội của Đảng, đã đạt nhiều thành tựu trên các lĩnh vực: Xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, biện pháp, giảm tỷ lệ hộ đói, nghèo nhanh và được thế giới đánh giá cao; lao động, việc làm được cải thiện, giảm tỷ lệ thất nghiệp cả ở thành thị và 4 nông thôn; công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt nhiều kết quả, tuổi thọ trung bình của dân cư tăng cao; chính sách bảo trợ, bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi đối với người có công... được đẩy mạnh, thu hút nhiều tầng lớp dân cư tham gia, trở thành phong trào mang tính xã hội hoá. Tỉnh Thái Nguyên được tái lập từ ngày 1-1-1997, trên cơ sở tách tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Cạn (theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX). Trong gần 10 năm sau khi tái lập, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở vận dụng quan điểm, chủ trương của Đảng vào thực tiễn địa phương đã lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực: xoá đói giảm nghèo; lao động và việc làm; chính sách đối với người có công với cách mạng; chính sách bảo hiểm, bảo trợ xã hội; chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội… Tuy nhiên, bên cạnh các thành tựu, còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần phải khắc phục. Do vậy, việc nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về thực hiện chính sách xã hội, từ đó rút ra những kinh nghiệm trong việc lãnh đạo lĩnh vực quan trọng này, là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc, có giá trị tham khảo cho Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Đảng bộ Tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ 1997 đến năm 2005” làm đề tài luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chính sách xã hội là một vấn đề lớn, đối tượng nghiên cứu rất rộng, trong thời gian qua đã thu hút nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Cho tới nay các công trình nghiên cứu về chính sách xã hội đã công bố, bao gồm hai nhóm chính: Thứ nhất, nhóm các nghiên cứu về chính sách xã hội nói chung và quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách xã hội nói riêng, tiêu biểu là các công trình: 5 - “Chính sách xã hội, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do PGS, TS. Bùi Đình Thanh (chủ biên), Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, H. 1993. - "Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay", của Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1993. - "Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay", của Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, Nxb Khoa học Xã hội, H. 1993. - “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội”, do PGS, TS. Lê Sỹ Thắng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996. - “Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp”, của GS. Phạm Xuân Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1997. - "Chính sách xã hội trong đổi mới đất nước", Nguyễn Thị Hằng, Tạp chí Cộng sản, số 11-2000. - "Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt Nam thập niên 90", của Bùi Thế Cường, Nxb Khoa học Xã hội, H. 2002. - "Vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với an sinh xã hội của đất nước", Lê Bạch Hồng, tạp chí Cộng sản, số 808, 2-2010. Các ấn phẩm trên đã thể hiện những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách xã hội; về vị trí, vai trò của chính sách xã hội và mối quan hệ giữa chính sách xã hội với phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh; về luận cứ và giải pháp nhằm đổi mới chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới... Thứ hai, nhóm các nghiên cứu về chủ trương, chính sách xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam và quá trình triển khai thực hiện, với các công trình tiêu biểu như: - “Một số vấn đề chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay”, Viện Khoa học Lao động và các vấn đề xã hội thuộc Bộ Lao động - Thương binh Xã hội, H. 1993. 6 - “Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý việc thực hiện”, PGS, TS. Trần Đình Hoan (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996. - "Chính sách an sinh xã hội đối với nông dân trong thời kỳ đổi mới", Nguyễn Hữu Dũng, tạp chí Lao động và Xã hội, số 345, tháng 10-2008. - "Tình hình thực hiện chính sách xã hội 10 năm (2001-2010)", tạp chí Lý luận chính trị, 5-2010. - Luận án tiến sĩ của Trần Ngọc Diễn: “Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn tạo việc làm cho người lao động ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay từ năm 1986 đến năm 1996”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H.1999. - Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 1991 đến năm 2001”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H.2004. - Luận án thạc sĩ của Trần Đồng: “Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết các vấn đề bức bách xã hội hiện nay từ năm 1986 đến năm 1995”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H.1995. - “Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam”, của TS. Lê Xuân Bá, TS. Chu Tiến Quang, TS. Nguyễn Hữu Tiến, TS. Lê Xuân Đình, Nxb Nông nghiệp, H. 2001. - “Những căn cứ để bổ sung, sửa đổi thẩm quyền và hoàn thiện thủ tục hành chính để thực hiện chính sách đối với từng loại đối tượng người có công, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Cục Thương binh - Liệt sĩ và Người có công, Bộ Lao động - Thương binh xã hội, H. 2001. Các công trình nêu trên đã phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn của chính sách xã hội ở nước ta và góp phần làm rõ một số chủ trương, chính sách của Đảng về thực hiện chính sách xã hội trên các lĩnh vực; các công trình nghiên cứu cũng trình bày những thành tựu đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém của công tác này, từ đó đề xuất những kinh nghiệm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới. 7 Thực tế cho thấy, cho đến nay chưa có công trình nào được công bố nghiên cứu trực tiếp về đề tài “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ 1997 đến năm 2005”. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích nghiên cứu Góp phần làm sáng tỏ vai trò của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội giai đoạn (1997-2005); rút ra một số kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo cho việc lãnh đạo lĩnh vực công tác xã hội ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ những cơ sở để Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên hoạch định chủ trương, chính sách, đề ra giải pháp và chỉ đạo thực hiện chính sách xã hội. Trong đó đặc biệt đi sâu phân tích chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội của Đảng ta qua các kỳ Đại hội lần thứ VI đến Đại hội lần thứ IX- là cơ sở căn bản để Đảng bộ Thái Nguyên vận dụng sáng tạo vào địa phương. - Phân tích làm sáng tỏ chủ trương, chính sách của Đảng bộ và trình bày quá trình thực hiện chính sách xã hội của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ năm 1997 đến năm 2005. - Làm rõ các kết quả, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên thực hiện chính sách xã hội kể từ khi tái lập Tỉnh đến năm 2005. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu cơ bản của luận văn là hệ thống chủ trương, chính sách và giải pháp thực hiện của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội. 8 * Phạm vi nghiên cứu. Về thời gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ năm 1997 đến năm 2005. Về không gian: Chủ yếu tập trung nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Về nội dung: Nghiên cứu sự lãnh đạo (bao gồm chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện) của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đối với việc thực hiện các chính sách xã hội như: xoá đói giảm nghèo; lao động và việc làm; người có công với cách mạng; bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội. 5. Nguồn tài liệu, phƣơng pháp nghiên cứu * Nguồn tài liệu phục vụ thực hiện luận văn gồm: - Các Văn kiện của Đảng và các ấn phẩm của Hồ Chí Minh liên quan đến chính sách xã hội; - Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thái Nguyên về chính sách xã hội . - Các công trình đã công bố, các luận án và luận văn có liên quan đến đề tài. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logíc; ngoài ra có kết hợp các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,… các phương pháp cụ thể được vận dụng phù hợp với yêu cầu của từng nội dung luận văn. 6. Đóng góp của luận văn - Cung cấp thêm tư liệu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên thực hiện chính sách xã hội cho việc biên soạn Lịch sử Đảng bộ địa phương. - Có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan đến chính sách xã hội ở địa phương. 9 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết: Chƣơng 1: Cơ sở hình thành chủ trương, chính sách xã hội của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1997 - 2005). Chƣơng 2: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về thực hiện chính sách xã hội (1997 - 2005). Chƣơng 3: Kết quả và kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên thực hiện chính sách xã hội. 10 Chƣơng 1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN (1997-2005) 1.1. Chủ trƣơng, chính sách xã hội của Đảng và tình hình thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn Thái Nguyên trƣớc năm 1997 1.1.1. Chủ trương, chính sách xã hội của Đảng thời kỳ đổi mới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) của Đảng, trên cơ sở khẳng định quan điểm lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất trong mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, lần đầu tiên văn kiện Đại hội VI đưa ra khái niệm "Chính sách xã hội", thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng: giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển đất nước. Với tinh thần đổi mới, Đảng xác định chính sách xã hội là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, một bộ phận cấu thành chiến lược kinh tế - xã hội, là động lực to lớn phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VI khẳng định "Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội” [27, tr.86]. Về mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, Văn kiện Đại hội chỉ rõ: “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế” [27, tr.86]. Từ nhận thức về chính sách xã hội như vậy, Đại hội VI xác định: Cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Trên cơ sở những quan điểm cơ bản trên, Đại hội VI đề ra chủ trương về giải quyết các vấn đề xã hội như: 11 - Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số, coi đây là một điều kiện quan trọng để tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người, để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội; - Đảm bảo việc làm cho người lao động là nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng đầu; có chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm bằng cách khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế khác, kể cả thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Ban hành và thực hiện Luật lao động; - Đảm bảo cho người lao động có thu nhập thoả đáng phụ thuộc trực tiếp vào kết quả lao động, có tác dụng khuyến khích nhiệt tình lao động; - Chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân. Trước mắt là tập trung sức nâng cao chất lượng các hoạt động y tế và đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc chăm sóc sức khoẻ của nhân dân; - Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội xã hội chủ nghĩa đối với toàn dân, theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm"; - Điều chỉnh, bổ sung các chính sách, nhất là các vấn đề quan hệ tới lợi ích thiết thân của mỗi giai cấp và tầng lớp xã hội [27, tr.87-97]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991), tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của chính sách xã hội và nhấn mạnh mục tiêu của chính sách xã hội trong mối quan hệ với chính sách kinh tế: "Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người" [28, tr.73]. Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội; thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. 12 Về phương hướng giải quyết đời sống nhân dân trong nhiệm kỳ khoá VII, Đảng xác định: Đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thiết yếu và ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và nạn đói giáp hạt ở một số vùng; khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng; Tăng cường xây dựng luật bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động; khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo... Đại hội Đảng lần thứ VIII (tháng 6-1996) tiếp tục rút ra một số nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội như: không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới giải quyết các vấn đề xã hội, mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Công bằng xã hội không chỉ được thực hiện trong phân phối kết quả sản xuất, mà còn được thực hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, ở việc tạo ra những điều kiện cho mọi người phát huy tốt năng lực của mình. Khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi đôi với chăm lo xoá đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư, đặc biệt quan tâm đến các vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng được học hành và chữa bệnh. Xuất phát từ nhận thức chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, Đảng chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hoá, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Nhà nước căn cứ vào thực lực phát triển kinh tế mà tăng dần nguồn đầu tư cho 13 khoa học, giáo dục, văn hoá, chăm sóc sức khoẻ và các vấn đề xã hội; đồng thời khai thác mọi tiềm năng của nhân dân, của địa phương, của các hội, đoàn, tranh thủ các nguồn viện trợ từ nước ngoài và sử dụng có hiệu quả để chăm lo cho con người và xã hội. Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Nhà nước và nhân dân cùng làm, mọi việc đều phải dựa vào dân [30, tr.31]. Nhìn tổng quát, Đại hội VIII đã đề ra các quan điểm định hướng xây dựng và thực hiện chính sách xã hội như: - Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. - Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động. - Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư. - Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc"uống nước nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa, nhân hậu, thuỷ chung". - Các vấn đề xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội. Các quan điểm cơ bản nêu trên đã định hình tổng thể tư duy lý luận của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa thích ứng với yêu cầu tạo động lực cho sự phát triển bền vững, vừa hướng tới giá trị công bằng và tiến bộ xã hội. 14 Đại hội VIII, đề ra nhóm các chương trình về phát triển văn hoá - xã hội tập trung vào những mục tiêu và phương hướng như: Giải quyết việc làm: Nhà nước đầu tư tạo thêm chỗ làm việc và tạo điều kiện cho mọi người tự mình và giúp đỡ người khác tạo việc làm, giảm tỉ lệ người chưa có việc ở thành thị xuống còn 5% và nâng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75% vào năm 2000. Xoá đói, giảm tỉ lệ nghèo từ 20-25% xuống khoảng 10% tổng số hộ cả nước vào năm 2000. Mở rộng các hoạt động đền ơn đáp nghĩa những người có công với nước, đảm bảo cho người có công và gia đình có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của xã, phường nơi cư trú. Thực hiện phương châm đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình và các mặt xã hội khác, hướng vào nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực của nhân dân. Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo bước chuyển mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội. Phấn đấu thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng; đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hội ở những vùng còn nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa, nhất là về y tế, giáo dục... Xuất phát từ tình hình thực tế, Đại hội VIII đề ra yêu cầu trong những năm trước mắt, phải giải quyết tốt một số vấn đề sau: Tập trung sức tạo việc làm: Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước; mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất 15 khẩu lao động. Giảm đáng kể tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn. Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, xây dựng và phát triển quỹ xoá đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân. Tổ chức tốt việc thi hành Pháp lệnh về người có công, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em những người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh. Mở rộng phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ. Thực hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo đảm đời sống người nghỉ hưu được ổn định, từng bước cải thiện, xây dựng Luật bảo hiểm xã hội. Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện, thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật; xây dựng quỹ tình thương trích từ ngân sách một phần và động viên toàn xã hội tham gia đóng góp; tiến tới xây dựng Luật về bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi. Giúp đỡ những người bị thiên tai và những rủi ro khác. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất của nhân dân, phấn đấu đến năm 2000 giảm hẳn tỉ lệ mắc bệnh truyền nhiễm gây dịch, các bệnh do ký sinh trùng và suy dinh dưỡng; cải thiện các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe của người dân, nhất là sức khỏe bà mẹ, trẻ em, nâng cao tuổi thọ bình quân và giảm tỉ lệ tử vong.; tiếp tục củng cố hệ thống y tế nhà nước, đặc biệt là y tế xã, huyện. Mở rộng, đa dạng hoá, nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ; thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho các gia đình chính sách, cho người nghèo. 16 Đẩy lùi tệ nạn xã hội: Thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính và pháp luật để phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội, nhất là tệ trộm cướp, cờ bạc, ma tuý, mua bán dâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII về lĩnh vực xã hội. Đảng chỉ ra những thành tựu quan trọng đã đạt được và đồng thời cũng chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân của chúng. Trong đó nhấn mạnh một số vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết, đó là: Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành; cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Từ những thành công, hạn chế và phân tích rõ những nguyên nhân của thành công và hạn chế , Đại hội IX đã rút ra một số bài học chủ yếu, trong đó có bài học thiết thực định hướng cho việc tiếp tục đổi mới những vấn đề về xã hội, đó là: Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia. Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng đề ra tại Đại hội IX, nhấn mạnh quan điểm định hướng của việc giải quyết các vấn đề xã hội là: Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp; Trong đó, Đảng xác định, giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản. Bằng nhiều giải pháp, tạo ra nhiều việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. Các thành 17 phần kinh tế mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động... Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm đối với người lao động thất nghiệp; điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội; khắc phục tình trạng bất hợp lý về trợ cấp của người nghỉ hưu, thương binh, bệnh binh và những người có hoàn cảnh khó khăn. Thông qua những biện pháp cụ thể để thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo sát với tình hình từng địa phương, sớm đạt mục tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo. Tiếp tục tăng tổng nguồn vốn xoá đói, giảm nghèo, mở rộng các hình thức tín dụng trợ giúp người nghèo sản xuất, kinh doanh. Có chính sách trợ giá nông sản, phát triển việc làm và nghề phụ nhằm tăng thu nhập của các hộ nông dân. Thực hiện các chính sách xã hội bảo đảm an toàn cuộc sống mọi thành viên cộng đồng, bao gồm bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội những người gặp rủi ro, bất hạnh. Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, thương binh và cha mẹ, vợ con liệt sĩ, người được hưởng chính sách xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản - kế hoạch hoá gia đình; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực. Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi; thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ; đổi mới cơ chế và chính sách viện phí; có chính 18 sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân... Tăng cường lãnh đạo và quản lý phong trào toàn dân đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là nạn mại dâm, ma tuý; ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS. Xây dựng lối sống văn minh, lành mạnh. Các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội. Báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 tại Đại hội IX, đề ra định hướng cụ thể cho một số lĩnh vực xã hội trọng tâm như: Về việc làm: Để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất, kinh doanh, tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động. Chú trọng bảo đảm an toàn lao động. Xây dựng và thực hiện đồng bộ, chặt chẽ cơ chế, chính sách về đào tạo nguồn lao động, đưa lao động ra nước ngoài, bảo vệ quyền lợi và tăng uy tín của người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Về xoá đói, giảm nghèo: Tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm… đối với những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo. Chủ động di dời một bộ phận nhân dân không có đất canh tác và điều kiện sản xuất đến lập nghiệp ở những vùng còn tiềm năng. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt không thể tự lao động, không có người bảo trợ, nuôi dưỡng. Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả xoá đói, giảm nghèo. 19 Về bảo hiểm xã hội, ưu đãi xã hội: Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân. Kết hợp sự trợ giúp của Nhà nước với việc phát triển các quỹ từ thiện, quỹ xã hội, quỹ đền ơn đáp nghĩa, nhằm giúp đỡ có hiệu quả người được hưởng chính sách xã hội, nạn nhân chiến tranh, thiên tai, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, những người tàn tật và người già không nơi nương tựa. Bảo đảm người có công với nước có mức sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng xã, phường. Về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân: Nâng cao tính công bằng và hiệu quả trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Tiếp tục thực hiện các chương trình mục tiêu về y tế quốc gia. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ ở tất cả các tuyến. Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi, tỷ lệ tử vong của bà mẹ có liên quan đến thai sản. Như vậy, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã cụ thể hoá và bổ sung các quan điểm của Đại hội VIII về chính sách xã hội, với những nội dung như: Giải quyết chính sách xã hội phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là phát triển thị trường lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế; trong giải quyết các chính sách xã hội, Nhà nước vừa là người điều tiết, vừa là nhà đầu tư; coi trọng công bằng trong hưởng thụ các dịch vụ xã hội, đặc biệt là công bằng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo cơ hội cho những đối tượng, những vùng còn khó khăn có cơ hội được chăm sóc tốt hơn; xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề xã hội, động viên toàn xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã hội; thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan