Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực ...

Tài liệu Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)

.PDF
117
1079
69

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------- VŨ THỊ NGỌC ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH DU KÍCH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 – 1954) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------- VŨ THỊ NGỌC ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH DU KÍCH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 – 1954) Chuyên ngành:Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 03 15 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN BÌNH Hà Nội – 2015 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................ 5 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ......................................................... 7 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .................................................................. 10 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................... 10 5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................. 11 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ............................................................. 12 7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN ................................................................... 12 Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪ NĂM 1946 – 1950............................................................... 13 1.1. Khái quát về tỉnh Hưng Yên và chủ trương của Đảng bộ .............. 13 1.1.1. Khái quát về tỉnh Hưng Yên ........................................................... 13 1.1.2. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ ................................................. 19 1.1.3. Chỉ đạo xây dựng lực lượng dân quân du kích từ tháng 09/1945 đến tháng 11/1946 .................................................................................... 25 1.2. Lãnh đạo xây dựng lực lượng, tiến hành chiến tranh du kích chống địch càn quét, giữ gìn lực lượng (12/1946 đến 12/1950) ............. 28 1.2.1. Lãnh đạo xây dựng lực lượng ........................................................ 28 1.2.2. Lãnh đạo tiến hành chiến tranh du kích chống địch càn quét, giữ gìn lực lượng (tháng 12/1946 – 12/1950) ................................................. 32 Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪ NĂM 1951 – 1954............................................................... 48 2.1. Chủ trương mới của Đảng và Đảng bộ............................................ 48 2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử mới ................................................................... 48 2.1.2. Chủ trương mới của Đảng và Đảng bộ .......................................... 51 3 2.2. Lãnh đạo xây dựng lực lượng, đẩy mạnh chiến tranh du kích từ năm 1951 – 1954 ...................................................................................... 56 2.2.1. Xây dựng, củng cố lực lượng, phát triển các khu du kích và căn cứ du kích (1951-1953) ................................................................................. 56 2.2.2. Đẩy mạnh chiến tranh du kích góp phần đưa cuộc kháng chiếnđến thắng lợi hoàn toàn (1953 – 1954) ........................................................... 66 Chương 3: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHỦ YẾU ....... 76 3.1. Nhận xét ............................................................................................ 76 3.1.1. Những ưu điểm và hạn chế ............................................................ 76 3.1.2. Đặc điểm cuộc chiến tranh du kích trên địa bàn Hưng Yên .......... 79 3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ............................................................ 84 3.2.1. Vận dụng và phát triển sáng tạo đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. ................................................ 84 3.2.2. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự các hình thức đấu tranh khác, trong đó lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu. ................................... 87 3.2.3. Kiên trì bám dân, bám đất để xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, vũ trang và lãnh đạo kháng chiến ...................................................... 89 3.2.4. Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân, du kích trong quá trình xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân .......................... 91 3.2.5. Tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị trong xây dựng lực lượng vũ trang và lãnh đạo chiến tranh du kích ..................................... 92 KẾT LUẬN ................................................................................................. 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 99 PHỤ LỤC.................................................................................................. 107 4 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thiên anh hùng ca bất hủ trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Âm hưởng của nó đã vượt qua không gian và trường tồn với thời gian. Thắng lợi này còn là minh chứng hùng hồn cho truyền thống yêu nước quật khởi, trí thông minh, sáng tạo của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chống lại một trong những kẻ thù hùng mạnh vào bậc nhất thế giới lúc bấy giờ là thực dân Pháp, lại được sự giúp sức của đế quốc Mỹ, chiến tranh du kích là một hình thức chiến tranh tối ưu giúp Việt Nam - một dân tộc nhỏ bé đối phó có hiệu quả với những thế lực xâm lược hùng mạnh đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định trong tác phẩm “Cách đánh du kích” năm 1944: “Du kích là cách đánh úp hay đánh lén lúc kẻ thù không ngờ, không phòng. Du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc. Đế quốc có khí giới tốt, có quân đội đàng hoàng; quân du kích không có khí giới tốt, chưa hình thành quân đội đàng hoàng; nhưng quân du kích được dân chúng ủng hộ, thuộc địa hình, địa thế, khéo léo lợi dụng đêm tối, mưa nắng, khéo xếp đặt kế hoạch, nên quân du kích vẫn có thể đánh được đế quốc…” [67, tr.469]. Chiến tranh du kích góp phần tiêu hao và tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phân tán lực lượng, phá thế kìm kẹp của địch, đánh đổ chính quyền địch ở cơ sở, các kế hoạch và chiến lược chiến tranh của chúng, bảo vệ và rèn luyện quần chúng cách mạng, có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho chiến tranh chính quy và đấu tranh chính trị phát triển. Chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp kế thừa từ truyền thống đánh giặc cứu nước nghìn xưa của cha ông ta, phát triển kinh 5 nghiệm hoạt động du kích trong những năm tiền khởi nghĩa của Cách mạng tháng Tám. Nó được sự chỉ đạo của đường lối chiến tranh nhân dân, mang tính chất toàn dân, toàn diện của Đảng và tuân theo quy luật phát triển của chiến tranh toàn dân. Đảng ta đã tích cực học tập và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm tiến hành chiến tranh du kích của Liên Xô, Trung Quốc và ngay cả của nhân dân Pháp chống lại phát xít Đức vào thực tế cuộc chiến tranh du kích của Việt Nam. Chiến thuật chiến tranh du kích được Đảng ta sử dụng hiệu quả trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng. Trên nền tảng chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích ởHưng Yên phát triển từ không đến có, từ nhỏ hẹp đến rộng lớn, phát triển cả ở nông thôn và đô thị. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ở Hưng Yên đã xuất hiện những hình thức đấu tranh sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và các hình thức đấu tranh khác; đồng thời cũng sớm xuất hiện thế trận lòng dân, bám đất kiên cường, vững chắc và cách đánh sâu, đánh hiểm của các đội cảm tử quân, thanh niên xung phong... xuất quỷ nhập thần, khiến cho quân thù phải khiếp vía kinh hoàng... Đó chính là những bài học kinh nghiệm ban đầu hết sức quý báu đã được kế thừa, vận dụng và phát triển lên trình độ cao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đối với chiến tranh du kích ở Hưng Yên. Xuất phát từ lý do đó, tôi quyết định chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954)” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 6 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Lịch sử quân sự dân tộc ta để lại một kho tàng kinh nghiệm vô giá, những bài học sâu sắc cho muôn đời.Càng tự hào và trân trọng di sản quá khứ, chúng ta càng phải khai thác, khơi dậy nguồn sức mạnh của bao thế hệ người Việt Nam của cả dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong công cuộc đổi mới, đất nước bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần vận dụng sáng tạo những bài học lịch sử, phát huy tinh thần anh hùng dân tộc, tinh thần yêu nước nồng nàn cũng như truyền thống lãnh đạo, chiến đấu dũng cảm và sáng tạo của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi người Việt Nam chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” [70, tr. 59]. Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp, nghệ thuật quân sự của ta đã phát triển từng bước từ thấp đến cao, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh và trở thành một nền nghệ thuật quân sự tiên tiến của chiến tranh nhân dân.Đó là nghệ thuật quân sự của chiến tranh yêu nước, lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu thắng mạnh, trong đó tiến hành chiến tranh du kích là một nội dung quan trọng của chiến tranh cách mạng. Chính vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh du kích của các học giả trong nước. Có thể tổng hợp các công trình nghiên cứu và tác phẩm có liên quan đến vấn đề này như sau: Thứ nhất: là những công trình tổng kết mang tính lý luận về cuộc chiến tranh nhân dân nói chung và chiến tranh du kích nói riêng. Tiêu biểu như: công trình “Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học” do Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị biên soạn (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 1996), “Vị trí chiến lược của 7 chiến tranh nhân dân ở địa phương và của các lực lượng vũ trang địa phương” của Võ Nguyên Giáp (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, xuất bản năm 1972) và “Chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp (19451954) của Vũ Văn Ba chủ biên (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, xuất bản năm 1991). Những tác phẩm này chủ yếu đi vào tổng kết những vấn đề mang tính chất lý luận về cuộc chiến tranh nhân dân nói chung và chiến tranh du kích nói riêng mà chưa đi sâu nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với chiến tranh du kích. Thứ hai: là những công trình nghiên cứu về vấn đề có liên quan tới chiến tranh du kích như: tác phẩm “Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ (1946 – 1954)” của tác giả Vũ Quang Hiển (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001). Tác phẩm này đề cập tới quá trình lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ trong kháng chiến chống Pháp, nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ, qua đó đưa ra nhận xét về thành công và hạn chế trong quá trình xây dựng các căn cứ du kích, đặc điểm hình thành và phát triển của các căn cứ du kích và vị trí chiến lược của các căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và rút ra một số bài học, kinh nghiệm. Tác phẩm “Đặc trưng của chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng Liên khu 3 trong kháng chiến chống Pháp” của Bộ Tổng Tham mưu do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 1998. Đây là công trình nghiên cứu có tính chất chuyên khảo về đặc trưng của chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ dưới góc độ lịch sử, là tài liệu quý giúp tác giả luận văn có cách nhìn tổng quát, so sánh, đối chiếu được khi thực hiện đề tài Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp. Thứ ba: là những cuốn sách lịch sử và lịch sử Đảng bộ các địa phương ở Hưng Yên như: 8 Tác phẩm “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (1929 – 1954)” Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.Công trình “Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Hưng Yên” (bản thảo lần thứ hai) do Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên phối hợp với Đảng ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh soạn thảo tháng 06/2013. Đây là những tài liệu quan trọng cung cấp cho tác giả luận văn những thông tin hữu ích về quá trình chuẩn bị lực lượng, những chủ trương, chỉ đạo của Đảng bộ Hưng Yên về mọi mặt trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở địa phương. Các tác phẩm về lịch sử Đảng bộ huyện, xã trong tỉnh như: Lịch sử Đảng bộ huyện Kim Động, Lịch sử Đảng bộ huyện Tiên Lữ, Lịch sử Đảng bộ huyện Văn Giang, Lịch sử Đảng bộ Thị xã Hưng Yên, Lịch sử Đảng bộ huyện Mỹ Hào… Ngoài ra còn có một số sách chuyên khảo, các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, những công trình nghiên cứu về vấn đề chiến tranh nhân dân và chiến tranh du kích. Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị định hướng và tư liệu quý cho tác giả luận văn triển khai nghiên cứu đề tài này. Song những cuốn sách đó còn trình bày một cách tổng thể, khái quát, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên trong việc xây dựng lực lượng, lãnh đạo tiến hành chiến tranh du kích trên địa bàn tỉnh, những hạn chế trong lãnh đạo xây dựng lực lượng tiến hành chiến tranh du kích cũng như sự phối hợp của Hưng Yên với các chiến trường khác, đặc điểm và một số kinh nghiệm về lãnh đạo chiến tranh du kích của Đảng bộ Hưng Yên. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này là hoàn toàn mới mẻ, tư liệu tham khảo chủ yếu là những tư liệu được lưu tại Phòng lưu trữ tư liệu Văn phòng Tỉnh ủy Hưng Yên, Phòng nghiên cứu Lịch sử Đảng - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên, Thư viện Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hưng Yên và Thư viện tỉnh Hưng Yên cùng một số tài liệu kể trên. 9 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích - Làm sáng tỏ những chủ trương, đường lối của Đảng bộ Hưng Yên trong lãnh đạo chiến tranh du kích ở địa phương (1946 – 1954). - Đánh giá những ưu điểm, hạn chế và bước đầu đúc rút những bài học, kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích ở Hưng Yên thời kỳ này, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với công tác quân sự địa phương. Nhiệm vụ - Tập hợp những tư liệu lịch sử cơ bản có liên quan đến vấn đề Đảng bộ lãnh đạo chiến tranh du kích ở Hưng Yên. - Làm rõ các phong trào quần chúng trong việc thực hiện chủ trương của Đảng bộ. - Tái hiện quá trình Đảng bộ Hưng Yên lãnh đạo quân và dân trên địa bàn tỉnh tiến hành cuộc chiến tranh du kích trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu - Chủ trương, đường lối của Đảng bộ Hưng Yên lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở địa phương. - Những diễn biến chính của chiến tranh du kích ở Hưng Yên. - Những thành công và hạn chế của Đảng bộ Hưng Yên trong lãnh đạo chiến tranh du kích. Phạm vi nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu của đề tài: cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam diễn ra từ năm 1945. Tuy nhiên, trong giới hạn đề tài này tác giả chỉ giới hạn bắt đầu từ tháng 12/1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc 10 bùng nổ cho đến khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Tuy nhiên, để làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ Hưng Yên đối với cuộc chiến tranh du kích ở địa phương, luận văn cũng đề cập đến một số vấn đề trong thời gian từ sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công đến tháng 12/1946. - Không gian nghiên cứu của đề tài: trên phạm vi toàn tỉnh Hưng Yên. - Luận văn tập trung nghiên cứu những chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về lãnh đạo chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp và quá trình triển khai thực hiện những chủ trương, đường lối của Đảng ở các cấp huyện, xã. - Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận văn, tác giả cũng đề cập đến những vấn đề có liên quan đến đề tài như vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, dân cư, truyền thống lịch sử của Hưng Yên cũng như bối cảnh chung của cuộc kháng chiến trên chiến trường chính Bắc Bộ và trong toàn quốc nhằm mục đích thực hiện nhiệm vụ của đề tài đã đặt ra. 5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nguồn tài liệu Để nghiên cứu đề tài, tác giả dựa vào các nguồn tư liệu sau: - Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam có liên quan đến đề tài được in trong Văn kiện Đảng toàn tập của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Các tài liệu lưu trữ của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh, gồm các Báo cáo, Chỉ thị, Nghị quyết về những vấn đề có liên quan đến đề tài được lưu tại Phòng lưu trữ tư liệu, Văn phòng Tỉnh ủy Hưng Yên. - Các sách lịch sử kháng chiến chống Pháp trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. - Một số sách chuyên khảo vể chiến tranh du kích. - Một số luận văn, luận án đã thực hiện. 11 Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận sử học Mác - xít, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử là: kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, đề tài bước đầu tiếp cận và vận dụng các phương pháp: phương pháp phân tích, so sánh lịch sử, thống kê… 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Trình bày có hệ thống về chủ trương, đường lối của Đảng bộ Hưng Yên về tiến hành chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 – 1954). - Nêu lên một số đặc điểm, ưu điểm và những hạn chế của Đảng bộ Hưng Yên trong lãnh đạo chiến tranh du kích trong cuộc kháng chiến chống Pháp, qua đó đúc rút một số kinh nghiệm lịch sử. - Góp phần làm phong phú thêm nguồn tư liệu cho chiến tranh nhân dân địa phương nói riêng và nguồn tư liệu lịch sử dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giúp thế hệ trẻ Hưng Yên hiểu rõ hơn tội ác của thực dân Pháp và càng thêm tự hào với những chiến công vang dội, những trang sử vẻ vang của thế hệ cha anh. 7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm ba chương. Chương 1: Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chiến tranh du kích từ năm 1946 – 1950. Chương 2: Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chiến tranh du kích từ năm 1951 – 1954. Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm. 12 Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪ NĂM 1946 – 1950 1.1. Khái quát về tỉnh Hưng Yên và chủ trương của Đảng bộ 1.1.1. Khái quát về tỉnh Hưng Yên Hưng Yên là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng. Đây là vùng địa linh, nhân kiệt, giữ vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Trải qua nhiều thời đại, vùng đất này đã có những thay đổi về địa lý hành chính.Từ trước công nguyên, thời Hùng Vương đây là vùng đất thuộc bộ Dương Tuyền.Đến thời kỳ Bắc thuộc, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ trong huyện Chu Diên, đời Lương thuộc quận Vũ Bình. Khi giành được quyền độc lập tự chủ, các triều đại Ngô, Đinh và Tiền Lê đặt là phủ Thái Bình; thời Lý Cao Tông đặt là châu Đằng, châu Khoái; triều Trần đặt là lộ Long Hưng, rồi đặt là lộ Khoái. Thời nhà Minh đô hộ, vùng đất này thuộc phủ Kiến Xương. Thời Lê Thuận Thiên thuộc Nam Đạo và đầu thời Nguyễn, phủ Khoái Châu thuộc trấn Sơn Nam Thượng. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), nhà Nguyễn chia lại tỉnh hạt, thành lập tỉnh Hưng Yên gồm vùng đất của hai phủ: phủ Khoái Châu thuộc trấn Sơn Nam và phủ Tiên Hưng thuộc trấn Nam Định. Tỉnh Hưng Yên ban đầu có 8 huyện là Đông Yên, Thiên Thi, Kim Động, Phù Cừ, Tiên Lữ, Hưng Nhân, Duyên Hà và Thần Khê. Phố Hiến trước đó là một trung tâm thương mại, khi lập tỉnh được lập sở, xây thành và là tỉnh lị Hưng Yên. Khi quân Pháp đánh Hưng Yên lần thứ nhất (tháng 08/1873) và hạ thành Hưng Yên lần thứ hai (tháng 03/1883), địa giới Hưng Yên vẫn như khi mới thành lập. Đến năm 1894, tỉnh Hưng Yên có thêm vùng đất của Bắc Ninh (một số tổng của huyện 13 Lương Tài và Siêu Loại), Hải Dương (huyện Mỹ Hào); ranh giới phía Bắc tới sông Chu Đậu, phía Tây là sông Hồng, phía Đông là sông Cửu Yên và sông Luộc trở thành ranh giới tự nhiên phía Nam của tỉnh. Địa giới hành chính này giữ từ năm 1894 đến cách mạng tháng Tám 1945. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, từ tháng 06/1947 đến tháng 04/1999, Hưng Yên có sự thay đổi địa giới hành chính tới 26 lần lớn, nhỏ. Năm 1949, Hưng Yên có 10 đơn vị hành chính cấp huyện là Văn Giang, Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Khoái Châu, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ và thị xã Hưng Yên với 117 xã. Đến tháng 01/1968, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ra Nghị quyết số 544/NQ-TVQH hợp nhất hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng gồm 10 huyện, thị xã của Hưng Yên và 12 huyện, thị xã của Hải Dương. Đến tháng 11/1996, Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn tách Hải Hưng thành hai tỉnh là Hưng Yên và Hải Dương sau 29 năm hợp nhất. Ngày 01/01/1997 tỉnh Hưng Yên được tái lập gồm thị xã Hưng Yên và 5 huyện là Mỹ Văn, Châu Giang, Phù Tiên, Ân Thi và Kim Động. Đến tháng 04/1999, tỉnh Hưng Yên có 10 đơn vị cấp huyện là thị xã Hưng Yên, Phù Cừ, Tiên Lữ, Văn Lâm, Mỹ Hào, Kim Động, Ân Thi, Văn Giang, Yên Mỹ, Khoái Châu với 160 đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn). Nằm ở tả ngạn sông Hồng thuộc châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, phía Bắc của tỉnh giáp với Bắc Ninh và Thành phố Hà Nội.Sông Luộc từ ngã ba Tuần Vương đến Hạ Đồng dài hơn 21km là ranh giới tự nhiên phía Nam của tỉnh tiếp giáp với Thái Bình.Ranh giới tự nhiên phía Tây là sông Hồng tiếp giáp với Hà Nội và Hà Nam.Phía Đông tiếp giáp với Hải Dương. Hưng Yên là vành đai bảo vệ trực tiếp thủ đô Hà Nội; cùng với Hải Dương là tuyến trong của thành phố cảng Hải Phòng. Địa giới phía Nam của tỉnh tiếp giáp với Thái Bình, ngăn cách bởi dòng sông Luộc, là tuyến đường 14 thủy quan trọng nối Hải Phòng với thành phố Hưng Yên, rồi ngược sông Hồng lên Hà Nội rồi xuôi xuống thành phố Nam Định, ra cửa Ba Lạt. Sông Hồng là ranh giới tự nhiên phía Tây của Hưng Yên, phía bên kia sông là Thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Nam. Đoạn sông Hồng chảy qua địa bàn của tỉnh từ Bát Tràng đến ngã ba Tuần Vương dài 42km, các loại ca nô, tàu chiến có thể hoạt động dễ dàng trong cả bốn mùa. Khi các phương tiện vận tải đường không, đường sắt, đường bộ chưa phát triển thì mạng lưới đường sông trên đất Hưng Yên có vị trí quan trọng trong vận tải nói chung, đặc biệt là trong vận tải quân sự và ngày nay vẫn có ý nghĩa về chiến lược. Không chỉ quan trọng về đường thủy, Hưng Yên còn giữ vị trí chiến lược về giao thông đường bộ, đường sắt, đặc biệt là tuyến đường sắt, quốc lộ 5 nối Hà Nội với Hải Phòng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, địch đã coi tuyến đường này là cái “yết hầu” để nối cái “cuống họng Hải Phòng” với cái “dạ dày Hà Nội”. Cùng với hai tuyến đường chiến lược nói trên, Hưng Yên còn có mạng lưới đường bộ khá phát triển chạy khắp tỉnh có ý nghĩa lớn trong chiến tranh cũng như trong phát triển sản xuất như đường 39 từ cửa biển Diêm Điền qua thành phố Thái Bình nối thành phố Hưng Yên, nối với quốc lộ số 5 ở ngã tư Phố Nối. Trong kháng chiến chống Pháp, với ưu thế về binh khí kỹ thuật và phương tiện cơ động, Pháp đã triệt để lợi dụng hệ thống đường sá, sông lạch như những lợi thế của chúng ở đồng bằng Bắc bộ thực hiện các ý đồ chiến dịch, chiến thuật trong tổ chức chiến đấu. Hưng Yên là tỉnh hoàn toàn đồng bằng duy nhất của Bắc bộ, không có đồi núi, không có rừng và không có biển. Đất đai của Hưng Yên có độ cao trung bình 4m so với mực nước biển. Phần lớn đất đai ven sông Hồng, sông Luộc là đất phù sa, vùng tiếp giáp là đất thịt pha cát, còn ở vùng nội đồng như các huyện Ân Thi, Yên Mỹ, Mỹ Hào, phía bắc huyện Văn Lâm, Tiên Lữ; phía đông các huyện Văn Giang, Khoái Châu, Kim Động chủ yếu là đất thịt. Đất 15 đai của Hưng Yên nghiêng dần từ Tây sang Đông bởi phù sa bồi lắng do nhiều lần lụt lội. Hưng Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều lại chịu ảnh hưởng của thủy triều hay gây úng nên nhìn chung khó cấu trúc công sự ngầm, khó khăn trong việc lập kho tàng, cất giữ tài sản. Bên cạnh đó, mạng lưới sông ngòi, kênh lạch chằng chịt còn tạo thêm trở ngại lớn là địa bàn bị chia cắt, chiến trường dễ bị bao vây, cô lập. Những yếu tố đất đai, nguồn nước, thời tiết, khí hậu đã tạo nên những khu dân cư khác nhau và cảnh cư trú, sinh sống cũng khác nhau. Việc định cư vốn theo quy luật bám trụ theo nguồn nước nên nhân dân Hưng Yên đã ưu tiên chọn nơi sinh sống theo các triền sông. Các vùng ven sông Hồng, sông Luộc đã hình thành các khu vực làng mạc dày đặc, thuận tiện cho việc trú và giấu quân, cơ động lực lượng và tổ chức chiến đấu liên hoàn. Tuy nhiên, làng mạc ở những vùng này phần nhiều trống trải, ít có lũy tre kiên cố, nhiều đường ngang, lối tắt dễ tiếp cận làng này sang làng khác, không thuận lợi cho việc tổ chức chiến đấu theo lối cố thủ. Do có vị trí và địa thế tự nhiên như vậy, cho nên trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, vùng đất Hưng Yên luôn là vị trí có ý nghĩa chiến lược. Theo nhiều thư tịch cổ và lịch sử thành văn thì nhân dân Hưng Yên đã sớm cùng nhân dân cả nước đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm. Thời cổ đại và trung đại, Hưng Yên được coi là “cửa ngõ Kinh thành”, “phụ quách” của Kinh đô, được đặt là một trong năm đạo rồi tứ trấn cơ bản, được xác định “tỉnh này là một khu vực phòng ngự” [44, tr.16]. Nhân dân Hưng Yên đã sớm cùng nhân dân cả nước đứng lên đánh đuổi giặc Ân, giặc Tần từ trước công nguyên; hăng hái tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40 sau công nguyên. Khi Lý Bí khởi nghĩa chống quân Lương năm 542, đến năm 16 548 Triệu Quang Phục lên thay đã rút quân về lập căn cứ ở Đầm Dạ Trạch giữ nền độc lập trong 20 năm. Năm 938, Ngô Quyền từng lập đại bản doanh ở phố Vương, tiếp tục chuẩn bị lực lượng để đánh thắng trận thủy chiến ở Bạch Đằng. Khi Lê Hoàn đánh thắng quân Tống, ông cũng giao cho 3 con trai chia quân đóng giữ tại Đằng Châu và hai nơi khác thuộc phía Bắc Hưng Yên. Năm 1069, Lý Thánh Tông tổ chức luyện quân ở vùng đất thuộc Kim Động ngày nay, để đánh thủy quân Chiêm Thành khi chúng từ cửa Ba Lạt tiến vào đánh Thăng Long. Đặc biệt là cả 3 lần chống quân Nguyên – Mông mạnh nhất thế giới lúc đó, khi chúng đánh vào nước ta vào các năm 1258, 1285, 1287-1288, nhà Trần theo kế sách rút lui chiến lược, xuôi sông Hồng về vùng Long Hưng – Thiên Trường, bảo toàn lực lượng để phản công giành thắng lợi cuối cùng, đã lập phòng tuyến chống giặc ở Thiên Mạc, Hàm Tử, Đông Kết, Tây Kết… Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Một bộ phận tiến bộ trong triều đình đã không cam chịu mất nước, đứng lên kháng chiến “Chiếu Cần Vương” được nhân dân Hưng Yên hưởng ứng, khởi đầu là cụ Đinh Gia Quế (quê ở Khoái Châu) giương cờ “Bình Tây phạt tội” đánh Pháp trong 2 năm; tiếp theo đó là khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (quê ở Xuân Dục, Mỹ Hào) lãnh đạo nghĩa quân Bãi Sậy chiến đấu trong 8 năm. Đây là một trong những cuộc nổi dậy chống Pháp lớn nhất thời Cần Vương tại một vùng đông dân, nhiều của khiến kẻ thù khiếp sợ, chúng phải thành lập riêng Đạo Bãi Sậy – một đơn vị quản quân tương đương cấp tỉnh – và lập 2 Binh đoàn tác chiến để chống lại nghĩa quân. Hưng Yên cũng là nơi sinh thành và nuôi dưỡng nhà yêu nước Hoàng Hoa Thám (quê ở Dị Chế, Tiên Lữ).Ông là người lãnh đạo nghĩa quân Yên Thế, một trong những thủ lĩnh nổi tiếng sau thời Cần Vương. Kế thừa truyền thống vẻ vang đó, được Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, nhân dân Hưng Yên đã cùng với cả nước đấu tranh để 17 giành và giữ được độc lập, tự do. Từ khi Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Hưng Yên ra đời tại Thuần Hưng (Khoái Châu) năm 1929 đến trước ngày Tổng khời nghĩa tháng 08/1945, phong trào cách mạng của nhân dân Hưng Yên tuy bị địch đàn áp dã man, nhiều lần tổ chức và cơ sở bị phá vỡ; nhiều đảng viên, cán bộ, quần chúng cách mạng bị giết hại và tù đày… nhưng không ngừng được củng cố và phát triển. Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân nhưng công việc của cách mạng còn đang bộn bề và mới mẻ, lực lượng cán bộ cách mạng còn mỏng, chưa có kinh nghiệm giữ chính quyền, quản lý xã hội. Trong khi đó, tàn dư của chính quyền và chế độ cũ còn khá mạnh và rất phức tạp, giặc ngoài lại đang dòm ngó. Cũng như cả nước, quân và dân Hưng Yên lại đứng trước những khó khăn mới và hăng hái hoàn thành những nhiệm vụ mới khi người dân đã thực sự được làm chủ cuộc sống và vận mệnh đối với quốc gia, dân tộc, địa phương và gia đình. Hưng Yên có số dân không lớn, nhưng tốc độ phát triển nhanh và mật độ khá cao. Sau cách mạng tháng Tám 1945, toàn tỉnh có 480.000 người, đến năm 1949 có 589.800 người. Sau gần 8 năm cùng cả nước kháng chiến chống Pháp, ngày 08/10/1954, khi tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi vị trí Cống Ao Sầu (Văn Giang), quân ta vào tiếp quản, Hưng Yên được giải phóng hoàn toàn. Nằm trên một vùng địa - kinh tế thuận tiện, từ lâu đời, Hưng Yên đã có một nền thương mại phát triển.Không những có nhiều làng biết buôn bán, giao lưu kinh tế tổng hợp.Hưng Yên còn sớm giao lưu quốc tế thông qua thương cảng Phố Hiến – một phố cổ sầm uất vào hàng nhất, nhì Bắc Hà “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Một thời gian dài, Hưng Yên nằm giữa ba thành phố lớn Hà Nội - Hải Phòng - Nam Định nên sớm tiếp thu những tinh hoa thương mại và khoa học công nghệ đô thị; ngày nay lại nằm trong tam 18 giác chiến lược về phát triển công nghiệp Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh nên càng thuận lợi trong giao lưu và phát triển kinh tế nhằm phục vụ đời sống và quốc phòng. 1.1.2. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ Cách mạng tháng Tám thành công, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam.Nhà nước Việt Nam mới – Nhà nước dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời.Chính quyền cách mạng được xây dựng từ Trung ương đến địa phương.Nhưng thực dân Pháp một lần nữa quay lại xâm lược nước ta, mở đầu bằng cuộc đánh chiếm Sài Gòn ngày 23/09/1945. Ngày 28/02/1946, Pháp bắt tay với Chính phủ Trung Hoa dân quốc ký hiệp ước Pháp – Hoa tại Trùng Khánh. Theo hiệp ước này, Pháp trả lại cho Chính phủ Trung Hoa dân quốc các tô giới và đất nhượng ở Trung Quốc; bán lại đoạn đường sắt Côn Minh – Hồ Kiều; cho quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa chở hàng về nước qua cảng Hải Phòng được miễn thuế (đó là những thứ quân cướp bóc đổi chác được qua 6 tháng “Hoa quân nhập Việt”). Trung Hoa dân quốc đồng ý rút quân, giao lại cho Pháp tiếp quản Việt Nam và Lào.Như vậy, cách mạng Việt Nam đứng trước một tình thế mới hết sức phức tạp.Đất nước bớt đi được một số kẻ thù là quân Anh và quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa nhưng thực dân Pháp lại được tạo điều kiện ráo riết thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Sau khi Hiệp ước Pháp – Hoa được ký kết, ngày 03/03/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Tình hình và Chủ trương.Chỉ thị nhận định, Hiệp ước Pháp – Hoa là biểu hiện của sự thỏa hiệp giữa bọn đế quốc với nhau; Chỉ thị phân tích vấn đề lúc này không phải là muốn đánh hay không muốn đánh.Vấn đề là biết mình, biết người, nhận định một cách khách quan những điều kiện lợi hại trong và ngoài nước mà chủ trương cho đúng. Trung ương Đảng quyết định chọn giải pháp hòa hoãn, đàm phán với Pháp để buộc 19 quân đội Trung Hoa dân quốc phải rút về nước, tránh được tình thế một lúc ta phải đối mặt với nhiều kẻ thù, bảo toàn lực lượng tranh thủ thời gian hòa hoãn để xây dựng lực lượng chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Lập trường của ta trong cuộc đàm phán với Pháp được Trung ương Đảng vạch ra là: Pháp phải thừa nhận quyền độc lập tự quyết của của dân ta, công nhận chính phủ, quân đội, nghị viện, tài chính, ngoại giao… và sự thống nhất của đất nước ta. Thế nhưng, thực dân Pháp đã bội ước. Với khí thế sục sôi của cả nước sau Cách mạng tháng Tám, với lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã phát triển sau gần một năm tranh thủ xây dựng, toàn thể nhân dân Việt Nam đoàn kết một lòng cùng với Đảng và Chính phủ quyết tâm chiến đấu đến cùng vì nền độc lập và thống nhất của tổ quốc. Ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàndân kháng chiến. Bản Chỉ thị đã vạch rõ mục đích, tính chất và đường lối chung chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến chống Pháp là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Ngày 17 và 18 tháng 12 năm 1946, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng mở rộng họp tại Vạn Phúc (Hà Đông – Hà Nội) dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị đã phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên quy mô cả nước và đề ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến với Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946. Tháng 02/1947, đồng chí Trường Chinh – Tổng Bí thư Đảng đã viết một loạt bài giải thích về đường lối kháng chiến của Đảng đăng trên báo Sự thật như: “Chúng ta đánh ai?”, “Đánh để làm gì?”, “Tính chất cuộc kháng chiến của ta”… Trong dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Nam Bộ kháng chiến 23/09/1947, những bài báo này đã được bổ sung và in thành sách “Kháng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan