Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đại đoàn kết dân tộc động lực cơ bản của sự phát triển đất nước theo định hướn...

Tài liệu đại đoàn kết dân tộc động lực cơ bản của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa

.PDF
82
7
90

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi trung t©m ®µo t¹o, båi d-ìng gi¶ng viªn lý luËn chÝnh trÞ ------------o0o------------ NguyÔn thÞ -ng ®¹i ®oµn kÕt d©n téc - ®éng lùc c¬ b¶n cña sù ph¸t triÓn ®Êt n-íc theo ®Þnh h-íng x· héi chñ nghÜa Chuyªn ngµnh : TriÕt häc M· sè : 60 22 80 TÓM TẮT luËn v¨n th¹c sü triÕt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. NguyÔn L-¬ng B»ng Hµ néi - 2010 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài §Ó ph¸t triÓn x· héi cã nhiÒu ®éng lùc kh¸c nhau. §éng lùc nµy cã thÓ ®-îc x¸c ®Þnh lµ con ng-êi, lµ lîi Ých, lµ sù thèng nhÊt hay ®Êu tranh gi÷a c¸c mÆt ®èi lËp. Theo quan ®iÓm m¸cxÝt, trong x· héi cã giai cÊp ®èi kh¸ng, ®Êu tranh giai cÊp lµ mét trong nh÷ng ®éng lùc cña sù ph¸t triÓn x· héi. Tuy nhiªn, ®èi víi ViÖt Nam, ®¹i ®oµn kÕt d©n téc ®· trë thµnh mét ®éng lùc c¬ b¶n ®Ó b¶o vÖ vµ ph¸t triÓn ®Êt n-íc tõ trªn hai ngh×n n¨m nay. Đại đoàn kết dân tộc là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó đã được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước; được thử thách qua các cuộc đấu tranh chống thiên tai, và chống giặc ngoại xâm. Nhờ có truyền thống quý báu đó, mỗi khi có giặc ngoại xâm, mọi người như một đứng dậy với quyết tâm sắt đá “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Truyền thống đó đã trở thành một giá trị, tạo nên sức mạnh bất diệt của dân tộc Việt Nam. Sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc đã làm cho công cuộc giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam liên tiếp đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công”` Kế thừa truyền thống đại đoàn kết của dân tộc và tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, kể từ Đại hội VI đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ngày càng quan tâm, chú ý đến việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Qua các kỳ Đại hội, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc luôn được bổ sung và hoàn thiện, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định đoàn kết và đại đoàn kết dân tộc “là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đến Đại hội X, tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc đã được trình bày một cách cô đọng nhất, được đưa vào chủ đề của Đại hội và được trình bày trong mục X thuộc báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX với tiêu đề: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân”. 2 Giai đoạn hiện nay là giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, xã hội thế giới có những diễn biến hết sức phong phú và phức tạp. Thấy được tầm quan trọng của vấn đề đại đoàn kết dân tộc, nhất là trong giai đoạn hiện nay, đã có nhiều bài viết, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, tuy nhiên chưa có đề tài nào tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề đại đoàn kết dân tộc như là một trong những động lực cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, qua nghiên cứu các tài liệu, tác giả luận văn chọn vấn đề “Đại đoàn kết dân tộc - động lực cơ bản của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình, nhằm góp phần vào việc làm rõ thêm tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn mới của quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Tình hình nghiên cứu Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược trong đường lối cách mạng Việt Nam, là một động lực chủ yếu cho sự phát triển của đất nước. Vì thế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết tiếp cận vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau, cụ thể như: - “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới” của Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện CTQG Hồ Chí Minh xuất bản năm 2004. - “Đại đoàn kết dân tộc, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Vũ Oanh xuất bản năm 1998. - “Về động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội” của GS.TS. Lê Hữu Tầng xuất bản năm 1997. - “Động lực và tạo động lực phát triển xã hội” của TS. Hồ Bá Thâm xuất bản năm 2004. - “Vai trò và cơ sở của đại đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay” của Phạm Văn Đức in trên Tạp chí Triết học, số 1, tháng 1-2008. - “Đoàn kết xã hội - động lực phát triển xã hội” của Hà Văn Núi in trên Tạp chí Triết học, số 6, tháng 6-2008. … 3 Các đề tài trên là những tư liệu quan trọng để giúp cho tác giả luận văn có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 3.1. Mục đích Từ góc độ triết học, luận văn làm rõ vai trò động lực phát triển xã hội của đại đoàn kết dân tộc và trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau: - Làm rõ quan điểm mácxít về động lực và vai trò động lực của đại đoàn kết dân tộc trong quá trình phát triển xã hội Việt Nam. - Phân tích những vấn đề đặt ra trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc thúc đẩy quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề đại đoàn kết dân tộc; đồng thời luận văn cũng sử dụng các thành tựu của một số công trình khoa học đã được công bố có liên quan tới nội dung được đề cập trong luận văn. 4.2. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Các phương pháp khác như: phân tích, so sanh, tổng hợp,… 5. Phạm vi nghiên cứu Vấn đề đại đoàn kết dân tộc là một đề tài rộng lớn, bao hàm nhiều nội dung phøc tạp. Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, luận văn chỉ tập trung chủ yếu vào vai trò động lực của đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc đổi mới của Việt Nam. 4 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc như là một động lực cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo chuyên ngành Triết học cho những đối tượng quan tâm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Vấn đề động lực của sự phát triển và vai trò động lực của đại đoàn kết trong sự phát triển của xã hội. Chương 2: Thực trạng việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc để tạo động lực cho sự phát triển xã hội trong thời kỳ đổi mới. Chương 3: Những giải pháp cơ bản để phát huy vai trò động lực của khối đại đoàn kết dân tộc trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chƣơng 1 5 VẤN ĐỀ ĐỘNG LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN VÀ VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA ĐẠI ĐOÀN KẾT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA Xà HỘI. 1.1. Quan điểm về động lực của sự phát triển và động lực của sự phát triển xã hội. 1.1.1. Khái niệm về động lực của sự phát triển. Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy mọi động lực, tạo sức mạnh tổng hợp, xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vấn đề động lực đã được nhìn nhận dưới nhiều góc độ, chúng ta thường nói tới động lực vật chất, động lực tinh thần, động lực chính trị. Nhận thức đúng động lực và phát huy động lực là việc làm hết sức quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh nước ta hiện nay thì việc đó có ý nghĩa quyết định tới thành công của sự nghiệp đổi mới. Vậy động lực của sự phát triển là gì? Khái niệm “động lực của sự phát triển” vốn xuất phát từ triết học và gắn chặt với một khái niệm khác, như “nguồn gốc của sự phát triển”. Ngay từ thời cổ đại và đặc biệt từ thời đại Khai sáng, khi bàn về mối quan hệ giữa vật chất và vận động, các nhà duy vật đã đặt vấn đề vật chất luôn vận động và phát triển. Vậy thì cái gì là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển đó? Do không tìm được cách giải quyết thấu đáo cho vấn đề đó nên không ít nhà triết học phải từ bỏ lập trường duy vật để chấp nhận cách giải thích duy tâm về sự vận động của vật chất. Chẳng hạn, một số nhà triết học khẳng định rằng mọi sự vận động đều do cái hích của một lực hay một sự vật khác từ bên ngoài. Và cái hích đầu tiên làm cho thế giới vật chất này vận động theo họ là cái hích của Thượng đế. Khác với các nhà triết học duy tâm, khi bàn về mối quan hệ giữa vật chất và vận động, Ăngghen cho rằng, vận động “là thuộc tính cố hữu của vật chất”, “là phương thức tồn tại của vật chất”. Và, với tính cách là thuộc tính bên trong vốn có của vật chất, theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, vận động là sự tự vận động của vật chất, được tạo nên do sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc của vật chất. Điều này hoàn toàn trái ngược với các quan điểm duy tâm hoặc siêu hình về vận động. Không có một sức mạnh nào nằm ngoài vật chất lại có thể khiến cho vật chất vận động. “Cái hích ban 6 đầu của Thượng đế” chẳng qua chỉ là sự bịa đặt của những đầu óc duy tâm hoặc siêu hình khi đối mặt với những bế tắc trong nhận thức khách quan. Từ những quan điểm về vận động của vật chất nêu trên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác và những người theo triết học mácxít đều coi nguồn gốc và động lực của sự phát triển xã hội là nguyên nhân bên trong của sự vận động và phát triển. Song, nội dung của khái niệm nguồn gốc của sự phát triển và động lực của sự phát triển lại được giải thích khác nhau. Một số tác giả cho rằng về thực chất khái niệm “động lực của sự phát triển” đồng nhất với khái niệm “nguồn gốc của sự phát triển”. Ngược lại, với ý kiến đó, đa số tác giả khác lại khẳng định rằng giữa hai khái niệm nguồn gốc và động lực vừa có sự thống nhất vừa có sự khác biệt. Sự thống nhất của hai khái niệm đó được thể hiện ở chỗ, chúng đều là sự cụ thể hoá của phạm trù “nguyên nhân” và đều gắn chặt với phạm trù “mâu thuẫn”. Song sự khác nhau giữa khái niệm “nguồn gốc” và khái niệm “động lực” lại được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Một số tác giả hiểu nguồn gốc của sự phát triển là những mâu thuẫn còn động lực là những nhân tố thực hiện việc giải quyết mâu thuẫn. Những người ủng hộ quan điểm này còn cho rằng khái niệm “nguồn gốc của sự phát triển” được sử dụng cả trong tự nhiên lẫn trong xã hội, còn khái niệm “động lực của sự phát triển” chỉ được sử dụng trong xã hội. Nếu hiểu theo quan điểm này thì trong tự nhiên chỉ có nguồn gốc của sự phát triển chứ không có động lực của sự phát triển vì sự phát triển trong tự nhiên diễn ra một cách tự phát, không có sự tham gia của ý thức, còn trong xã hội, ngoài nguồn gốc là mâu thuẫn còn có động lực của sự phát triển. Lại có một cách hiểu khác về sự khác nhau giữa khái niệm “nguồn gốc” và khái niệm “động lực” của sự phát triển. Họ coi “nguồn gốc của sự phát triển” là những nguyên nhân trực tiếp, còn “động lực của sự phát triển” là nguyên nhân gián tiếp. Như vậy, việc phân biệt rạch ròi và hiểu một cách thấu đáo hai khái niệm đó là không đơn giản. Vì mỗi người nghiên cứu đứng từ các góc độ khác nhau có thể đưa ra các ý kiến khác nhau về hai khái niệm đó. Để phân biệt hai khái niệm trên, trong nội dung này chúng tôi muốn sử dụng cách phân biệt của GS.TS Lê Hữu Tầng đã được trình bày trong cuốn sách: “Về động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội” (Nxb KHXH, HN, 1997). Theo GS.TS Lê Hữu Tầng, “khi nói tới nguồn gốc hoặc động lực là muốn nói tới vai trò của một yếu tố nào đó trong sự vận động và phát triển của sự vật, trong đó nguồn gốc là cái gây nên sự vận động và phát triển, còn động lực là cái thúc đẩy sự vận động và phát triển ấy” [56]. Nếu theo nghĩa đó mà xét thì trong mối tương quan với mâu thuẫn và 7 các hiện tượng khác, ta có thể thấy rằng mâu thuẫn vừa là nguồn gốc vừa là động lực của mọi sự vận động, nhưng không phải cái nào là động lực đồng thời cũng là nguồn gốc. Khẳng định điều này có nghĩa là khẳng định rằng để tìm ra nguồn gốc và động lực phát triển của sự vật, chúng ta phải tiến hành phân tích các mâu thuẫn hiện đang tồn tại và tác động trong sự vật. Nhưng ngoài những mâu thuẫn này còn phải tìm các yếu tố khác đóng vai trò là động lực của sự phát triển đó nữa. “Như vậy, khái niệm “động lực của sự phát triển” rộng hơn khái niệm “nguồn gốc của sự phát triển”. Động lực của sự phát triển bao hàm cả nguồn gốc với tính cách là hạt nhân lẫn các yếu tố khác mà thông qua đó tác dụng của nguồn gốc được tăng cường thêm. Nói cách khác, nếu nguồn gốc là cái gây nên sự phát triển thì động lực là cái thúc đẩy, là cái làm gia tăng sự phát triển ấy. Vì vậy, tìm động lực của sự phát triển là tìm cái thúc đẩy sự phát triển khi bản thân sự phát triển đó đã có, đã nảy sinh.” [56] Như vậy, khái niệm nguồn gốc của sự phát triển và khái niệm động lực của sự phát triển có sự khác nhau: một cái gây nên sự phát triển và một cái thúc đẩy sự phát triển đó. Nói cách khác, nguồn gốc là nguyên nhân xét đến cùng của sự phát triển, còn động lực được xem như nguyên nhân trực tiếp hơn của sự phát triển đó. Có thể khái quát lại rằng, động lực của sự phát triển là cái thúc đẩy sự phát triển; tất cả những cái đóng vai trò là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của một sự vật nào đó đều là động lực của sự phát triển của sự vật ấy. Vậy, với định nghĩa như trên thì động lực của sự phát triển của sự vật sẽ gồm những loại nào? Sự phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng đều có nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Khi nói đến động lực thúc đẩy sự phát triển của sự vật A nào đó thì phải nói đến cả động lực bên trong và động lực bên ngoài của nó. Trong mối quan hệ giữa động lực bên trong và động lực bên ngoài thì động lực bên trong là trực tiếp, còn động lực bên ngoài là gián tiếp, nghĩa là động lực bên ngoài phải thông qua động lực bên trong để phát huy tác dụng. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa động lực bên trong và động lực bên ngoài tuỳ thuộc vào từng sự vật cụ thể. Có động lực đối với sự vật này là động lực bên trong nhưng đối với sự vật khác lại là động lực bên ngoài. Mỗi sự vật có nhiều động lực bên trong và nhiều động lực bên ngoài, và mỗi động lực lại có vị trí và vai trò không giống nhau. Có động lực là chủ yếu và có động lực là thứ yếu; có động lực là cơ bản và có động lực là 8 không cơ bản; có động lực là trực tiếp và có động lực là gián tiếp... Mỗi động lực có một vị trí và vai trò xác định trong hệ thống các động lực của mỗi sự vật. Để góp phần thúc đẩy sự phát triển của sự vật A nào đó, chúng ta không những cần phải xác định đúng hệ thống các động lực của sự phát triển của nó, mà còn phải xác định đúng vai trò và vị trí của từng động lực trong từng giai đoạn cụ thể. Để làm rõ hơn nội hàm của khái niệm “động lực của sự phát triển” theo định nghĩa đã nêu trên, cần phải làm rõ một vấn đề lý luận quan trọng có liên quan, đó là mâu thuẫn có phải là động lực của sự phát triển hay không? Như chúng ta đã biết, vận động là một phạm trù quan trọng của triết học. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là một sự biến đổi nói chung. Ăngghen viết: “vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất (...) bao gồm tất cả mọi sự phát triển và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” [10, tr. 519]. Trên cơ sở kế thừa và khái quát những thành tựu của triết học và khoa học tự nhiên trong lịch sử nhận thức, triết học Mác-Lênin khẳng định: vật chất không do ai sáng tạo ra và không bị tiêu diệt, cho nên vận động với tính cách là phương thức tồn tại tất yếu của vật chất cũng không thể bị mất đi hoặc được sáng tạo ra. Thừa nhận sự tồn tại vĩnh cửu của vật chất, trên thực tế cũng có nghĩa là thừa nhận tính bất sinh, bất diệt của vận động. Vật chất không thể tồn tại bằng cách nào khác ngoài vận động. Mặc dù khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh cửu của nó, nhưng triết học Mác-Lênin cũng không vì thế mà phủ nhận hiện tượng đứng im của thế giới vật chất. Trái lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận rằng trong quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất chẳng những không loại trừ mà còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im tương đối. Không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được. Hiện tượng đứng im tương đối hay là trạng thái cân bằng tạm thời của sự vật trong quá trình vận động của nó, trên thực tế, chỉ xảy ra khi sự vật được xem xét trong một quan hệ xác định nào đó. Trên cơ sở đó mà Ăngghen đã rút ra kết luận: “Mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời” [10, tr. 471] trong sự vận động tuyệt đối và vĩnh viễn của thế giới vật chất. Mọi sự vật đều luôn luôn vận động và có thể diễn ra theo nhiều chiều hướng khác nhau, trong đó có vận động đi lên (hay còn gọi là phát triển) và vận động đi xuống (hay còn gọi là thụt lùi, thoái hoá). Trên thực tế, có một số sự vật vận động theo chiều hướng phát triển; một số sự vật vận động theo chiều hướng thoái hoá, thụt lùi; một số sự vật lại 9 vận động không theo chiều hướng phát triển cũng không theo chiều hướng thụt lùi, thoái hoá... Nếu như vận động là mọi sự biến đổi nói chung trong đó bao hàm cả sự phát triển và sự thụt lùi, thì phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn và phát triển là một trường hợp của sự vận động. Như vậy, vận động không đồng nhất với phát triển và cũng không đồng nhất với thụt lùi. Vậy, vấn đề đặt ra là, cái đóng vai trò là nguyên nhân gây ra sự vận động của một sự vật có đồng nhất với cái thúc đẩy sự phát triển, hay có đồng nhất với cái kìm hãm của sự phát triển của sự vật ấy hay không? Nguồn gốc hoặc nguyên nhân bên trong gây ra sự vận động của mỗi sự vật là những mâu thuẫn ở bên trong nó (mâu thuẫn nói ở đây là mâu thuẫn biện chứng). Nhưng phải chăng mâu thuẫn bên trong sự vật A nào đó đều là động lực bên trong của sự phát triển của sự vật A, hoặc đều là phản động lực bên trong của sự phát triển của sự vật A? Khi bàn về vấn đề này, có rất nhiều quan niệm khác nhau được đưa ra. Những người theo quan điểm duy tâm thường tìm nguồn gốc của sự vận động và phát triển không phải ở những mâu thuẫn nội tại của sự vật mà ở những lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức của con người, ở lý trí, của cá nhân kiệt xuất. Do phủ nhận sự tồn tại khách quan của mâu thuẫn trong sự vật và hiện tượng, những người theo quan điểm siêu hình tìm nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển ở sự tác động từ bên ngoài đối với sự vật. Rốt cuộc, họ đã phải nhờ đến “cái hích đầu tiên” như ở Newton, hay cầu viện tới Thượng đế như ở Arixtốt. Như vậy, bằng cách này hay cách khác, quan điểm siêu hình về nguồn gốc vận động và phát triển sớm hay muộn cũng sẽ dẫn tới chủ nghĩa duy tâm. Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng tìm thấy nguồn gốc của sự vận động và phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định, ở sự đấu tranh giữa các khuynh hướng, các mặt đối lập tồn tại trong các sự vật và hiện tượng. Dưới hình thức chung nhất, tư tưởng xem mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển đã được Hêraclít nói tới và được Hêghen phát triển lên trong sự vận dụng vào nhận thức. Hêghen viết: “mâu thuẫn, thực tế là cái thúc đẩy thế giới” [31, tr. 280]. Hơn nữa, ông còn xem “mâu thuẫn là cội nguồn của tất cả vận động và sự sống” [32, tr. 65] 10 C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã luận chứng và phát triển hơn nữa những luận điểm đó trên cơ sở biện chứng duy vật. Mác viết: “Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới” [6, tr. 191]. Nhấn mạnh tư tưởng đó, V.I.Lênin đã viết: “sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mâu thuẫn đối lập” [60, tr. 379]. Để hiểu được kết luận đó, chúng ta phải tìm nguyên nhân chân chính và cuối cùng của mọi sự vật là sự tác động qua lại lẫn nhau. Chính sự tác động qua lại đó tạo thành nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Mâu thuẫn là sự tác động qua lại lẫn nhau của các mặt, các khuynh hướng đối lập. Sự tác động qua lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu những thay đổi của các mặt đang tác động qua lại cũng như của sự vật nói chung, nó là nguồn gốc vận động và phát triển, là xung lực của sự sống. Chẳng hạn, bất kỳ một sinh vật nào cũng chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi có sự tác động qua lại giữa đồng hoá và dị hoá. Sự tiến hoá của các giống loài không thể có được, nếu không có sự tác động qua lại giữa di truyền và biến dị. Tư tưởng, nhận thức của con người không thể phát triển nếu không có sự cọ sát thường xuyên với thực tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng, sai... Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do vậy, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Tóm lại, dựa trên những cơ sở của sự phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định khái niệm “động lực của sự phát triển” nói lên cái thúc đẩy sự phát triển. Qua đó, làm rõ hơn vấn đề mâu thuẫn biện chứng có phải là động lực của sự phát triển hay không? Câu trả lời ở đây là mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển chứ không phải là động lực của sự phát triển. Từ những kết luận đó, ở phần tiếp theo sẽ đi vào phân tích rõ hơn động lực của sự phát triển trong xã hội là gì? 1.1.2. Khái niệm về động lực của sự phát triển xã hội Như ở phần trên đã phân tích, động lực của sự phát triển là cái thúc đẩy sự phát triển thì động lực của sự phát triển xã hội chính là cái thúc đẩy sự phát triển xã hội. Khi đi tìm động lực của sự phát triển xã hội có nghĩa là chúng ta phải tìm xem những cái gì là cái 11 thúc đẩy sự phát triển xã hội? Trước khi trả lời câu hỏi cái gì là động lực của sự phát triển xã hôi, chúng ta phải làm rõ câu hỏi xã hội là gì? Xã hội là một hình thái vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận động này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người và người làm nền tảng. “Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau” [5, tr. 11]. Theo Mác, “xã hội – cho dù nó có hình thức gì đi nữa – là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” [13, tr. 355]. Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên, bằng hoạt động của mình, con người đã làm nên lịch sử, tạo ra xã hội. Do đó, xã hội không thể là cái gì khác, mà chính là một bộ phận đặc biệt, được tách ra một cách hợp quy luật với tự nhiên, là hình thức tổ chức vật chất cao nhất của vật chất trong quá trình tiến hoá liên tục, lâu dài và phức tạp của tự nhiên. Xã hội là một bộ phận đặc biệt của tự nhiên. Song đồng thời với quá trình tiến hoá liên tục của tự nhiên, xã hội cũng có một quá trình phát triển lịch sử của mình. Ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, có một dạng cơ cấu xã hội đặc thù. Hình thái kinh tế - xã hội, được coi như những nấc thang của sự phát triển xã hội. Nền tảng của mỗi xã hội cụ thể này là những mối quan hệ sản xuất vật chất, những mối quan hệ kinh tế giữa người và người, trên cơ sở đó hình thành nên một thượng tầng kiến trúc tương ứng. Các mối quan hệ hình thành trong quá trình lao động sản xuất là cơ sở của tất cả những quan hệ xã hội khác, kể cả những quan hệ về tư tưởng, về chính trị giữa người và người trong xã hội có giai cấp. C.Mác viết: “Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo, riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là những tổng thể quan hệ xã hội như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại” [12, tr. 657]. Mỗi giai đoạn phát triển đặc thù của lịch sử nhân loại, hay mỗi một xã hội, đều được đặc trưng bởi một tổng thể quan hệ xã hội. Song, quan hệ xã hội chỉ là hình thức xã hội của một phương thức sản xuất nhất định, còn nội dung của nó lại chính là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trình độ 12 phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong quá trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội. Với tư cách là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, và cũng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa người và người, xã hội vừa phải tuân theo những quy luật của tự nhiên, vừa phải tuân theo những quy luật vốn có của xã hội. Cũng như các quy luật tự nhiên, các quy luật xã hội cũng mang tính khách quan. Ph.Ăngghen nhận xét, cái đã đúng với tự nhiên thì sẽ đúng với lịch sử xã hội. Song lịch sử phát triển của xã hội về căn bản khác với lịch sử của tự nhiên ở một điểm: “Trong tự nhiên (chừng nào chúng ta không xét đến ảnh hưởng ngược trở lại của con người đối với tự nhiên) chỉ có những nhân tố vô ý thức, mù quáng tác động lẫn nhau, và chính trong sự tác động lẫn nhau ấy mà quy luật chung biểu hiện ra... Trái lại, trong lịch sử xã hội, nhân tố hoạt động hoàn toàn chỉ là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có nhiệt tình và theo đuổi những mục đích nhất định, thì không có gì xảy ra mà lại có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn” [11, tr. 435]. Như vậy, quy luật của tự nhiên được hình thành xuyên qua vô số những tác động tự phát, mù quáng của các yếu tố tự nhiên, còn quy luật xã hội được hình thành trên cơ sở hoạt động có ý thức của con người. Xã hội là sản phẩm hoạt động của con người, mà “tất cả cái gì thúc đẩy con người hoạt động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc họ” [11, tr. 438]. Do vậy, quy luật xã hội chẳng qua chỉ là quy luật hoạt động của con người theo đuổi mục đích của mình. Sự tác động của quy luật xã hội diễn ra thông qua hoạt động của con người, tức thông qua hoạt động thực tiễn của con người, như lao động sản xuất, đấu tranh hay đoàn kết giai cấp... nhằm đáp ứng nhu cầu của mình, và thúc đẩy lịch sử phát triển. Không có những hoạt động như vậy của con người thì không có bất kỳ một sự tiến bộ lịch sử nào. Nhu cầu tự nó chỉ là động lực tiềm tàng, còn động lực thực tế là hành động tìm ra phương thức để thoả mãn nhu cầu. Chính vì thế, có thể nói hoạt động của con người, có sự tác động qua lại giữa nhu cầu và hoạt động thoả mãn nhu cầu (hay là lợi ích) là động lực phát triển xã hội. 13 Khi phân tích vai trò của nhu cầu trong sự phát triển của sản xuất, C.Mác đã khẳng định rằng “không có nhu cầu thì không có sản xuất” [56, tr. 28], mặc dù chính sản xuất đã làm nảy sinh nhu cầu. Vì vậy, Mác đã bắt đầu nghiên cứu lịch sử. Tiền đề đó là “người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết con người cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo”[56, tr. 28]. Đó là một chân lý hết sức hiển nhiên và sơ đẳng mà suốt nhiều thế kỷ con người không nhận ra. Và để có thức ăn, thức uống, nhà ở quần áo thì con người phải lao động sản xuất. Việc sản xuất ra những tư liệu nhằm thoả mãn những nhu cầu tối thiểu ấy C.Mác coi là hành vi lịch sử đầu tiên. C.Mác viết: “Hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất, và đó là hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như hàng nghìn năm về trước, người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống con người” [56, tr. 28]. Như vậy, nhu cầu sống còn (ăn, ở, mặc) là những nhu cầu không thể thiếu được của con người. Nhưng khi những nhu cầu đó đã được thoả mãn thì ở con người lại xuất hiện những nhu cầu mới. Việc sản sinh ra những nhu cầu mới này cũng được C.Mác gọi là hành vi lịch sử đầu tiên. Khi nhu cầu mới xuất hiện, con người lại tìm phương tiện để thoả mãn nhu cầu đó. Bên cạnh việc sản xuất ra những tư liệu nhằm thoả mãn nhu cầu ăn, mặc, ở của con người và sự xuất hiện nhu cầu mới, theo C.Mác còn có một quan hệ tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử là “hàng ngày tái tạo ra đời sống bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở-đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [56, tr. 28]. Việc sinh con cái cũng chính là nhu cầu sống còn của loài người, nhu cầu duy trì nòi giống, duy trì sự tồn tại của cả loài người. Như vậy, nhu cầu và hoạt động thoả mãn nhu cầu vừa là một quy luật cơ bản của lịch sử, vừa là động lực sâu xa của sự phát triển xã hội. Con người, nói rộng ra là xã hội, theo Hêghen là một thực thể nhu cầu. Nhu cầu là những đòi hỏi của con người, của từng cá nhân, của các nhóm xã hội khác nhau hay của toàn bộ xã hội muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển. Nhu cầu là thuộc tính vốn có, là cơ cấu và chức năng tồn tại của con người, xã hội và với nghĩa này ta nói con người đang hoạt động, đang phát triển, và là động lực của sự phát triển. Có nhiều cấp độ động lực, động lực trực tiếp và động lực gián tiếp, động lực chủ yếu và động lực thứ yếu... Rõ ràng là nếu không nhìn 14 động lực của sự vận động và phát triển xã hội dưới góc độ nhu cầu, lợi ích thì không thể hiểu được đời sống xã hội, những nhân tố thúc đẩy, duy trì hoạt động của con người, những nhân tố ảnh hưởng tới nhân cách con người và tiến trình, gia tốc của sự biến đổi xã hội, nhất là nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Đã có một thời chúng ta đã không, hoặc phân tích không đầy đủ động lực phát triển nên đã có cái nhìn phiến diện, khô cứng về sự phát triển. Nhu cầu và thoả mãn nhu cầu bằng hệ thống các phương thức thoả mãn nhu cầu là một mâu thuẫn biện chứng, tức là vừa có sự khác nhau, đối lập nhau, vừa có sự liên hệ ràng buộc, thống nhất với nhau, chính sự tác động qua lại giữa chúng mới là động lực của mọi sự vận động và phát triển. Ở đây không có thống nhất thuần tuý và đối lập thuần tuý mà là cái này bao hàm cái kia. Vừa thống nhất, vừa đối lập, vừa tác động qua lại, cấu thành đủ ba mặt đó mới là động lực, mà theo Lênin, sự thống nhất các mặt đối lập là bản chất của mâu thuẫn biện chứng. Vì vậy, không có động lực phi mâu thuẫn. Khi nói đoàn kết là động lực thì đó là phương thức thực hiện động lực, vì đằng sau sự đoàn kết là sự nhất trí, đồng thuận về lợi ích của cá nhân với xã hội, giữa những dân tộc và các giai tầng, và đoàn kết là một hành động thúc đẩy sự phát triển. Đoàn kết như vậy bao hàm cả thống nhất và đấu tranh giữa các nhân tố được tiếp cận theo cách thống nhất các mặt đối lập. Tuyệt đối hoá sự thống nhất, tuyệt đối hoá mặt đối lập hoặc tuyệt đối hoá đấu tranh đều không đúng. Trong quan hệ của hai tính chất đó thì đấu tranh, tác động qua lại là thường xuyên, mạnh mẽ, tuyệt đối. Đấu tranh, cuối cùng, làm thay đổi các mặt đối lập, thiết lập mặt đối lập mới và sự vật mới ra đời. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin, đó là sự dung hợp, kết hợp các mặt đối lập tạo nên sự phát triển của lịch sử. Động lực, tạo động lực và phát huy động lực là vấn đề vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật nên luôn luôn phải xem xét rất biện chứng, hiểu nó bằng tư duy biện chứng của sự phát triển. Về mặt nhận thức cần khắc phục lối nhìn tuyệt đối hoá từng mặt và nếu không hiểu nó ở chiều sâu biện chứng triết học của vấn đề sẽ thiếu cách nhìn nhất quán trong các hình thức, các cấp độ, các loại hình động lực cũng như phương thức thực hiện động lực trong sự phát triển xã hội. 1.2. Đại đoàn kết và vai trò của động lực đại đoàn kết dân tộc đối với sự phát triển xã hội 15 Mỗi quốc gia dân tộc trong mỗi giai đoạn phát triển của mình đều tìm kiếm và phát huy những động lực để đưa đất nước mình không ngừng tiến lên. Các động lực phát triển của các nước không hoàn toàn giống nhau, vì mỗi quốc gia đều có những đặc trưng riêng về điều kiện lịch sử, văn hoá, địa lý..., đều phải vượt qua những trở ngại và phải giải quyết những mâu thuẫn riêng của mình. Có thời kỳ ở nước ta và nhiều nước khác đã lấy đấu tranh giai cấp để giải quyết vấn để “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản và coi đó là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Nhưng trên thực tế, nhiều cuộc đấu tranh gay go, ác liệt giữa các nhóm, các tầng lớp dân cư trong xã hội chẳng những không thúc đẩy sự phát triển xã hội mà còn kìm hãm sự phát triển xã hội vì xã hội đã mất đi những nguồn nhân lực và tài lực quý giá. Đối với Việt Nam chúng ta, qua quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định một quan điểm lớn: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nông với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế toàn xã hội”, “kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [23, tr. 44]. Quan điểm trên đây là kết quả tổng kết các giai đoạn phát triển của đất nước trong lịch sử cũng như đương đại, là sự cụ thể hoá tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và là sự tiếp thu kinh nghiệm của thời đại. Quan điểm trên đây đồng thời là một bước phát triển mới trong tư duy lý luận; nó phản ánh đúng quy luật khách quan của đất nước, khắc phục được sai lầm của quan điểm trước đây là cường điệu động lực đấu tranh giai cấp, đồng thời mở ra một triển vọng mới cho sự phát triển không ngừng của đất nước. Đến Đại hội lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm lớn này: “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [26, tr. 40]. Tuy nhiên, việc nhận thức đúng đắn quan điểm trên đây và vận dụng quan điểm đó trong cuộc sống lại là một quá trình không đơn giản. Đặc biệt trong tình hình phức tạp hiện nay của nước ta, không ít lực cản đã làm cho động lực “đại đoàn kết dân tộc” bị hạn chế 16 tác dụng to lớn. Điều đó đòi hỏi sự nghiên cứu căn bản về vai trò của động lực “đại đoàn kết dân tộc” cả về lý luận và thực tiễn. 1.2.1. Thực chất của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc 1.2.1.1. Quan điểm chung về đại đoàn kết Đoàn kết là một hiện tượng nhiều người liên kết thành một khối thống nhất cùng hoạt động vì mục đích chung. Khái niệm đoàn kết có khi còn được hiểu là: đồng tâm, hiệp lực, tề tâm nhất trí, liên hợp, kết hợp... Đoàn kết còn là sự tập hợp mọi lực lượng cá thể thành lực lượng tập thể của cả cộng đồng, nhưng đó không phải là một sự tập hợp tự phát, giản đơn, ô hợp. Khái niệm đoàn kết hàm chứa những nội hàm phong phú. Đoàn kết theo Đại từ điển Tiếng Việt đó là kết thành một khối, thống nhất ý chí, không mâu thuẫn, không đối nhau. Đoàn kết hiểu theo nghĩa chung nhất là sự đồng tâm, hợp lực của một cộng đồng người cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, gian khổ nhằm đạt tới mục đích chung nhất. Theo lý thuyết hệ thống, đoàn kết là sự tập hợp các nhân tố riêng lẻ thành một hệ thống có trật tự theo một quy trình nhất định, tạo nên một tổng hợp sức mạnh. Tập hợp đó không phải là một con số cộng giản đơn các cá nhân, mà là sự tập hợp có ý thức của các cá nhân với nhau để bù đắp lẫn nhau những thiếu hụt và hạn chế của từng cá nhân. Thành ngữ “một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” thể hiện ý nghĩa sức mạnh của đoàn kết. Từ góc độ xã hội, đoàn kết là sự đồng thuận của các thành viên trong xã hội, mọi người chấp nhận nhau và thuận lòng gắn bó với nhau để cùng hành động cho một mục tiêu chung. Cho dù còn có sự khác biệt nhất định, nhưng mọi thành viên sẵn sàng đồng tình hành động vì một mục tiêu chung; trong mục tiêu chung đó, mọi người đều tìm thấy lợi ích của mình, tìm thấy chỗ đứng của mình trong dòng chảy của lịch sử và được xã hội thừa nhận, tôn trọng. Từ góc độ kinh tế, đoàn kết là một quá trình giải quyết những mâu thuẫn về lợi ích, những xung đột về quyền lợi để đi đến sự hài hoà mà mọi người có thể chấp nhận được, có thể thoả mãn được quyền lợi của mình. 17 Từ góc độ tâm lý, đoàn kết là sự bao dung, là lòng nhân ái bởi tình thương và lẽ phải, bởi truyền thống dân tộc “Nhiễu điều phủ lấy giá gương; Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Từ góc độ văn hoá, đoàn kết là một giá trị văn hoá đạo đức của con người. Trong đoàn kết, con người thể hiện ý thức cộng đồng, lòng vị tha và tinh thần trách nhiệm gắn bó giữa các cá thể và tập thể; thể hiện ý thức mình vì mọi người và mọi người vì mình. Đoàn kết là một hành vi ứng xử thể hiện một giá trị cao cả và tốt đẹp xứng đáng với bản tính con người, thoát khỏi tính bầy đàn, mà nếu không biết gìn giữ sự đoàn kết thì sẽ làm mất đi phần văn hoá người. Từ góc độ tổ chức, đoàn kết trong một tổ chức là cấp độ cao của sự tập hợp. Trong tổ chức, tính cố kết, tính ràng buộc, tính chế định lẫn nhau được nâng lên đến mức nếu tách khỏi tổ chức thì mỗi cá thể sẽ không phát huy được vai trò của mình trong xã hội. Đoàn kết là thành quả của con người trong lao động và đấu tranh. Đoàn kết do con người và vì con người; đoàn kết thúc đẩy xã hội không ngừng tiến lên phía trước và mang lại hạnh phúc cho con người bằng tất cả tiềm năng và sức mạnh của nó. Sự đoàn kết giữa con người với con người là nhu cầu tự thân, liên quan đến sự sống còn của con người; bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử và môi trường sống cụ thể. Việt Nam là một quốc gia có hàng ngàn năm văn hiến. Dân tộc Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, có ý chí độc lập tự chủ, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thuỷ chung, sống với nhau bằng tình đoàn kết hoà hiếu, bằng nghĩa tình đồng bào sâu nặng. Truyền thống đó đã được hun đúc, kết tinh từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là lẽ sống, là sức mạnh để nhân dân ta chiến đấu, xây dựng non sông, bảo tồn và phát triển đất nước. Trước khi hình thành một quốc gia với một biên giới rộng lớn, riêng biệt, Việt Nam đã là một dân tộc gồm nhiều cộng đồng người cùng sinh sống trên một địa bàn, cùng chung một số phận trước nạn xâm lăng và trước thiên tai. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, tính dân tộc của các cộng đồng dân cư ngày càng nổi lên rõ rệt. Mặc dù dân tộc Việt Nam bị nước ngoài (cả phương Đông và phương Tây) đô hộ nhiều thế kỷ, nhưng bản sắc dân tộc Việt Nam không bị đồng hoá. Có được điều đó là nhờ dân tộc ta có truyền thống đoàn kết, một truyền thống mà nếu như không có nó, một dân tộc nhỏ bé như nước Việt Nam làm sao có đủ sức mạnh để chống lại sự xâm lăng của giặc ngoại xâm. Một truyền thống đã thấm sâu vào từng thớ 18 thịt của từng cá nhân trong xã hội. Đoàn kết để tồn tại, đoàn kết để chống giặc ngoại xâm, đoàn kết để phát triển. 1.2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết Trong suốt cả cuộc đời hoạt động của mình, để đạt đến mục tiêu, lý tưởng cách mạng, cùng với việc khẳng định trước tiên phải có “Đảng cách mạng” để lãnh đạo, dắt dẫn con thuyền cách mạng, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân nhằm tập hợp, huy động mọi lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để giành thắng lợi. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh trước hết thể hiện tư tưởng nhân văn của Người; là sự kế thừa truyền thống yêu nước, tinh thần cộng đồng của dân tộc Việt Nam, của nền văn hoá Việt Nam, của tư tưởng đoàn kết quốc tế của chủ nghĩa Mác-Lênin; được xây dựng, bổ sung và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết không chỉ là tư tưởng lớn, nổi bật của Hồ Chí Minh, mà đã trở thành một đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trước hết thể hiện ở chỗ Người thấy rõ sức mạnh to lớn có ý nghĩa quyết định của sự đoàn kết đối với thắng lợi của cuộc cách mạng. Khi nghiên cứu lịch sử dân tộc, đầu năm 1942, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [44, tr.217]. Từ lịch sử nước nhà, từ thực tiễn cách mạng, Người nêu cao chân lý: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công”. Theo Người, đại đoàn kết có sức mạnh to lớn, đoàn kết đồng nghĩa với chiến thắng, ngược lại, mất đoàn kết là thất bại. “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Vì vậy, muốn giành được thắng lợi cách mạng thì phải đoàn kết dân tộc. Trên báo Thanh niên số 1, ngày 21 tháng 6 năm 1925, Người viết: “Để dẫn dắt nhân dân làm một sự nghiệp vĩ đại cần phải có một sức lãnh đạo, sức lãnh đạo đó không phải của một vài người thôi, mà sinh ra từ sự hiệp lực của hàng ngàn, hàng vạn người”. Vậy đại đoàn kết là gì? Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận LiênViệt toàn quốc ngày 10 -1-1955, Bác viết “Đại đoàn kết: Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng 19 lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”[46, tr. 438]. Định nghĩa trên cũng chỉ rõ nguyên tắc đầu tiên của đại đoàn kết đó là coi việc đoàn kết đại đa số công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác là nền gốc, cơ sở của đoàn kết. Để bổ sung cho định nghĩa đó, Hồ Chí Minh cũng đưa ra một số nguyên tắc cơ bản khác: - Đoàn kết rộng rãi và lâu dài: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị” [46, tr. 438]. Nguyên tắc rộng rãi thể hiện ở chỗ: “Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”[46, tr. 438]. “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [46, tr. 438]. Nguyên tắc lâu dài thể hiện cả ở cơ sở và mục tiêu của đại đoàn kết chính là lợi ích dân tộc: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”. Thứ hai, muốn đại đoàn kết dân tộc phải có Đảng lãnh đạo và phải tập hợp quần chúng trong tổ chức Mặt trận thống nhất rộng rãi. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Hồ Chí Minh soạn thảo đã chỉ rõ: “1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. 2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. 3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia. 4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông...để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp” [44, tr. 3]. Để đảm bảo vai trò lãnh đạo của mình, trước hết phải giữ được sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng về đường lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện. Người nói: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”, “Đảng ta là một Đảng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan