Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Đặc điểm tiểu thuyết Những ngã tư và Những ngọn đèn của Trần Dần DOC...

Tài liệu Đặc điểm tiểu thuyết Những ngã tư và Những ngọn đèn của Trần Dần DOC

.PDF
93
127
65

Mô tả:

Đặc điểm tiểu thuyết Những ngã tư và Những ngọn đèn của Trần Dần DOC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN THỊ HUỆ ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT NHỮNG NGÃ TƯ VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN CỦA TRẦN DẦN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THANH NGA NGHỆ AN – 2014 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………. 3 1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………….......... 3 2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………………... 3 3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………........... 6 4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu…………………………………………........... 6 5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………...……... 6 6. Cấu trúc của luận văn……………………………………………………...……… 6 NỘI DUNG Chương 1. NHỮNG NGÃ TƯ VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN, MỘT HIỆN TƯỢNG ĐẶC BIỆT TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN DẦN…………………………….. 7 1.1. Vấn đề tiểu thuyết và tiểu thuyết Việt Nam từ 1945 đến nay……………........... 7 1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết…………………………………………………..……... 7 1.1.2. Tiểu thuyết Việt Nam 1945 – 1975……………………………………........... 10 1.1.3. Tiểu thuyết Việt Nam từ 1975 đến nay……..…………………………........... 13 1.2. Trần Dần - một trong những hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam hiện đại…………………………………………………………………………..……….. 17 1.2.1. Thời đại mà Trần Dần đã đi qua…………………...……………...………….. 17 1.2.2. Hành trình số phận của Trần Dần……………………...…………...…… …... 21 1.2.3. Nhìn chung về sự nghiệp văn học của Trần Dần…………...…...……………. 23 1.3. Những ngã tư và những cột đèn, một số phận gập ghềnh………...…..…... …... 26 1.3.1. Hành trình sáng tác và xuất bản Những ngã tư và những cột đèn.....………… 26 1.3.2. Những ngã tư và những cột đèn - một số phận lạ lùng…...………...………… 28 1.3.3. Nhìn chung về thế giới nghệ thuật của Những ngã tư và những cột đèn…………………………………………………………………………..………. 29 Chương 2. NHỮNG NGÃ TƯ VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG…………………………………………………………………………. 33 2.1. Một kiểu nhận thức về hiện thực chiến tranh…………………… …..………… 33 2.1.1. Chiến tranh và một thế giới hoang tàn, hoang hoải………………..…............. 33 3 2.1.2. Chiến tranh như là biểu tượng của sự tha hóa lớn lao của nhân loại…............. 35 2.1.3. Chiến tranh, thế giới của lòng hoài nghi và thù hận……………...…..………. 48 2.2. Chiến tranh như là một phương tiện thử thách các giá trị………….....………... 41 2.2.1. Chiến tranh và tình yêu…………………………………………….…………. 41 2.2.2. Chiến tranh và vấn đề nhân tính……………………...…………..…………... 43 2.2.3. Chiến tranh và tình bạn……………………………………...……..…………. 44 2.3. Một kiểu nhận thức về con người trong chiến tranh………………..…………... 47 2.3.1. Kiểu con người bị chấn thương……………………………………...……….. 47 2.3.2. Kiểu con người tha hóa……………………………………...…..……………. 50 2.3.3. Kiểu con người lưu đày, bất định…………………………………..………… 53 Chương 3. NHỮNG NGÃ TƯ VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT…………………………………………………………………….. 57 3.1. Vấn đề kết câu – cốt truyện…………………………………………..………… 57 3.1.1. Hình thức nhật kí…………………………...……………………...…………. 57 3.1.2. Cốt truyện trinh thám………………………………………………...……….. 59 3.1.3. Cốt truyện tâm lí……………………………...……………...……………….. 62 3.2. Thế giới biểu tượng trong Những ngã tư và những cột đèn...………..………….. 65 3.2.1. “Nhật kí” – biểu tượng của cuộc truy tìm hiện tại đã mất………....…………. 65 3.2.2. Ngã tư và cột đèn – biểu tượng của những ngã rẽ bất định, không màu …………………………………………………………………………..…….......….69 2.3.3. Tính biểu tượng trong những sắc màu…………………...…………..……….. 71 3.3. Ngôn ngữ tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn………..….....…………. 74 3.3.1. Ngôn ngữ được lạ hóa nhìn từ góc độ cú pháp………………….....…………. 74 3.3.2. Ngôn ngữ giàu nhạc tính, chất thơ bởi các cấu trúc trùng điệp...…..…............ 78 3.3.3. Sự bất tuân các quy chuẩn chính tả tiếng Việt………………...…..…………. 82 KẾT LUẬN……………………………………………………………..………….. 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO……................................................................................. 98 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trần Dần là một tác giả có số lượng tác phẩm lớn. Người ta biết đến ông không phải bởi những lình xình quanh vụ án văn chương ông vướng phải mà trước hết vì những cống hiến của ông cho văn học. Những tác phẩm của ông mang đến cho người đọc sự cách tân mới mẻ. Ông thuộc số người đã ươm cái mầm đầu tiên về cách tân trong sáng tác, làm mới mình và làm mới văn chương. Cho đến bây giờ dù nửa thế kỷ đã trôi qua, các tác phẩm của ông vẫn mang một tư duy rất hiện đại. 1.2. Hầu hết các tác phẩm của Trần Dần đều có những điểm khác lạ mang dấu ấn sâu sắc của nhà văn. Nhưng gây được chú ý hơn cả là tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn. Sự cách tân trong tiểu thuyết không chỉ nằm ở một yếu tố mà là nhiều yếu tố khác nhau tạo nên một chỉnh thể vô cùng độc đáo. Lạ lẫm và cuốn hút là những gì mà tiểu thuyết đưa đến cho người đọc, từ ngôn ngữ đến nhân vật, từ cách kể đến cách viết đều rất mới mẻ. Nghiên cứu đặc điểm tiểu thuyết là làm nổi bật lên những sự mới mẻ ấy và quan trọng hơn là chúng ta thấy được cống hiến của Trần Dần đối với tiểu thuyết Việt Nam. 1.3. Thông thường tác phẩm của Trần Dần khó cảm nhận bởi vậy ý kiến của mọi người là khác nhau, không phải ai cũng có thể cảm nhận được tức thì. Vì vậy việc giải mã những cách tân trong tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn giúp mọi người hiểu khái quát nhất về tác phẩm, đề tài “ Đặc điểm tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn” với mong muốn góp phần giải quyết vấn đề này trên nhiều phương diện. 2. Lịch sử vấn đề Sáng tác của Trần Dần thời kì sau vụ Nhân văn giai phẩm chủ yếu được nhìn nhận như một hiện tượng tiêu cực. Đến thời kì đổi mới, tác phẩm của ông mới bắt đầu nhận được sự quan tâm của giới phê bình. Tuy nhiên, từ năm 1989 đến 1995, những bài viết về Trần Dần còn ít ỏi, do các nhà nghiên cứu ngại động chạm đến vấn đề "nhạy cảm chính trị". Từ năm 1995 trở đi các tác phẩm của ông dần được xuất bản, đến năm 2007 Trần Dần được nhận giải thưởng nhà nước cùng với Phùng Quán, Lê 5 Đạt, Hoàng Cầm. Năm 2011, tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn được Hội nhà văn Hà Nội vinh danh trong số hàng trăm tác phẩm xuất bản cùng năm. Những ngã tư và những cột đèn là tác phẩm mà ông ưng ý nhất và nó được hoàn thành vào giao thừa năm 1989 – 1990. Độc giả đầu tiên của cuốn tiểu thuyết là Dương Tường, bạn thân của ông: “Tôi đọc từng chương, anh Dần viết đến đâu tôi đọc đến đó. Anh bảo: tôi viết cái này là đơn đặt hàng của ngành Công an. Dù viết theo đặt hàng, mình vẫn là mình. Viết cái thư nhỏ cho bạn cũng phải viết hết văn tài. Bản sửa lại năm 1989, anh Dần cắt mất mấy đoạn độc thoại, mấy trang không chấm phấy. Đó là tuyệt bút. Tôi tiếc không chép lại” [35]. Ngay khi tác phẩm được xuất bản đã có rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình quan tâm, Nguyễn Thành Thi trong tiếng nói của “Cái tôi bị chấn thương” và tính khả dụng của yếu tố nhật kí, trinh thám trong tiểu thuyết (Nhân đọc Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần) dành sự quan tâm đến phương diện thẩm mỹ của thể loại và xu hướng tổng hợp thể loại trong tác phẩm. Ông khẳng định “Những ngã tư và những cột đèn là bằng chứng sinh động cho tinh thần, ý thức sáng tạo mạnh mẽ của Trần Dần” [53]. Trong cùng một cuốn tiểu thuyết nhưng nó lại đan xen nhiều thể loại khác nhau, tâm lý có, trinh thám có, và nhật kí cũng có. Tác phẩm đã đưa đến trước mắt mọi người về số phận ngụy binh Dưỡng trong thời kì chuyển đổi chế độ. Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Với Trần Dần, bài toán đặt ra là viết về hoàn cảnh của những ngụy quân Pháp ở Hà Nội khi chiến tranh kết thúc, phần thắng thuộc về cách mạng, với định hướng viết đã rõ ràng lại phải quy phục chế độ mới. Đề bài này không khó đối với ngòi bút Trần Dần. Nếu an phận, nộp quyển và quên đi nhanh chóng cái viết ra đó. Nhưng ông đã không làm thế. Trần Dần, nhà văn luôn táo bạo quyết liệt trong từng câu chữ, hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng, trong từng cái viết. Viết, với ông, bao giờ cũng là phải mới, phải khác, phải cách tân. Vì vậy, kết quả chuyến thực tế ấy, dưới tay ông đã trở thành tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn. Trần Dần đã giải bài toán văn chương một cách xuất sắc”. Cũng theo Phạm Xuân Nguyên, “Những ngã tư và những cột đèn là cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỉ mới 6 được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung” [45]. Lại Nguyên Ân cũng bất ngờ không kém: “Tôi hoàn toàn bất ngờ vì cuốn tiểu thuyết này. Vẫn biết sự nghiệp Trần Dần lớn và rất đa dạng, nhưng không thể ngờ ông lại hiện đại đến thế. Tôi chỉ xét đơn thuần về mặt tác phẩm, đây có thể coi là một cuốn tiểu thuyết trinh thám viết rất chuyên nghiệp, rất hấp dẫn với bạn đọc bình thường. Các tuyến nhân vật được cài cắm lớp lang và tâm lý nhân vật đặc biệt là tâm lý tội phạm, được nghiên cứu và trình bày rất khéo, đúng với kiểu tâm lý học hiện đại mà các tiểu thuyết trinh thám phương Tây vẫn hay dùng. Có thể đọc một mạch từ đầu đến cuối cuốn tiểu thuyết này vì sự hấp dẫn đó của nó. Ngay từ thời điểm ông đặt bút viết vào năm 1964, ông đã dùng kĩ thuật tự sự đa chủ thể (nhiều nhân vật cùng kể chuyện) – một kĩ thuật rất tiên tiến của văn chương thế giới cùng thời, mà chúng tôi – lúc đó đang ngồi trên ghế giảng đường đại học – chưa hề được nghe các giáo sư nhắc tới, mãi đến năm 1980 mới được biết đến qua các bản dịch tiếng Nga. Người đọc nắm bắt câu chuyện rất thoải mái dù nó không đơn giản đó là vì nhà văn luôn chuyển vai kể vào một thời điểm chính xác và bằng ngôn ngữ nhân vật rất đặc trưng cho từng cá tính. Có những khi nhà văn sử dụng ngôn ngữ điêu luyện đến độ tôi chỉ có thể thán phục một cách sung sướng vì được thưởng thức kĩ thuật của một bậc thầy: đó là đoạn Dưỡng đến nhà mẹ xin đón vợ về sau khi bị cô giận dỗi bỏ đi. Bà mẹ cứ chửi sa sả, vừa nghiệt ngã vừa chứa chan yêu thương, còn thằng con trời đánh cứ tưng tửng chửi phụ với mẹ, mà nó tự chửi nó giống như ai đó đang nói về một thằng khác nữa, chứ không phải vẫn thằng con trai ấy đang nói về chính nó. Ngôn ngữ ở đây ra hết chất của “cao bồi thành thị” mà nhà văn Việt Nam ta ít có người am hiểu và viết kĩ thuật như Trần Dần” [20]. Trên thực tế đã có một số nhà nghiên cứu tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn, đa số đánh giá và nghiên cứu trong việc làm mới thể loại tiểu thuyết, đặc biệt trên phương diện nghệ thuật. Tuy nhiên việc nghiên cứu, đánh giá về nội dung tư tưởng chưa thực sự cụ thể và toàn diện. Xuất phát từ tình hình đó chúng tôi đi đến đề tài này nhằm khái quát một cách đầy đủ những đặc điểm của tiểu thuyết đồng thời bổ 7 sung thêm những yếu tố mới để góp phần làm sáng rõ những sáng tạo, cách tân trong tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần. 3. Đối tượng nghiên cứu Đặc điểm tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần. 4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 4.1. Nghiên cứu một cách tổng quan tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn trong sự nghiệp sáng tác của Trần Dần và trong bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam hiện đại 4.2. Chỉ ra những đặc điểm của trọng làm nên giá trị tiểu thuyết trên bình diện nội dung 4.3. Chỉ ra những điểm đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện của cuốn tiểu thuyết. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp thống kê - Phương pháp so sánh 6. Cấu trúc của luận văn Tương ứng với mục đích, nhiệm vụ đã đề ra, luận văn của chúng tôi được chia làm ba chương: Chương 1. Những ngã tư và những cột đèn, một hiện tượng đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác của Trần Dần Chương 2. Những ngã tư và những cột đèn nhìn từ phương diện nội dung Chương 3. Những ngã tư và những cột đèn nhìn từ phương diện nghệ thuật. 8 Chương 1 NHỮNG NGÃ TƯ VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN, MỘT HIỆN TƯỢNG ĐẶC BIỆT TRONG SÁNG TÁC CỦA TRẦN DẦN 1.1. Vấn đề tiểu thuyết và tiểu thuyết Việt Nam 1945 đến nay 1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết Tiểu thuyết là thể loại mà cho đến nay những vấn đề xung quanh nó còn có nhiều tranh cãi, khái niệm tiểu thuyết chưa hoàn toàn thống nhất, với những hướng khác nhau các nhà nghiên cứu đưa ra quan điểm của mình về tiểu thuyết cùng những đặc điểm của nó. Theo M.Bakhtin: “Tiểu thuyết là thể loại sinh sau đẻ muộn, do đó nó gắn liền với những thể loại có từ trước đó” và ông cho rằng dịch thuật tự do là cơ sở tạo nên nó. “Tiểu thuyết là thể loại đang chuyển biến và chưa định hình. Những lực cấu thành thể loại còn đang hoạt động trước mắt chúng ta, thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh sáng thanh thiên bạch nhật của lịch sử. Nòng cốt của thể loại tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán hết khả năng uyển chuyển của nó” [4, 18], và “tiểu thuyết là thể loại ở thời hiện tại, một thể loại. đang vận động và phát triển. Nó tiểu thuyết với tư cách như một thể loại đang vận động và phát triển. Nó tiểu thuyết với tư cách như một thể loại chủ đạo của văn học hiện đại, nó giễu nhại và thu hút các thể loại khác vào nó. Điều đó làm cho ngôn ngữ tiểu thuyết có tính đa thanh, các lớp ngôn ngữ soi sáng và bổ sung cho nhau (ngôn ngữ dân tộc, thổ ngữ, phương ngữ…) thiết lập nên một quan hệ mới giữa ngôn ngữ và thế giới hiện thực” [4, 24]. Nhà nghiên cứu Bêlinxki cho tiểu thuyết là “sự tái hiện thực tại với sự thực trần trụi của nó”, là “xây dựng một bức tranh sinh động toàn vẹn và thống nhất”. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu thể loại tiểu thuyết xuất hiện khá sớm với công trình “Bàn về tiểu thuyết” của Phạm Quỳnh trên Tạp chí Nam Phong năm 1921, Phạm Quỳnh cho rằng: “tiểu thuyết là một loại truyện viết bằng văn xuôi, đặt ra để tả tình tự 9 người khác, phong tục xã hội hay những sự tích lạ đủ làm người đọc có hứng thú” [42, 42]. Trong 150 Thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân biên soạn, tiểu thuyết là “tác phẩm tự sự trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó, sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt “cơ cấu” của nhân cách” [3, 313]. Theo Từ điển thuật ngữ văn học do nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì tiểu thuyết là “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [21, 328]. Các nhà nghiên cứu đi sâu vào mỗi khía cạnh khác nhau của tiểu thuyết đưa ra đặc điểm thể loại này, thấy được sự khác biệt giữa nó với các thể loại khác. Tiểu thuyết có khả năng phản ánh toàn vẹn và sinh động đời sống theo hướng tiếp xúc gần gũi nhất với hiện thực, là một thể loại có dung lượng lớn tiêu biểu cho phương thức tự sự. Tiểu thuyết có khả năng bao quát lớn về chiều rộng của không gian cũng như ciều sâu của thời gian, cho phép nhà văn mở rộng tối đa tầm vóc hiện thực trong tác phẩm của mình. Tiểu thuyết nhìn nhận cuộc sống dưới góc độ đời tư. Cuộc sống hiện tại đang biến đổi không ngừng cùng sự phát triển của khoa học, kĩ thuật, tiểu thuyết phản ánh xã hội với mọi màu sắc, mọi vấn đề, khắc họa số phận của những con người cụ thể, qua đó khái quát trạng thái tồn tại của xã hội. Trong tiểu thuyết có thể bắt gặp những cuộc đời thật với nhiều đường nét xù xì góc cạnh với bi kịch cá nhân, đi sâu khai thác tâm hồn của con người. Đó là Anđrây, Natasa trong Chiến tranh và hoà bình của L.Tônxtôi, là Grigori, Natalia trong Sông Đông êm đềm của Sôlôkhốp… Đặc điểm nổi bật nhất của tiểu thuyết là chất văn xuôi. Với chất văn xuôi này đòi hỏi tiểu thuyết tái hiện hiện thực như nó vốn có, tái hiện một đời sống nguyên dạng, đa dạng với đầy đủ các sắc thái thẩm mĩ không lãng mạn hoá, thi vị hoá. Mô tả cuộc sống biến động và phức tạp, cái bi lẫn cái hài, cái cao cả lẫn cái thấp hèn, cái 10 thiện với các ác, từ cái hoàn hảo đến cái xù xì trong xã hội, con người. Chất văn xuôi được thể hiện rõ nét trong các tác phẩm của các tác giả thuộc trường phái hiện thực như Tấn trò đời của Banzắc, Tội ác và trừng phạt của Đôxtôiepxki… Ở Việt Nam tiêu biểu là Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố… và các tác giả tiểu thuyết sau này. Nhân vật nếm trải trong tiểu thuyết là đặc điểm khác biệt để nhận diện nhân vật tiểu thuyết, sử thi hay truyện trung cổ… Qua nhân vật thể hiện tư tưởng cách nhìn của nhà văn, do vậy tiểu thuyết đi sâu vào khai thác từng mảnh đời, từng góc khuất trong tâm hồn con người với những suy tư, dằn vặt, trăn trở, đấu tranh, tự ý thức để vươn lên trong cuộc sống. Nếu trong sử thi và các thể loại khác, nhân vật gắn liền với hành động và thông qua hành động bộc lộ tính cách và nói lên tư tưởng của mình. Nhân vật trong tiểu thuyết hành động trong sự chi phối của hoàn cảnh để từ đó dẫn đến trải nghiệm trong cuộc đời cùng bao suy nghĩ, hạnh phúc và đau khổ, là “con người trong con người” (Bakhtin). Có thể tìm thấy những nhân vật này trong các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Tuân… Trong tiểu thuyết khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật được rút ngắn. Khác với sử thi, người trần thuật chỉ có một thái độ ca ngợi, ngưỡng mộ quá khứ điều này tạo khoảng cách với nhân vật, là khoảng cách sử thi. Đối với tiểu thuyết, người trần thuật có thể tiếp xúc, nhìn nhận nhân vật một cách gần gũi. Qua đó nhà văn thâm nhập vào trong đời sống của con người để có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn, nội tâm của nhân vật được khai thác trên nhiều khía cạnh khác nhau thể hiện qua ngôn ngữ trần thuật. Sự gần gũi giữa người trần thuật với nhân vật “chính điều này đã tạo ra một khu vực hoàn toàn mới của việc xây dựng hình tượng tiểu thuyết – khu vực tiếp xúc gần gũi tối đa giữa đối tượng miêu tả với thực tại dang dở hôm nay và vì thế mà cả tương lai” [4, 69]. Với dung lượng lớn, phản ánh toàn vẹn và sinh động đời sống, tiểu thuyết có khả năng tổng hợp nhiều nhất loại hình nghệ thuật khác. Nó có thể dung nạp thông qua ngôn từ nghệ thuật, phong cách nghệ thuật của các thể loại văn học khác như thơ, kịch… các thủ pháp nghệ thuật của những loại hình nghệ thuật ngoại biên như hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc và thậm chí cả những bộ môn khoa học như tâm lý học, đạo 11 đức học, khoa học viễn tưởng… “Tiểu thuyết cho phép đưa vào, lắp ghép vào trong nó nhiều thể loại khác nhau, cả những thể loại nghệ thuật (những truyện ngắn, những bài thơ trữ tình, những màn kịch nói…) lẫn những thể loại phi nghệ thuật (các thể văn đời sống hàng ngày, văn hùng biện, khoa học, tôn giáo…) [4, 146]. Tiểu thuyết được chia ra làm nhiều loại khác nhau, có tiểu thuyết trinh thám, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết sử thi, tiểu thuyết kinh dị, tiểu thuyết khoa học viễn tưởng… Mỗi loại tiểu thuyết này có đề tài phản ánh, ngôn từ, giọng điệu khác nhau. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 phát triển trong bối cảnh xã hội hết sức đặc biệt, lấy nhiệm vụ chính trị làm cơ sở để sáng tác, và chiến tranh là đề tài chủ yếu, tiểu thuyết giai đoạn được sáng tác theo một dạng duy nhất là tiểu thuyết sử thi. Tuy nó không đa dạng và không có sự cách tân về thi pháp nhưng Tiểu thuyết Việt Nam 1945 – 1975 vẫn nằm trong quy luật vận động chung của tiểu thuyết thế giới. Đặt trong bối cảnh tiểu thuyết lúc bấy giờ, Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần là một hiện tượng độc đáo bởi nó không nằm trong dòng tiểu thuyết sử thi ấy mà lại mang đầy đủ đặc điểm thi pháp của tiểu thuyết trên thế giới. Đó là sự lồng ghép của kết cấu truyện trinh thám và tâm lý, khai thác tâm lý con người trên nhiều phương diện bằng hình thức độc thoại nội tâm, nhìn cuộc sống đời tư, có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn. Về vấn đề thể loại tiểu thuyết khó có thể đưa ra một khái niệm nhất quán, từ ý kiến, nhận định của các nhà nghiên cứu cùng với những đặc điểm của tiểu thuyết ta có thể đi đến kết luận: tiểu thuyết là loại tự sự cỡ lớn, có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, bao quát nhiều tính cách, số phận và tổng hợp các thể loại nghệ thuật và phi nghệ thuật khác vào trong nó. 1.1.2. Tiểu thuyết Việt Nam 1945 – 1975 Văn học Việt Nam phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài vô cùng ác liệt, đó là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Hai cuộc chiến tranh này đã tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới đời sống văn chương và tinh thần của dân tộc. Các tác phẩm giai đoạn này được viết ra dưới sự chỉ đạo của Đảng, mang một âm hưởng 12 chung của cuộc cách mạng, là khí thế hào hùng và lòng tự hào dân tộc, tiểu thuyết không nằm ngoài xu thế chung ấy. Trên thế giới tiểu thuyết là thể loại ra đời sớm, nhưng đối với Văn học Việt Nam thì tiểu thuyết lại là thể loại sinh sau đẻ muộn so với các thể loại khác. Đầu thế kỷ XX xuất hiện các tiểu thuyết như: Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh, Tố tâm của Hoàng Ngọc Phách, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng của Nhất Linh, Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân của Khái Hưng… Sau đó có các tiểu thuyết hiện thực phê phán của các nhà văn Vũ Trọng Phụng với Số đỏ, Nam Cao với Sống mòn… Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 phát triển trên cơ sở truyền thống và tiếp thu từ những thành tựu trước đó, tuy nhiên do hoàn cảnh lịch sử của nước nhà, tiểu thuyết đã tự rẽ sang hướng khác để đáp ứng nhu cầu về đời sống tinh thần dân tộc trong chiến tranh. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ sự giao lưu quốc tế bị thu hẹp, chủ yếu là ảnh hưởng từ Liên Xô, Trung Quốc. Sự tiếp thu và ảnh hưởng của văn học trước đó, cùng với hoàn cảnh đất nước phải chống hai kẻ thù xâm lược lớn, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, từ những nguyên nhân và hoàn cảnh đó tiểu thuyết 1945 -1975 đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, người ta quan tâm nhiều đến con người cộng đồng hơn con người đời tư, tư duy sử thi đã trở thành tư duy nghệ thuật chủ đạo trong sáng tác. Tư duy sử thi chi phối đặc điểm của tiểu thuyết giai đoạn này trên các phương diện: đề tài, nhân vật, giọng điệu, kết cấu… Cảm hứng lãng mạn kết hợp với khuynh hướng sử thi tạo nên một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng. Văn học giai đoạn 1945 – 1975 là văn học của những sự kiện lịch sử, của số phận toàn dân. Do vậy mục đích của văn học giai đoạn này nói chung, của tiểu thuyết nói riêng là phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu. Văn học phục vụ chính trị nên quá trình vận động và phát triển hoàn toàn ăn nhịp với từng bước đi của cách mạng, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước, ca ngợi khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Với tinh thần đấu tranh cùng cảm hứng yêu nước, các nhà văn hăng say viết về cuộc chiến đầy gian khổ mà anh dũng của nhân dân ta. Nhân vật trung tâm của các sáng tác trong giai đoạn này là những con người đại diện cho giai 13 cấp dân tộc, thời đại và kết tinh phẩm chất cao quý của cộng đồng. Các nhà văn không đứng trên lập trường cá nhân, nhìn bằng con mắt riêng mà đứng trên lập trường chung của cả cộng đồng để xây dựng nhân vật anh hùng lý tưởng mang vóc dáng, sức mạnh, tinh thần đại diện cho dân tộc. Thời kỳ đầu kháng chiến nổi lên các tiểu thuyết: Tranh đấu của Dương Tử Giang, Trốn tù, Gió mặn của Bùi Tử Nam, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn Đình Thi… Những tác phẩm cho thấy tác giả có ý thức rất cao về nhiệm vụ chính trị, về tinh thần dân tộc, miêu tả khá sinh động sức mạnh của quần chúng tập thể, cao hơn là sức mạnh của toàn dân tộc đang một lòng đứng lên đấu tranh bảo vệ đất nước, góp phần tích cực trong việc phản ánh, cổ vũ động viên cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện gian khổ mà anh dũng của quân dân ta trong những năm đầu đánh Pháp. Trong thời kì kháng chiến chống Mỹ có: Trước giờ nổ súng của Lê Khâm, Vùng trời của Hữu Mai, Trên mảnh đất này, Mùa mưa của Hoàng Văn Bổn… tất cả các tác phẩm đều hướng về cuộc chiến mà nước ta phải trải qua, ca ngợi tinh thần anh dũng, kiên cường của nhân dân. Tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 luôn hướng về đại chúng, cũng vì lẽ đó mà đối tượng của tiểu thuyết là công nông binh, với những hành động, sự kiện thuộc về lịch sử, những tư tưởng cách mạng lớn. Đường lối văn nghệ phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu hướng về công nông binh là tất yếu bởi nó phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử, phù hợp với bản chất yêu nước của nghệ sĩ, phù hợp với trình độ ý thức và tâm lý của họ trong hoàn cảnh đặc biệt của hai cuộc kháng chiến nên đã tạo được nguồn cảm hứng nghệ thuật thực sự cho những người cầm bút. Ta có thể dễ dàng bắt gặp hình tượng công nông binh trong tiểu thuyết giai đoạn này, có thể trực tiếp ca ngợi quần chúng, hoặc xây dựng hình tượng đám đông (công nhân, nông dân, bộ đội, dân công…) đầy khí thế và sức mạnh to lớn: Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Một chuyện chép ở bệnh viện, Hòn đất của Anh Đức, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Đất lửa của Nguyễn Quang Sáng, Cửa sông, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Mẫn và tôi của Phan Tứ… 14 Đại chúng công nông binh không chỉ là đối tượng phản ánh mà còn là nguồn cung cấp lực lượng sáng tác. Chính vì vậy Đảng rất chú ý phát động phong trào Văn nghệ quần chúng để từ đấy phát hiện và bồi dưỡng những cây bút nổi lên từ các phong trào đó, đặc biệt là trong quân đội. Tiểu thuyết Việt Nam từ 1945 - 1975 phát triển mạnh mẽ (trong khuôn khổ nhiệm vụ của nó), có những thành công đáng kể, xây dựng khối lượng sáng tác đồ sộ cùng đội ngũ nhà văn đông đảo. Phát triển trong hoàn cảnh đặc biệt, tiểu thuyết Việt Nam đã đạt được bước tiến mới về nội dung và nghệ thuật, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trước lịch sử. Tuy nhiên tiểu thuyết giai đoạn này vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định, đường lối lãnh đạo văn nghệ của Đảng phần nào gò bó sự sáng tạo độc lập của nhà văn, cái nhìn một chiều của con người đã chi phối đến nhiều cấp độ của tư tưởng nghệ thuật. Tiểu thuyết giai đoạn này mới chỉ dừng lại miêu tả cái bên ngoài của sự kiện, của nhân vật, nhất là hình tượng nhân vật tập thể chưa đi sâu vào lý giải bản chất bên trong sự kiện hay phân tích tính cách nhân vật. Bên cạnh những tác phẩm mang đậm khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn cũng xuất hiện những tác phẩm đi trật ra khỏi đường ray của văn học chính thống, phá bung mọi quy phạm của tiểu thuyết sử thi như: Miền hoang tưởng của Đào Nguyễn… điển hình là tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần, một tác phẩm mang đầy đủ đặc điểm của tiểu thuyết thế giới, những tác phẩm như vậy trong giai đoạn này là không nhiều. Nhìn chung tiểu thuyết giai đoạn này nếu đặt vào hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ và so sánh với tiểu thuyết giai đoạn trước thì nó đã góp phần không nhỏ trong công cuộc đấu tranh chống giặc bảo vệ tổ quốc và kho tàng văn học nuớc nhà. 1.1.3. Tiểu thuyết Việt Nam 1975 đến nay Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đất nước ta thống nhất và bước sang trang sử mới, giai đoạn khôi phục đất nước sau chiến tranh. Thời gian này đất nước, xã hội và con người Việt Nam đã vượt qua nhiều thử thách, đối diện với nền kinh tế khủng hoảng, trang thiết bị kĩ thuật nghèo nàn, lạc hậu. Bên cạnh những khó khăn đó, đất nước tự do mở ra nhiều cơ hội cho việc giao lưu, hội nhập với thế giới về kinh tế, văn hoá… Đây là điều kiện để sáng tác nghệ thuật phát triển trong sự tiếp thu những ảnh 15 hưởng văn hoá nghệ thuật khác nhau của nhiều quốc gia, mở ra một không gian cho các nhà văn tiếp nhận luồng tư tưởng và thể loại văn học mới. Bước ra từ chiến tranh, con người trở về với cuộc sống yên bình nhưng mặt khác hậu quả của chiến tranh quá nặng nề, họ phải đối mặt với sự thay đổi của hiện thực xã hội, chính vì vậy quan niệm văn học và ý thức nghệ thuật sẽ thay đổi theo tình hình đổi mới ấy. Sau 1975, đời sống hiện thực khác trước, cách tiếp cận sáng tác cũng cần thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế, tư duy nghệ thuật đòi hỏi phải mới. Trong quá trình hội nhập, tiếp thu văn học nước ngoài, tư duy nghệ thuật đã dần chuyển sang tư duy tiểu thuyết, phù hợp với đối tượng phản ánh và đây là một quá trình phát triển tất yếu của văn học. Tư duy nghệ thuật ấy đã đưa lại những đổi mới quan niệm nghệ thuật về hiện thực con người. Nhà văn dần ý thức hơn vai trò của cá nhân sáng tạo, tài năng và bản lĩnh cá tính được coi trọng do đó đã khiến cho sự thống nhất trong một khuynh hướng văn học chuyển dần sang tính đa khuynh hướng. Văn học lúc này chịu sự tác động của xã hội từ nhiều phía, đặc biệt là sự tác động từ nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Nếu như trước đây trong các sáng tác chủ yếu là cách nhìn đơn điệu, một chiều thì bây giờ là cách nhìn nhiều chiều, đa diện và biến hoá hơn. Có thể thấy quá trình chuyển biến này qua các tác phẩm: Gió từ miền cát của Xuân Thiều, Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam, Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà của Nguyễn Minh Châu… Chiến thắng mùa xuân 1975 tạo sức vang lớn, để lại dấu ấn sâu sắc cho những người chứng kiến nó. Dù chiến tranh đi qua nhưng đề tài về chiến tranh vẫn là nguồn sáng tác cho nhà văn với cảm hứng chiêm nghiệm về quá khứ lịch sử. Cùng viết về một đề tài nhưng trong bối cảnh xã hội khác nhau nó chi phối đến tư tưởng thẩm mỹ, cách viết, cách phản ánh hiện thực cuộc chiến. Mục tiêu cơ bản về tư tưởng và thẩm mỹ của văn học thời kỳ này là khám phá toàn diện hơn, sâu hơn và đầy đủ hơn về ý nghĩa, bản chất quy mô và các mặt rất khác nhau của cuộc chiến tranh mà trước đó chưa có điều kiện đề cập đến một cách trọn vẹn. Những vấn đề của ngày hôm qua hưa kịp nói đến, đề cập đến thì hôm nay có điều kiện nhìn nhận, xem xét và đánh giá lại. Tiểu thuyết Những người đi từ trong rừng ra, Mảnh đất tình yêu của Nguyễn Minh 16 Châu, Đất trắng (tập2) của Nguyễn Trọng Oánh, Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, Cù lao chàm của Nguyễn Mạnh Tuấn… mang âm hưởng hào hùng và quy mô sử thi tương xứng với cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc, cuộc sống số phận con người gắn liền với số phận đất nước. Nhiều góc khuất của đời sống trước đây được soi rọi, đó không chỉ là chiến thắng mà còn có thương đau, mất mát. Nhân vật hiện lên đầy đủ hơn với nhiều chiều cạnh khác nhau không còn là con người lý tưởng cách mạng dưới cái nhìn một chiều của nhà văn. Bước ra khỏi chiến tranh sống trong hoà bình, đất nước có sự thay đổi về diện mạo, người ta nhận ra sự phức tạp của xã hội, cuộc sống bon chen, giá trị đạo đức thay đổi. Với thời đại nhiều biến đổi như vậy, con người cần đổi mới để phù hợp, bên cạnh ca ngợi là phê phán, phản ánh, miêu tả khách quan những mặt xấu, hạn chế của con người đời thường. Do vậy ngoài cảm hứng chiêm nghiệm lại quá khứ lịch sử, tiểu thuyết giai đoạn này xuất hiện cảm hứng phê phán xã hội, các nhà văn quan tâm đến đề tài đời tư thế sự. Con người đời thường và con người bình thường được chú ý thể hiện sâu sắc với số phận bất hạnh, những thân phận bi kịch. Các tác giả đi sâu vào khám phá con người, đặt con ngưòi trong tổng hoà các mối quan hệ xã hội chính vì vậy trong các tiểu thuyết xuất hiện con người phức tạp, nhiều chiều, con người đầy mâu thuẫn với thế giới nội tâm, con người già dặn hơn sau những trải nghiệm, vấp ngã của mình. Tính hai mặt của cuộc sống, của con người được khai thác rõ nét trong Thời xa vắng (Lê Lựu), Côi cút giữa cảnh đời, Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ăn mày dĩ vãng, Phố, Cuộc đời dài lắm (Chu Lai)… Tiểu thuyết giai đoạn 1975 đến nay mang nhiều đặc điểm khác với giai đoạn trước. Nếu như giai đoạn trước nhìn hiện thực bằng cái nhìn của cả cộng đồng thì bây giờ tiểu thuyết phản ánh hiện thực dưới góc độ đời tư. Các nhà văn đề cập đến nhiều vấn đề, góc cạnh xã hội, cuộc sống gia đình, đạo đức, sự ngẫu nhiên may rủi trong đời người… Chính vì vậy nhân vật ở mỗi tác phẩm mang trong mình giá trị riêng, nhân cách riêng và được đánh giá dưới con mắt hiện thực trần trụi. Tiểu thuyết đã nhìn 17 thẳng vào thế giới hiện thực, nhìn vào cái chưa hình thành và cái đang hình thành để bóc trần tất cả từ cuộc sống đến con người. Với xu hướng ấy một loạt các tác phẩm được ra đời: Bên kia bờ ảo vọng (Dương Thu Hương), Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Ông cố vấn – hồ sơ một điệp viên (Hữu Mai), Ngoài khơi miền đất hứa (Nguyễn Quang Thân), Trả giá, Sóng lừng, Cõi mê (Triệu Xuân), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Bến không chồng (Dương Hướng), Người và xe chạy dưới ánh trăng (Hồ Anh Thái), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà)… Trong giai đoạn này tiểu thuyết hướng đến tính dân chủ, tính dân chủ thể hiện ở chỗ tiểu thuyết không chỉ là tiếng nói của cái chung mà còn là tiếng nói của cái riêng, là phát ngôn thể hiện tư tưởng, quan niệm riêng của người nghệ sĩ. Nhà văn hoàn toàn có quyền đề xuất những chuẩn mực giá trị mới, có quyền trình bày những ý kiến cá nhân: Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Thiên thần xám hối của Tạ Duy Anh… Nhân vật trong tác phẩm là con người nếm trải, luôn đối diện với những khó khăn, ẩn sâu trong họ là sự giằng xé nội tâm, ở thời hiện tai nhưng lại luôn sống trong quá khứ như nhân vật Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), sự cùng quẫn của con người nông thôn như Khuê trong Dòng sông mía (Đào Thắng). Bên cạnh sử dụng đối thoại thì ngôn ngữ độc thoại cùng với dòng ý thức đóng vai trò chủ yếu trong phương thức trần thuật đổi mới. Tiểu thuyết giai đoạn này có nhiều cách tân, bên cạnh sử dụng đối thoại thì ngôn ngữ độc thoại cùng với dòng ý thức đóng vai trò chủ yếu trong phương thức trần thuật đổi mới, với hình thức độc thoại nội tâm, tâm lý con người bộ lộ một cách sâu sắc. Ngoài ra kết cấu lắp ghép phân mảnh được các nhà tiểu thuyết sử dụng để xây dựng tác phẩm. Kết cấu lắp ghép phân mảnh đối lập với kết cấu liền mảnh của văn học truyền thống, là những câu chuyện được cắt vụn trong cuộc sống hàng ngày lắp ghép với nhau một cách lộn xộn qua đó thể hiện quan điểm, tư tưởng của nhà văn (Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh, Ngồi của Nguyễn Bình Phương, Và khi tro bụi của Đoàn Minh Phương…) Nhìn một cách khái quát, tiểu thuyết Việt Nam 1975 đến nay đã có nhiều đột phá. Về phương diện thể tài thì tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đã khai thác sâu hơn khía 18 cạnh của cuộc sống hàng ngày, cái đời thường của cá nhân. Các nhà tiểu thuyết đã nhìn thẳng vào hiện thực không né tránh mà phanh phui nó ra một cách trung thực, táo bạo dưới ngòi bút khát khao sáng tạo nghệ thuật. Tất cả những vấn đề trong xã hội không bị trượt theo đường ray, lối mòn mà nó đều được làm mới với tư duy mới thấm đẫm cảm hứng nhân văn. Về phương diện cốt truyện, xây dựng những xung đột gay gắt trên cái bình thường, nhỏ nhặt trong đời sống, gây cảm giác như là không có chuyện. Trên phương diện nội dung phản ánh, tiểu thuyết sau 1975 đa dạng hơn những giai đoạn trước. Có thể nói tiểu thuyết giai đoạn này có bước phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên có những lúc bị chững lại. Dù vậy ta cũng không thể phủ nhận nỗ lực của những người cầm bút trong công cuộc làm mới thể loại. Thực ra, những gì vừa nói trên đây, nhiều khi chỉ là câu chuyện "biết rồi, khổ lắm, nói mãi". Có thể có những ngờ vực về sự cần thiết của việc phác thảo trở lại một và nét của tiểu thuyết Việt Nam từ 1945 đến nay. Tuy nhiên, bởi Những ngã tư và những cột đèn đã được sáng tác từ năm 1966, trong bối cảnh của tiểu thuyết cách mạng, và đưa i vào những thập niên cuối của thế kỉ XX, trong bối cảnh xôn xao của những đổi mới cho nền văn học hậu chiến. Viết lại những điều trên, chúng tôi muốn từ đó sẽ soi tỏ thêm nhiều vấn đề của tác phẩm, nhất là ở những cách tân. Những ngã tư và những cột đèn hiển nhiên đã vượt khỏi những giới hạn chật chội của "một nền văn nghệ minh họa" ở thời điểm nó được viết ra. Thêm nữa, trong bối cảnh hiện nay, nó vẫn lấp lánh ánh sáng của tính độc đáo, cách tân. Và trong khi khi người ta không ngừng cổ xúy cho những tác phẩm khác thuộc dòng "đổi mới", thì những đánh giá về tiểu thuyết này của Trần Dần có lẽ chưa được tương xứng lắm với những đóng góp của ông, qua cuốn sách này. 1.2. Trần Dần – một trong những hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam hiện đại 1.2.1. Thời đại mà Trần Dần đã đi qua Trần Dần (1927 – 1995) sinh ra trong thời đại với những biến động của lịch sử. Đó là những khúc quanh đầy sóng gió của lịch sử mà còn tác động đến số phận của 19 từng cá nhân. Trần Dần là nhà văn có trách nhiệm sâu sắc với con người nên cuộc đời và tác phẩm của ông chịu nhiều cay đắng. Đất nước ta 1900 – 1945 đang chịu cảnh đô hộ của thực dân Pháp và nhà nước phong kiến. Xã hội rối ren, nhân dân lầm than cơ cực một cổ hai tròng, sưu cao thuế nặng, kinh tế và văn hoá bị kìm hãm bởi chính sách ngu dân mà thực dân Pháp đề ra. Các phong trào đấu tranh tự phát nổi dậy, do không có con đường cứu nước đúng đắn nên đều thất bại. Đến năm 1930, Đảng cộng sản ra đời đánh dấu một bước ngoặt mới trong con đường đấu tranh giành độc lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng sự đoàn kết của toàn dân hàng loạt phong trào cách mạng diễn ra, như một luồng sinh khí mới thổi vào văn học, các sáng tác thơ văn thời kì này bắt đầu xuất hiện gắn liền với phong trào đấu tranh nhằm cổ vũ tinh thần của nhân dân. Bên cạnh đó bộ phận văn học Tư sản, tiểu tư sản (là những trí thức Tây học, chiu sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây) ra đời, điển hình là Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ Mới với một lớp thi sĩ tài hoa như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận. Tiểu thuyết lãng mạn ra đời với Tố tâm của Hoàng Ngọc Phách, Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Đoạn tuyệt của Nhất Linh… Đặc biệt từ 1940 – 1945 Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh, nó không chỉ dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự mà còn phát triển mạnh mẽ thể tài tiểu thuyết với các tác phẩm: Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Sống mòn của Nam Cao… Trong bối cảnh văn học lúc bấy giờ, ảnh hưởng của các phong trào thơ văn những sáng tác đầu tay của Trần Dần mang hơi hướng của Thơ Mới. Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời thay thế cho nhà nước phong kiến. Đảng và nhân dân có bộ máy chính quyền nhà nước làm công cụ để xây dựng và bảo vệ đất nước, niềm vui chiến thắng chưa được bao lâu thì toàn dân ta lại gồng mình lên dồn tất cả sức lực và của cải chống giặc Pháp và đế quốc Mỹ. Hai cuộc kháng chiến này đã tác động sâu sắc đến đời sống cũng như tinh thần của nhân dân. Hoà trong không khí chung của dân tộc, mang trong mình lòng yêu nước của người con đất Việt, Trần Dần cũng như bao nhà văn khác xung phong vào bộ đội, góp sức mình bảo vệ quê hương. Trong thời gian này văn nghệ phát 20 triển theo đường lối lãnh đạo của Đảng, mọi sáng tác, hoạt động văn nghệ đều hướng đến mục đích chung đó là phục vụ chính trị, phục vụ cách mạng, phản ánh cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, khám phá sức mạnh và bản chất tốt đẹp của quần chúng công nông binh, thể hiện niềm tự hào dân tộc, niềm tin vào tương lai tất thắng của kháng chiến. Thơ ca giai đoạn này phát triển rực rỡ bởi giọng điệu của nó phù hợp với việc mô tả khí thế hào hùng của dân tộc, về tiểu thuyết có Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm… Tuy nhiên không ít nhà văn băn khoăn với đường lối lãnh đạo văn nghệ của Đảng đề ra, “người ta im lặng, hoặc cảm thấy bứt rứt vì không thể viết như cũ, nhưng cũng không thể viết được cái mới như ý muốn của mình” [34, 334] và “đem nghệ thuật phục vụ chính trị có phải là rẻ rúng nghệ thuật không? Quần chúng có khả năng thưởng thức nghệ thuật không? [34, 337-338]. Và Trần Dần là một trong những trường hợp ấy, ông muốn mang sức mình để phục vụ đất nước, nhưng là một văn nghệ sĩ ông không chịu nổi sự gò bó chèn ép của các cán bộ chính trị, lấy ý kiến riêng làm định hướng chung sáng tác cho các nhà văn. Tuy nhiên thời gian này ông vẫn chưa phá bức tường ấy để tự do sáng tạo. Năm 1954, cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp kết thúc với chiến thắng Điện Biên Phủ, đây là sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc, miền Bắc hoàn toàn giải phóng đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất đất nước. Trong văn học, chiến thắng Điện Biên Phủ trở thành đề tài lớn, hàng loạt các tác phẩm ra đời mang âm hưởng hào hùng của cuộc chiến. Tiểu thuyết đầu tiên viết về chiến thắng Điện Biên Phủ là Người người lớp lớp của Trần Dần, tác phẩm được viết ngay sau khi chiến dịch kết thúc, tạo dựng lại một cách đầy đủ nhất về cuộc chiến tranh nhân dân và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Sau Người người lớp lớp có Cửa sông của Nguyễn Minh Châu, Thồ lên Điện Biên của Đào Phương, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai… Văn học những năm về sau càng phát triển mạnh mẽ hơn với lực lượng sáng tác đông đảo và số lượng tác phẩm đồ sộ: Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Hòn Đất của
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan