Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh cà mau...

Tài liệu Cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh cà mau

.PDF
91
349
117

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN HOÀNG ĐOÁN CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN HOÀNG ĐOÁN CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn chưa từng được công bố trong các công trình khác. Hà Nội, ngày tháng 8 năm 2017 Tác giả luận văn Trần Hoàng Đoán MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..........................................................................9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc của cưỡng chế trong thi hành án dân sự ....................................................................................................................... 9 1.2. Nội dung của cưỡng chế trong thi hành án dân sự ......................................... 15 1.3. Cơ sở pháp luật về cưỡng chế trong thi hành án dân sự ................................. 19 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng (tác động) đến cưỡng chế trong thi hành án dân sự ... 35 Chương 2: THỰC TRẠNG CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN DỰ Ở TỈNH CÀ MAU ...................................................................................................39 2.1. Khái quát về Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau ............................................... 39 2.2. Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau ................... 46 2.3. Kết quả cưỡng chế trong thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau .......................... 47 2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót của cưỡng chế trong thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau ............................................................................................. 61 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH CÀ MAU .............66 3.1. Quan điểm, yêu cầu của việc nâng cao chất lượng cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau...................................................................................................67 3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng cưỡng chế trong thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau ........................................................................................................... 72 KẾT LUẬN ..............................................................................................................79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................81 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCT Bộ Chính trị BLDS Bộ luật dân sự BLHS Bộ luật hình sự BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự BMNN Bộ máy Nhà nước BPCC Biện pháp cưỡng chế BPCCTHADS Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự BTP Bộ Tư pháp CCTHADS Cưỡng chế thi hành án dân sự CHV Chấp hành viên KSV Kiểm sát viên LHP Luật hiến pháp LTHADS Luật thi hành án dân sự NN và PL Nhà nước và Pháp Luật NN Nhà nước PL Pháp luật PLTHADS Pháp lệnh thi hành án dân sự TAND Tòa án nhân dân TP Thẩm phán TPL Thừa phát lại THA Thi hành án THADS Thi hành án dân sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Như chúng ta đã biết hiện nay Cơ quan THADS thuộc BTP quản lý và là một trong những cơ quan độc lập trong hệ thống các cơ quan tư pháp của BMNN của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Vì trong tiến trình xây dựng NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về lĩnh vực tổ chức, hoạt động của NN, Đảng đã chủ trương phải thực hiện đồng bộ ba cuộc cải cách: Cải cách tư pháp, cải cách PL, cải cách hành chính. Trong đó cải cách tư pháp luôn được Đảng quan tâm chú trọng ngay từ những năm đầu của thế kỷ XXI, với Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của BCT đã chỉ rõ: “…Trên cơ sở tổng kết, đánh giá về công tác thi hành án, cần sớm xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao trách nhiệm của cơ quan thi hành án, bảo đảm các quyết định, bản án của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh ...”[3. Tr 3]; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của BCT về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục khẳng định “...Chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để thực hiện việc chuyển giao tổ chức và công tác thi hành án cho Bộ tư pháp...Xây dựng các chế định bổ trợ tư pháp đủ mạnh, đáp ứng kịp thời với tình hình; làm thí điểm ở một số địa phương về chế định thừa phát lại; từng bước xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp”[5. Tr 7-8]; Vậy thi hành án dân sự là gì? Đây là một trong những hoạt động quan trọng của NN trong việc đưa các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền ra thi hành trên thực tế. Hoạt động THA một mặt đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế nhưng mặt khác, nó còn là công cụ hữu hiệu để khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại. Hiệu quả của hoạt động THA có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với PL. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay, không phải bản án, quyết định có hiệu lực nào của cơ quan có thẩm quyền cũng có thể được tổ chức thi hành một cách thuận lợi. Do đó các BPCCTHADS được sử dụng. Cưỡng chế thi hành án dân sự là gì? Đây là biện pháp THADS dùng quyền lực của NN để buộc người phải THA thực hiện nghĩa vụ THADS của họ, mà cụ thể: CHV áp dụng trong trường hợp người phải THA có điều kiện thi hành án mà không 1 tự nguyện THA. Do vậy hiệu quả hoạt động CCTHADS, sẽ tác động trực tiếp đến hiệu quả công tác THADS. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng NN pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đòi hỏi NN cần quản lý xã hội bằng PL và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN, đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Để khẳng định yêu cầu này, Điều 106 Hiến pháp của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 ghi nhận: “Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [57]. Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác THADS, Đảng và NN ta đã đề ra mục tiêu phải: "...Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của toà án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành". Trong những năm qua NN ta đã xác định công tác THADS là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác này mà cụ thể là: Sau rất nhiều PLTHADS, lần đầu tiên NN ta đã ban hành LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung lần gần nhất năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01.7.2015) cùng với một loạt các văn bản quy phạm PL thể chế hoá các quy định của Luật này vào cuộc sống, đã đánh dấu bước đổi mới cơ bản điều chỉnh tất cả các lĩnh vực trong công tác THADS. Đồng thời xác định BTP là cơ quan giúp Chính phủ quản lý NN thống nhất công tác THADS, từng bước xã hội hoá hoạt động THADS và để đảm bảo cho công tác THADS thực hiện có hiệu quả NN ta đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng khung pháp lý cho việc áp dụng BPCC, mà cụ thể: Các nhà làm luật khi ban hành LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã dùng riêng một chương: Chương IV với 55 điều luật, từ Điều 66 đến Điều 121 để quy định về Biện pháp bảo đảm và CCTHADS. Việc CCTHADS còn được cụ thể trong Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều LTHADS năm 2008 về thủ tụcTHADS; Nghị định 125/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 58/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LTHADS; Nghị định 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về cưỡng chế thi 2 hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLTBTP-BCA quy định cụ thể về việc phối hợp bảo vệ CCTHADS; Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Tại mục 12. Chương IV Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của TANDTC quy định:“...về trường hợp khi giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bị CCTHADS” [65. Tr 17]. Do vậy công tác THADS trong những năm qua đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, trong đó nổi bật nhất theo đánh giá của Chính phủ là: "Hệ thống cơ quan THADS được hình thành trong cả nước, công tác THADS đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu". Cà Mau với số lượng án bàn giao và thụ lý hàng năm tương đối lớn, trong những năm qua công tác THADS ở tỉnh Cà Mau đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ chức thi hành dứt điểm; một số án lớn, tính chất phức tạp, ảnh hưởng lớn về kinh tế, trật tự an toàn xã hội cũng đã được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo. Kết quả đạt được nói trên phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của toàn ngành tư pháp nói chung, cũng như đội ngũ cán bộ, CHV cơ quan THADS nói riêng; là sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương; Sự phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu quan trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật THADS. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được cũng như nhiều tỉnh, thành trên cả nước. Thực trạng áp dụng và thực hiện pháp luật THADS ở tỉnh Cà Mau vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lượng án tồn đọng qua các năm còn lớn, nhiều bản án, quyết định về THADS đã có hiệu lực PL nhưng chưa được tổ chức thi hành. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khác nhau như: Số lượng vụ việc THADS hàng năm có chiều hướng gia tăng, số vụ việc có tính chất phức tạp ngày càng nhiều. Trong khi lực lượng công chức làm công tác THA nhiều nơi còn mỏng, đã tạo áp lực công việc lên đội ngũ cán bộ, CHV; một số cán bộ, CHV cơ quan THA còn thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu tận tụy trong công việc và không loại trừ có trường hợp cá nhân cán bộ, CHV suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, đã cố tình vận dụng những kẽ hở của hệ thống pháp luật THADS hiện hành còn nhiều điểm bất cập để thực hiện các hành vi sai trái trong THA nhằm vụ lợi cá nhân, khiến cho quần chúng nhân dân kêu ca phàn 3 nàn; Ở một số nơi cấp ủy, chính quyền các cấp chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện tổ chức, chỉ đạo THADS theo quy định của PL; Ban chỉ đạo THADS hoạt động còn hình thức, chưa hiệu quả; công tác phối hợp THA của các cơ quan hữu quan theo qui định của PL còn chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, không tạo điều kiện thuận lợi cho công tác THADS, gây thiệt hại đến lợi ích của NN, quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự tham gia vào quan hệ pháp luật THADS và uy tín của NN. Đây cũng là những vấn đề bức xúc, rất cấp thiết đặt ra đối với công tác THADS ở tỉnh Cà Mau trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi cần phải tiếp tục nâng cao việc áp dụng pháp luật về THADS nói chung và công tác CCTHADS nói riêng mới mong đảm bảo cho các quyết định, bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật được thi hành trong thực tế ở tỉnh Cà Mau là vấn đề trở nên cấp bách. Với tất cả những ý nghĩa đã nêu ở trên, việc chọn đề tài “Cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn Thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau” làm Luận văn Thạc sĩ Luật học là cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận cũng như thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước tháng 7 năm 1993, hoạt động THADS chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, rất ít những công trình khoa học hay các bài nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này. Chỉ sau khi công tác THADS chuyển giao cho Chính phủ thống nhất quản lý, nhất là trong tiến trình cải cách tư pháp, thực tiễn đòi hỏi cần phải giải quyết, thì các vấn đề liên quan đến công tác THADS, CCTHADS mới được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện. Trong các công trình nghiên cứu về lĩnh vực THADS phải kể đến: - Đề tài cấp NN: “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động THA ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ TTP chủ trì, 1998 [8]. - Đề tài cấp NN thực hiện: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động THA ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do BTP chủ trì, 2009 [9]. - Đề tài KX 04.06 thuộc Chương trình khoa học xã hội cấp NN năm 2001 2005 do TS. Uông Chu Lưu - Bộ trưởng BTP làm chủ nhiệm đã nghiên cứu: “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân”[39]. 4 - Đề tài: “THADS, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001” do BTP chủ trì thực hiện dự án, năm 2009 [10]. - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”, mã số 96-98-027/ĐT do Cục THADS và BTP chủ trì thực hiện năm 2010 [39]. - Đề án khoa học cấp Bộ năm 2010: “Kiện toàn mô hình tổ chức và đội ngũ cán bộ THA để thực hiện có hiệu quả LTHADS năm 2008”, do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện làm chủ nhiệm đề tài [38]. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định TPL”, mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - BTP và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện, 2010 [74]. - Đề án số: 02/ĐA-UBND ngày 01/11/2016 của UBND tỉnh Cà Mau: “Đề án thực hiện chế định thừa phát lại trên địa bàn tỉnh Cà Mau đến năm 2020”[66]. - Luận án Tiến sĩ của nghiên cứu sinh Nguyễn Thanh Thuỷ với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008 [52]. - Luận án Tiến sĩ của nghiên cứu sinh Nguyễn Quang Thái với đề tài “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008 [46]. - Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện" của tác giả Nguyễn Công Long, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000 [36]. - Luận văn thạc sỹ luật học: “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong quân đội” của tác giả Tăng Đình Năm, Khoa luật trường Đại học quốc gia Hà Nội năm 2006 [42]; - Luận văn thạc sỹ luật của tác giả Nguyễn Trọng Tân “Áp dụng pháp luật trong cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008 [45]. Những công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về hiệu quả thực hiện PL nói chung và hiệu quả THADS nói riêng ở nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực trạng hiệu quả công tác cưỡng chế trong THADS, lý giải các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác CCTHADS tại 5 một địa phương cụ thể là tỉnh Cà Mau một cách toàn diện, chuyên sâu và trong điều kiện pháp luật THADS đã có nhiều thay đổi về căn bản như hiện nay. Để nghiên cứu và thực hiện đề tài “Cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn Thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau” Tôi đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố trên đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc phát huy kết quả đã đạt được cũng như khắc phục những yếu kém, hạn chế đang còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THADS ở tỉnh Cà Mau hiện nay nói chung và nâng cao hiệu quả công tác CCTHADS nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: - Phân tích cơ sở lý luận về THADS, làm sáng tỏ về pháp luật THADS, phân tích những kết quả đạt được, điểm yếu kém, hạn chế trong thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS; - Phân tích cơ sở lý luận về cưỡng chế trong THADS nói chung và cưỡng chế trong THADS từ thực tiễn tỉnh Cà Mau nói riêng, để làm sáng tỏ tính pháp quy của CCTHADS và qua phân tích những kết quả đạt được, điểm yếu kém, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các BPCC trong THADS nhằm nâng cao hiệu quả công tác THADS và CCTHADS. - Đánh giá đúng đắn, đích thực về thực trạng hiệu quả công tác THADS, CCTHADS từ đó đi sâu phân tích những kết quả đã đạt được và những hạn chế, tồn tại trong việc nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, đặc biệt là khâu công tác cưỡng chế trong THADS ở tỉnh Cà Mau và làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó. - Xây dựng những quan điểm, giải pháp có tính lâu dài, thường xuyên liên tục để đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả công tác THADS, CCTHADS được đúng quy định pháp luật, đồng bộ, thống nhất trong toàn hệ thống các cơ quan THADS ở tỉnh Cà Mau. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu 6 Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các BPCC trong THADS ở tỉnh Cà Mau. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Từ thực tiễn áp dụng BPCC trong THADS ở tỉnh Cà Mau, luận văn nghiên cứu một cách tổng quát có hệ thống chế định CCTHADS hiện hành. Trong đó tập trung nghiên cứu phân tích thực trạng về hiệu quả công tác THADS nói chung và khâu công tác cưỡng chế trong THADS nói riêng; những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của nó, để từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả THADS, CCTHADS trong điều kiện hiện nay ở tỉnh Cà Mau. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn việc CCTHADS của Cục THADS tỉnh Cà Mau khi thực hiện công tác THADS trong 05 năm (2012-2017) và những văn bản quy phạm pháp luật về THADS nói chung và CCTHADS nói riêng trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến năm 2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về NN và PL và những quan điểm của Đảng và NN ta về công tác THADS, về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và những nghiên cứu có liên quan đến áp dụng pháp luật trong công tác CCTHADS. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, chủ yếu sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, so sánh, hệ thống hóa, logic, thống kê kết hợp với khảo sát thực tế. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn là công trình nghiên cứu cơ bản, toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận, thực tiễn công tác THADS và khâu công tác CCTHADS; Nâng cao hiệu quả công tác CCTHADS ở tỉnh Cà Mau. Vì vậy, có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn. - Luận văn nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển của công tác THADS nói chung và cưỡng chế trong THADS nói 7 riêng trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ năm 1946 đến nay. - Luận văn đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm pháp luật THADS, CCTHADS; Đánh giá, phân tích đúng thực trạng hiệu quả cưỡng chế trong THADS và đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khâu công tác cưỡng chế trong THADS ở tỉnh Cà Mau. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp đảm bảo tuân thủ pháp luật khi thực hiện CCTHADS trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam và các chế định về Thừa phát lại trong điều kiện đổi mới, phát triển ổn định, bền vững và hội nhập quốc tế. Học viên hy vọng kết quả nghiên cứu luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật; Phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ, CHV đang công tác tại các Cơ quan THADS các cán bộ, Kiểm sát viên VKSND thực hiện công tác kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong công tác THADS nói chung và CCTHADS nói riêng được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 7. Cơ cấu Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 10 tiết. Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về cưỡng chế trong thi hành án dân sự Chương 2: Thực trạng cưỡng chế trong thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng cưỡng chế trong thi hành án dân sự ở tỉnh Cà Mau 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc của cưỡng chế trong thi hành án dân sự 1.1.1 Khái niệm cưỡng chế trong thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam Để bảo đảm thực thi PL mà mình ban hành ra, bất kỳ NN nào cũng sử dụng sức mạnh cưỡng chế. “Cưỡng chế” là khái niệm thuộc phạm trù Nhà nước và Pháp luật, là hiện tượng gắn liền với NN. Về thuật ngữ, hiểu theo nghĩa rộng, trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam do Nxb Văn hoá - Thông tin ấn hành 1998 nêu rõ: “cưỡng chế là bắt phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực”. Còn theo cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam tập l xuất bản năm l995, thì khái niệm cưỡng chế là “dùng quyền lực NN để bắt buộc người khác thực hiện những việc làm trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế là một trong những phương pháp chủ yếu của hoạt động quản lý nhà nước”; Theo cuốn Từ điển Luật học do Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội xuất bản năm 1999 thì khái niệm cưỡng chế là “những biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện và phục tùng một mệnh lệnh nhất định của cơ quan NN có thẩm quyền do nhà nước quy định”. Như vậy, cưỡng chế là một phương thức sử dụng và bảo đảm cho quyền lực NN. Tuỳ từng chế độ chính trị và điều kiện phát triển của kinh tế - xã hội cụ thể, mà ở từng NN khác nhau, phương pháp cưỡng chế được sử dụng ở các phạm vi, mức độ và cách thức khác nhau. Ngoài ra, các hình thức và các BPCC cũng được sử dụng tuỳ từng quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh. Nhưng nhìn chung bất cứ lĩnh vực nào mà PL điều chỉnh cũng đều cần sử dụng các BPCC bảo đảm thi hành. Trong hoạt động tư pháp, để bảo đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết định NN phải định ra các BPCC nghiêm khắc bảo đảm cho việc thi hành. Thực ra khi Toà án ra bản án, quyết định thì bản thân sự phán quyết đó đã thể hiện quyền lực đặc biệt của NN, thể 9 hiện sự cưỡng chế của NN. Chính vì vậy ở khía cạnh nào đó, nói đến THA cũng có nghĩa là nói đến cưỡng chế. Theo quyết định của Toà án, người bị kết án phải chịu một hình phạt nhất định, hoặc một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đó phải gánh chịu một nghĩa vụ tài sản hay thực hiện một công việc vì lợi ích của người khác. Các chế tài này hiển nhiên là hoàn toàn trái với ý muốn của những người đó. Khó có thể hy vọng vào sự tự “trừng phạt” hoặc sự tự nguyện tuyệt đối của người phải THA. Việc PL quy định các biện pháp nhằm bảo đảm việc thực thi các bản án, quyết định của Toà án là tất yếu; Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực PL có được thi hành nghiêm chỉnh, dứt điểm hay không; kỷ cương PL có được tôn trọng, lợi ích hợp pháp của NN, của tập thể, của các tổ chức xã hội và mọi công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc nhiều vào kết quả THA; trong THADS các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thoả thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án. Tự nguyện THA đã trở thành một nguyên tắc, biện pháp quan trọng được Đảng và Nhà nước ta tập trung chỉ đạo tăng cường thường xuyên trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước. Làm tốt công tác động viện tự nguyện THA một mặt giúp các cơ quan THADS đạt được số vụ việc thi hành xong mà không phải tốn kém kinh phí của ngân sách Nhà nước, không cần phải huy động lực lượng và các nguồn lực khác để tổ chức cưỡng chế; tự nguyện THA tốt giúp giải tỏa mâu thuẫn, cũng cố tình làng, nghĩa xóm, thắt chặt tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Giải thích, thuyết phục để các bên tự nguyện THADS là nhiệm vụ của CHV, của cơ quan THADS trong quá trình tổ chức THA; Còn thuyết phục trong THADS bắt nguồn từ việc các bên đương sự có quyền tự nguyện thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định ghi nhận, thể hiện ý chí của các bên đương sự nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Tuy vậy, khi người phải THA đã được giải thích, thuyết phục, mặc dù có điều kiện THA mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh để không tự nguyện thi hành, thì buộc cơ quan THADS phải tổ chức CCTHA. CCTHA thể hiện quyền năng của cơ quan THA, bảo đảm tính nghiêm 10 minh của pháp luật, nhằm đảm bảo bản án, quyết định được thi hành nghiêm chỉnh, đúng pháp luật. Cưỡng chế NN là dùng quyền lực NN bắt buộc cá nhân, tổ chức thực hiện hoặc không thực hiên một công việc nhất định trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý NN và là phương pháp thường xuyên được áp dụng trong quản lý NN. Cưỡng chế NN có nhiều lĩnh vực như: Cưỡng chế hành chính, hình sự, dân sự, THADS ... Tuy LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) không định nghĩa cưỡng chế trong THADS nhưng tại khoản 2 Điều 9 lại quy định: “người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”[58]. Theo đó, người phải THA sẽ phải tự nguyện THA khi có điều kiện, nếu không thực hiện thì người có thẩm quyền THA tiến hành cưỡng chế. Theo pháp luật hiện hành thì người có thẩm quyền trực tiếp THA và áp dụng BPCC bao gồm CHV và TPL (sau đây gọi chung là người có thẩm quyền THA). Nói tóm lại:“Biện pháp cưỡng chế là biện pháp THADS dùng quyền lực NN cưỡng bức bắt buộc của cơ quan THA do CHV quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc người phải THA phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải THA có điều kiện THA mà không tự nguyện THA trong thời hạn do CHV ấn định hoặc trường hợp cần ngăn chặn người phải THA tẩu tán, hủy hoại tài sản.” 1.1.2. Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự 1.1.2.1. Cưỡng chế thi hành án là quyền năng đặc biệt của Nhà nước Chỉ có cơ quan chức năng của NN, người có thẩm quyền được NN giao mới được phép áp dụng các BPCCTHA và việc áp dụng BPCC phải theo quy định của pháp luật, ví dụ: Theo quy định của BLTTHS Việt Nam thì cơ quan công an, tổ chức trong quân đội mới có quyền THA phạt tù; Còn theo quy định của LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì chỉ có CHV mới được quyền ra quyết định áp dụng BPCCTHADS... 1.1.2.2. Cưỡng chế là một nguyên tắc cơ bản trong thi hành án dân sự 11 Quá trình tổ chức THA tuân theo nguyên tắc kết hợp giữa tinh thần tự nguyện của người phải THA và sự cưỡng chế của cơ quan THA mà người thực hiện là CHV. Tuy nhiên, cưỡng chế không phải là phương pháp bắt buộc duy nhất trong quá trình tổ chức THA. Pháp luật THADS khuyến khích và tạo các điều kiện cho người phải THA tự nguyện THA, tránh việc phải áp dụng BPCC. Người phải THA trong điều kiện nhất định có khả năng lựa chọn phương thức thi hành nghĩa vụ. Theo LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: NN khuyến khích các đương sự tự nguyện THA và ấn định cho người phải THA có thời gian tự nguyện THA là 10 ngày, kể từ ngày người phải THA nhận được quyết định THA hoặc được thông báo hợp lệ quyết định THA. Nếu hết thời gian tự nguyện mà đương sự không thực hiện nghĩa vụ của mình thì CHV có thể áp dụng BPCCTHA. 1.1.2.3. Đối tượng cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi của người phải thi hành án THADS không nhằm mục đích trừng trị bản thân người phải THA, mà nhằm khôi phục những quyền, lợi ích về tài sản và các quyền dân sự khác đã bị tổn hại. Người phải THA phải thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hoặc hành vi dân sự của bản thân họ. Vì vậy, việc CCTHA phải áp dụng đối với người phải THA trên cơ sở các đối tượng này sau khi động viên mà tự nguyện THA. 1.1.2.4. Người phải thi hành án phải chịu mọi chi phí về cưỡng chế Các hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình ... mang tính cưỡng chế tuyệt đối, người bị kết án không có khả năng lựa chọn cách thức chấp hành hình phạt. Do vậy NN phải thiết lập hệ thống trại giam và các trang thiết bị khác, phạm nhân ngoài nghĩa vụ lao động học tập, cải tạo thì được hưởng các chế độ vật chất do PL quy định. Tuy nhiên, trong THADS xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, người phải THA có thể lựa chọn phương thức thi hành nghĩa vụ: tự nguyện hoặc bị cưỡng chế. Khi bị áp dụng BPCC thì ngoài khả năng bị tước đoạt một số tài sản để thi hành nghĩa vụ, người phải THA còn phải chịu mọi chi phí cho việc tổ chức cưỡng chế. Tuy nhiên, pháp luật về THADS cũng quy định quyền của Thủ trưởng cơ quan THADS là có thể xét miễn, giảm chi phí CCTHA cho người 12 phải THA, đây là chính sách của NN đối với những người phải THA lâm vào hoàn cảnh quá khó khăn. 1.1.2.5. Hiệu lực của quyết định cưỡng chế Quyết định cưỡng chế không chỉ có giá trị bắt buộc đối với người phải THA, mà tất cả những tổ chức, cá nhân có liên quan đều phải tôn trọng và thực hiện. Nói một cách khác, ngoài bản thân người phải THA phải thực hiện quyết định cưỡng chế của CHV, thì những tổ chức, cá nhân có liên quan đều phải thực hiện, ví dụ: Khi CHV ra quyết định khấu trừ tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc NN của người phải THA, thì theo quy định tại LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014): Ngân hàng, tổ chức tín dụng, hoặc Kho bạc nhà nước phải thực hiện quyết định này [55, 58]. 1.1.3. Các nguyên tắc của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự 1.1.3.1. Chỉ người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền áp dụng biện pháp thi hành án dân sự Theo PL hiện hành thì chỉ có cơ quan THADS và Văn phòng TPL mới được NN trao cho quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực PL của cơ quan có thẩm quyền và chỉ người có thẩm quyền THA mới có quyền quyết định BPCC. Ngoài ra các chủ thể khác, bằng sức mạnh của mình, bắt buộc người khác phải THA đều trái pháp luật. 1.1.3.2. Chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự khi hết thời gian tự nguyện thi hành trừ trường hợp áp dụng cưỡng chế ngay Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), người phải THA có điều kiện THA mà không tự nguyện THA thì bị cưỡng chế. Tuy nhiên để đảm bảo công tác THA thật sự hiệu quả, với mục đích ngăn chặn những hành vi tẩu tán tàn sản, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ THA của đương sự trong thời gian tự nguyện THA thì chủ thể có thẩm quyền vẫn được áp dụng biện pháp bảo đảm, BPCCTHA được quy định tại chương IV LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) [55, 58]. 13 1.1.3.3. Không được cưỡng chế thi hành án trong thời gian mà pháp luật quy định không được cưỡng chế thi hành án Xuất phát từ mục đích nhân đạo đối với người phải THA, PL quy định không tổ chức CCTHA trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt như 15 ngày trước và sau tết nguyên đán, các ngày truyền thống của các đối tượng chính sách. 1.1.3.4. Chỉ được áp dụng 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được quy định theo pháp luật Để tránh sự lạm quyền của các chủ thể trong việc cưỡng chế THA dân sự, pháp luật quy định người có thẩm quyền THA chỉ có thể áp dụng trong 06 BPCCTHA quy định tại Điều 71 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Việc áp dụng BPCCTHADS phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người phải THA chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải THA mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì người có thẩm quyền THA vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, BPCC để THA. 1.1.3.5. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải đảm bảo và tôn trọng quyền con người, quyền công dân và tính nhân đạo THADS là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền con người đã được Hiến pháp quy định. Vì vậy, chỉ trong trường hợp cần thiết mới áp dụng các BPCCTHA, còn lại cần tôn trọng sự tự nguyện và thỏa thuận của các bên tham gia vào quan hệ pháp luật trong THADS; đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; khi áp dụng BPCC, kê biên để THA, pháp luật chỉ cho phép kê biên những tài sản đủ để THA và thanh toán chi phí về việc THA chứ không kê biên tất cả tài sản của người phải THA. Đồng thời, khi kê biên tài sản, CHV không được kê biên những thứ cần thiết tối thiểu cho cuộc sống và của gia đình người phải THA. Yêu cầu đặt ra đối với Cán bộ, Chấp hành viên trong công tác tiếp dân, tiếp đương sự tham gia giải quyết liên quan đến THADS cần có sự mẫu mực, công tâm khách quan, tôn trọng đúng mức; cần có sự bảo vệ và tôn trọng tuyệt đối các quyền công dân, quyền con 14 người, các lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi người khi tham gia vào các công việc liên quan đến hoạt động THADS. 1.1.4.Vai trò của cưỡng chế trong thi hành án dân sự Các BPCCTHA là chế tài độc lập nhằm bảo đảm việc thi hành nghĩa vụ của người phải THA. Một người không thực hiện nghĩa vụ THA ngoài khả năng bị CCTHA còn có thể bị các cơ quan có thẩm quyền chế tài bằng nhiều biện pháp. Tuy nhiên, việc CCTHADS không có tính chất trừng phạt, mà chỉ là cách thức để bảo vệ quyền lợi cho người được THA. Các biện pháp CCTHADS là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh, hiệu quả bản án, quyết định của Toà án. Ngoài ra hiệu lực của quyết định cưỡng chế có tác dụng lớn trong việc răn đe, giáo dục ý thức tự giác chấp hành PL của người phải THA, góp phần nâng cao ý thức PL của nhân dân. 1.2. Nội dung của cưỡng chế trong thi hành án dân sự 1.2.1. Căn cứ cưỡng chế thi hành án Điều 70 LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định 03 căn cứ để CCTHA bao gồm: a) Bản án, quyết định: Đây là những bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục THADS, gồm có: Bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải THA của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại. b) Quyết định thi hành án: Là quyết định do Thủ trưởng cơ quan THA ban hành, đó có thể là quyết định THA được ban hành theo thủ tục chủ động ra quyết định THA án hoặc quyết định THA được ban hành theo thủ tục THA theo đơn yêu cầu. c) Quyết định cưỡng chế thi hành án: Là quyết định do CHV ban hành. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan