Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Cưỡng chế thi hành án dân sự bằng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi ...

Tài liệu Cưỡng chế thi hành án dân sự bằng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án theo pháp luật thi hành án dân sự việt nam từ thực tiễn quận bình tân, thành phố hồ chí minh

.PDF
84
355
136

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐÌNH HOÀNG KIM CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ BẰNG BIỆN PHÁP TRỪ VÀO THU NHẬP CỦA NGƢỜI PHẢI THI HÀNH ÁN THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐÌNH HOÀNG KIM CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ BẰNG BIỆN PHÁP TRỪ VÀO THU NHẬP CỦA NGƢỜI PHẢI THI HÀNH ÁN THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN AM HIỂU HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan luận văn thạc sỹ: "Cưỡng chế thi hành án dân sự bằng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh" là do chính em thực hiện. Các tài liệu, các dẫn chứng số liệu được sử dụng nghiên cứu luận văn do em tự tìm hiểu bằng kinh nghiệm trong nghề nghiệp và đảm bảo độ chính xác theo yêu cầu của một luận văn khoa học. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 02 năm 2019 Tác giả Nguyễn Đình Hoàng Kim LỜI CẢM ƠN Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập tại trường đến nay, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy, Cô, gia đình và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý Thầy, Cô ở Học viện khoa học xã hội đã cùng với tri thức và tâm huyết của mình truyền đạt vốn kiến thức quý báu và tạo điều kiện cho chúng em trong suốt thời gian học tập. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo – TS. Nguyễn Am Hiểu đã quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành tốt luận văn này trong thời gian qua. Với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một học viên, luận văn này không thể tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có điều kiện bổ sung, nâng cao ý thức của mình, phục vụ tốt hơn công tác thực tế sau này. Em xin chân thành cảm ơn. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 02 năm 2019 Tác giả Nguyễn Đình Hoàng Kim MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ TRỪ VÀO THU NHẬP CỦA NGƢỜI PHẢI THI HÀNH ÁN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM. ....................... 7 1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án ............... Error! Bookmark not defined. 1.2. Cưỡng chế tài sản là tiền của người phải thi hành ánError! Bookmark not defined. 1.3. Cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành ánError! Bookmark not defined Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ TRỪ VÀO THU NHẬP CỦA NGƢỜI PHẢI THI HÀNH ÁN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................. Error! Bookmark not defined. 2.1. Tổng quan tình hình kinh tế, chính trị xã hội của quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh và những lợi thế của biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án từ thực tiễn của quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. 32 2.2. Thực trạng thụ lý, ban hành quyết định về thi hành án trong cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án ........... Error! Bookmark not defined. 2.3. Thực trạng xác định nguồn thu nhập của người phải thi hành ánError! Bookmark no 2.4. Thực trạng thực hiện cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án trong thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh .................................................................... Error! Bookmark not defined. 2.5. Thực trạng thanh toán tiền thi hành án sau khi đã ban hành quyết định cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành ánError! Bookmark not defined. 2.6. Những kết quả đạt được, nguyên nhân, khó khăn trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành ánError! Bookmark not define Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ TRỪ VÀO THU NHẬP CỦA NGƢỜI PHẢI THI HÀNH ÁNError! Bookmark not defined. 3.1. Sự cần thiết khách quan cho việc hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án trong Thi hành án dân sựError! Bookmark not d 3.2. Một số giải pháp hỗ trợ, nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án trong Thi hành án dân sựError! Bookmark n 3.3. Một số định hướng và kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án trong Thi hành án dân sự ..................................................................................................................... 67 KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thực tế, phán quyết của Tòa án là những quyết định nằm trên giấy và không thể thực sự có hiệu lực nếu không được thi hành đầy đủ và hiệu quả trong quá trình thi hành án. Thi hành án dân sự là là công cụ khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại. Mặt khác đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trong việc đưa các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền ra thi hành trên thực tế. Hiệu quả của hoạt động thi hành án có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, không phải bản án, quyết định có hiệu lực nào của cơ quan có thẩm quyền cũng có thể được tổ chức thi hành một cách thuận lợi. Do đó, các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được sử dụng. Cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động thường xuyên được thực hiện trong công tác thi hành án dân sự, khi các bản án, quyết định không được tự nguyện thi hành. Tuy hoạt động cưỡng chế không phải là lựa chọn đầu tiên được áp dụng trong hoạt động thi hành án nhưng lại có vai trò rất quan trọng. Hiệu quả cưỡng chế ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả thi hành án. Trong các nghĩa vụ thi hành án thì nghĩa vụ trả tiền là phổ biến nhất. Nghĩa vụ trả tiền phát sinh từ quan hệ hợp đồng (mua bán, chuyễn nhượng,vay nợ...) hoặc ngoài hợp đồng (bồi thường thiệt hại, cấp dưỡng…). Trong thực tế, với việc mở rộng các hình thức thanh toán trong các giao dịch dân sự, giao dịch thương mại…; cùng với sự phát triển kinh tế đất nước, một bộ phận người dân có thu nhập khá cao và ổn định nhất là những đối tượng làm việc trong các doanh nghiệp, cơ quan, chủ các cơ sở sản uất kinh doanh.... Tài sản của cá nhân không chỉ là các vật dụng, nhà ở, phương tiện... Mà nhiều người dân có tiền, vàng thường không giữ tại nhà mà họ có thể gửi ngân 1 hàng, mở tài khoản… tại các tổ chức tín dụng, kho bạc, mua cổ phếu trái phiếu, hoặc đầu tư kinh doanh... Trong các quan hệ vay mượn, làm ăn, kinh doanh với nhau không phải lúc nào các bên đối tác cũng thực hiện tốt việc trả nợ cho nhau. Một số trường hợp do gặp rủi ro trong kinh doanh nên mất khả năng thanh toán, một số khác lại có ý định chiếm dụng vốn của đối tác....nên đã không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng, trong khế ước vay mượn dẫn đến việc tranh chấp và khởi kiện ra tòa để yêu cầu giải quyết tranh chấp. Loại vụ việc này chiếm số lượng lớn việc phải thi hành. Từ thực tế này, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung một số điều năm 2014 quy định về các viện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền đa dạng nhất và cũng chiếm dung lương lớn nhất trong chương IV, trong đó cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế thường ít phức tạp hơn so với các biện pháp kê biện xử lý tài sản của người phải thi hành án. Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tập trung nhiều nguồn lực của xã hội, nhu cầu phát triển kinh tế từ cá nhân, tổ chức ngày càng tăng cao. Chính vì thế các tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ trả tiền cũng không ngừng gia tăng (năm 2018, tổng số thụ lý việc thi hành án của đơn vị là 6853 việc, số tiền là: 1.684 tỷ đồng, loại án liên quan đến nghĩa vụ trả tiền chiếm hơn 90% trên tổng số việc và tiền phải giải quyết) [15,tr.1]. Trong thực tiễn thi hành án, không phải mọi trường hợp người phải thi hành án đều tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình. Mặc dù người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục, có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án, cố tình tìm mọi cách tránh né, trì hoãn. Số lượng việc yêu cầu ngày càng tăng, kéo theo giá trị phải thi hành là rất lớn nên đòi hỏi các cơ quan Thi hành án dân sự không chỉ trên phạm vi cả nước 2 nói chung và quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh phải luôn quan tâm, có các giải pháp hợp lý để thi hành có hiệu quả, để bảo đảm được quyền lợi cho người được thi hành và người phải thi hành án. Vì những lẽ trên tác giả chọn đề tài: "Cưỡng chế thi hành án dân sự bằng biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh" làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đối với các đề tà liên quan đến các biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự trước đó đã được một số tác giả nghiên cứu quan tâm, phân tích nhiều khía cạnh khác nhau thông qua các Luận văn, bài viết như: - Luận văn Thạc sỹ: “ Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của Đỗ Thanh Huyền, năm 2011. Luận văn này chủ yếu làm rõ thực trạng pháp luật của vấn đề xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của ngân hàng thương mại ở Việt Nam trên cơ sở có so sánh và đối chiếu với pháp luật nước ngoài về vấn đề này, từ đó tìm ra vướng mắc và khó khăn. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật, đề xuất các phương hướng và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. - Luận văn thạc Sỹ:“ Thế chấp tài sản – biện pháp đảm bảo tiền vay qua thực tiễn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam” của Bùi Thị Nga, năm 2014. Luận văn này chủ yếu làm rõ các vấn đề lý luận về thế chấp tài sản: khái niệm, đặc điểm, vai trò, thủ tục xử lý tài sản thế chấp theo pháp luật Việt Nam, có so sánh với pháp luật quốc tế. - Luận văn thạc sỹ:“ Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự”, của Phan Huy Hiếu, khoa Luật đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012. Luận văn này phân 3 tích, đánh giá những quy định của Luật Thi hành án dân sự về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, khảo sát tình hình thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành trong thực tiễn, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp luật về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Ngoài ra có một số tạp chí cũng có bài viết về việc cưỡng chế, xử lý đối với tài sản giao dịch bảo đảm để thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng như : “Nghị định về giao dịch bảo đảm – một số vấn đề cần được quan tâm” của Đỗ Hồng Thái đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 9 năm 2007. “Một số giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam” của Nguyễn Hoài Phương đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật online ngày 04/6/2017, tác giả phân tích bản chất và hậu quả của nợ xấu trong các Ngân hàng thương mại và đưa ra một số giải pháp cho việc xử lý nợ xấu trong Ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Các bài nghiên cứu trước đây chủ yếu bàn về cưỡng chế và xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng và các tổ chức tín dụng ở góc độ bao quát, thường chọn gọn tài sản là bất động sản. Các nghiên cứu về biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án còn rất ít,chỉ dừng ở tiểu luận, bình luận hoặc nêu tình huống và giải quyết tình huống… . Chưa có nghiên cứu biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án tại quận Bình Tân thành phố Hồ Chí Minh, vì thế đề tài mong muốn nêu lên thực tế quá trình thi hành án để được cái nhìn khách quan và toàn diện tại chính nơi tác giả công tác. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu chi tiết cơ sở pháp lý, trình tự thủ tục của quá trình áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc phát sinh trong trong quá trình áp 4 dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án, qua đó đưa ra các đề xuất, hướng hoàn thiện pháp luật để góp phần cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án ngày càng có hiệu quả, chất lượng, tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng về hoạt động cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thông qua đó tìm ra những hạn chế, bất cập của những quy định pháp luật hiện hành. Nghiên cứu dựa trên một số tình huống cụ thể, thực tế trong áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án để chỉ ra những thuận lợi, khó khăn trong quá trình thi hành, đưa ra các kiến nghị, các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài sẽ sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đề tài sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, và đặc biệt phương pháp phân tích các vụ việc thực tiễn tại quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh từ những dữ liệu chính tác giã đã thu thập trong thời gian làm việc tại cơ quan thi hành án quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận góp phần hoàn thiện một số quy định pháp luật về Thi hành án dân sự liên quan đến việc cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án trong Thi hành án dân sự. Kết quả nghiên 5 cứu đề tài phục vụ cho công tác Thi hành án dân sự ở địa phương nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung trong việc tổ chức biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án được nhanh chóng, giúp các tổ chức, cá nhân được thi hành án bảo vệ được quyền lợi của họ, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người có nghĩa vụ phải thi hành án. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục, tài liệu tham khảo, thì phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương như sau: Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án trong Thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam. Chƣơng 2: Thực trạng áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án trong thi hành hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. Chƣơng 3: Một số kiến nghị và giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án trong Thi hành án dân sự. 6 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP CƢỠNG CHẾ TRỪ VÀO THU NHẬP CỦA NGƢỜI PHẢI THI HÀNH ÁN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. Khái niệm cƣỡng chế thi hành án 1.1.1. Khái niệm Cưỡng chế Nhà nước là dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức thực hiện hoặc không thực hiên một công việc nhất định trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế gắn liền với hoạt động quản lý Nhà nước và là phương pháp thường xuyên được áp dụng trong quản lý Nhà nước. Cưỡng chế Nhà nước có nhiều lĩnh vực như: Cưỡng chế hành chính, hình sự, dân sự, thi hành án dân sự... Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 không định nghĩa biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng khoản 2 Điều 9 luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định: “người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”.[23, tr3] Theo đó, người phải thi hành án sẽ phải tự nguyện thi hành án khi có điều kiện. Nếu không thực hiện thì người có thẩm quyền thi hành án tiến hành cưỡng chế. Theo pháp luật hiện hành thì người có thẩm quyền trực tiếp thi hành án và áp dụng biện pháp cưỡng chế bao gồm chấp hành viên và thừa phát lại, sau đây gọi chung là người có thẩm quyền thi hành án. Như vậy có thể hiểu khái niệm về biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan có thẩm quyền thi hành án do chấp hành viên hoặc thừa phát lại quyết định theo thẩm quyền quy định nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành. 7 1.1.2 . Điều kiện áp dụng Để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thì cần phải đáp ứng điều kiện nhất định. Thứ nhất, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định được đưa ra thi hành của Tòa án, quyết định của trọng tài, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc phải nộp phí thi hành án. Thứ hai, người phải thi hành án có điêu kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án và người có thẩm quyền thi hành án đã xác minh và khẳng định là người phải thi hành án có đủ điều kiện thi hành án. Thứ ba, đã hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người thi hành án không tự nguyện thi hành án hoặc chưa hết thời gian tự nguyện hoặc chưa hết thời hạn tự nguyện thi hành án nhưng để ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án được quy định tại khoản 2 Điều 45 luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014. Từ những điều kiện trên, cho thấy biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ được áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ phải thực hiện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền và có thái độ, hành vi không tự nguyện thi hành mặc dù có điều kiện thi hành án. Có điều kiện thi hành án được hiểu là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; Tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Tuy nhiên, trong quá trình tác nghiệp, người có thẩm quyền thi hành án cần chú ý về việc áp dụng thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày kể từ ngày nhận quyết định, thông báo hợp lệ được quy định tại Điều 39, 40, 41, 42 và Điều 45 luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014.[23, tr. 25] 1.1.3. Ý nghĩa của cưỡng chế thi hành án Trước hết, như đã phân tích, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành 8 án đối với người phải thi hành án có điều kiện thi hành án như không tự nguyện thi hành nhằm buộc họ chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ của mình theo nội dung bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Bảo vệ quyền lợi của người có quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Qua đó, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức xã hội và của công dân. Ngoài ra, biện pháp cưỡng chế thi hành án mang quyền lực nhà nước, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án ảnh hưởng đến tài sản, uy tín của người phải thi hành án. Thế nên, cưỡng chế thi hành án phần nào thể hiện tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa đối với người phải thi hành án cố tình trì hoãn việc thi hành án. Qua đó, khuyến khích các đương sự tự nguyện thi hành án; góp phần nâng cao tính tự giác, ý thức chấp hành, tôn trọng pháp luật của người phải thi hành án nói riêng và của công dân nói chung. 1.1.4. Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế Trong qúa trình tổ chức thi hành án, chấp hành viên có quyền lựa chọn và áp dụng các biện pháp cưỡng chế để buộc người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Toà án. Tuy nhiên để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án phải đảm bảo các điều kiện sau: Trước hết, phải xác định việc cưỡng chế chỉ được tiến hành đối với người phải thi hành án phải thực hiện hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án. Thứ hai, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Có điều kiện thi hành án có thể được hiểu là người phải thi hành án có tài sản, có thu nhập, có tiền gửi tại ngân hàng, kho bạc… khi phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền. Còn khi phải thực hiện nghĩa vụ trả lại nhà hoặc vật, mà nhà hoặc vật đó vẫn tồn tại và đang do người phải thi hành án quản lý đúng như quyết định 9 của Toà án. Thứ ba, khi đã hết thời gian tự nguyện thi hành án do chấp hành viên ấn định nhưng người phải thi hành án không tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình, hoặc chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án nhưng để ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản của người phải thi hành án. Thời gian tự nguyện thi hành án mà cơ quan thi hành án ấn định cho đương sự theo quy định pháp luật hiện hành là không qúa 10 ngày kể từ ngày họ được tống đạt quyết định thi hành án. 1.1.5. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế Chấp hành viên chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại Điều 71 luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nào là do chấp hành viên lựa chọn và quyết định, tuỳ từng trường hợp cụ thể, phù hợp với nghĩa vụ và điều kiện cụ thể của người phải thi hành án cũng như tình hình thực tế ở địa phương. Tiếp theo, biện pháp cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án. Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 46 luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định: Không được tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định: Ngoài những trường hợp không tổ chức cưỡng chế thi hành án do Luật Thi hành án dân sự quy định, cơ quan thi hành án dân sự không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án; các trường hợp đặc biệt khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, phong tục, tập quán 10 tại địa phương như: - Tết dương lịch (ngày 01 tháng 01 hàng năm); - Tết nguyên đán; - Ngày lễ 30 tháng 4 hàng năm; - Ngày Quốc tế lao động (mồng 01 tháng 5 hàng năm); - Ngày Quốc khánh (mồng 2 tháng 9 hàng năm); - Ngày thứ 7 hàng tuần; - Ngày chủ nhật hàng tuần. - Ngày 22 tháng 12 hàng năm... Tuy nhiên, nếu thấy cần thiết phải ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án, thì chấp hành viên vẫn có thể tiến hành việc cưỡng chế vào ngày nghỉ đối với người phải thi hành án. Trường hợp này, chấp hành viên phải ghi rõ lý do phải cưỡng chế vào thời gian đó vào biên bản, đồng thời biên bản phải có xác nhận của người chứng kiến việc cưỡng chế. 1.1.6. Hình thức thông báo việc cưỡng chế thi hành án Để thực hiện việc áp dụng biện pháp cưỡng chế, chấp hành viên phải ra quyết định cưỡng chế thi hành án. Quyết định cưỡng chế thi hành án được sử dụng theo mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp ban hành. Thủ tục thông báo quyết định phải chặt chẽ theo đúng thời hạn, hình thức thông báo mà pháp luật quy định, đảm bảo cho người phải thi hành án và những người theo quy định phải được thông báo quyết định cưỡng chế thi hành án phải nhận được thông báo. Ngoài thông báo quyết định cưỡng chế thi hành án, pháp luật quy định trước khi tiến hành cưỡng chế, cơ quan thi hành án ra thông báo cưỡng chế thi hành án với thời hạn, thủ tục chặt chẽ. Chấp hành viên phải thực hiện đầy đủ các thủ tục này. 11 1.1.7. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự Điều 71 luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định sáu biện pháp cưỡng chế thi hành án mà chấp hành viên có quyền áp dụng sau đây: 1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế thi hành án, do cơ quan Thi hành án áp dụng khi người phải thi hành án có trách nhiệm thi hành nghĩa vụ trả tiền theo Bản án, Quyết định của Tòa án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có tài khoản, hoặc khoản tiền, giấy tờ có giá tự nguyện thi hành. 2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế thi hành án, do cơ quan Thi hành án áp dụng khi người phải thi hành án có trách nhiệm thi hành nghĩa vụ trả tiền theo Bản án, Quyết định của Tòa án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có thu nhập tương đối ổn định. Để đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người phải thi hành án và những người theo quy định pháp luật người phải thi hành án có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng nhưng người phải thi hành án không tự nguyện thi hành. 3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ, là biện pháp cưỡng chế thi hành án do cơ quan thi hành án áp dụng khi người phải thi hành án có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành. 4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án là biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án có tài sản nhưng tài sản của người phải thi hành án có giá trị quá lớn so với nghĩa vụ phải thi hành, tài sản của 12 người phải thi hành án có thể khai thác được để thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định. 5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ là một biện pháp cưỡng chế thi hành án, do cơ quan thi hành án áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dung trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án, đã hết thời gian tự nguyện mà không tự nguyện thi hành. 6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định là một biện pháp cưỡng chế thi hành án, do cơ quan thi hành án áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có trách nhiệm thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi, công việc theo bản án, quyết định của tòa án, đã hết thời gian tự nguyện nhưng không tự nguyện thi hành. 1.1.8. So sánh các biện pháp cưỡng chế trong Luật Thi hành án dân sự Để làm sáng tỏ và rõ nét lên được sự khác biệt cũng như sự giống nhau của biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án với các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự khác tôi xin đưa ra bảng so sánh dưới đây theo Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014: Biện pháp buộc ngƣời phải Sô thứ tự Tiêu chí so sánh Biện pháp thi hành trừ vào thu án thực nhập của hiện hoặc ngƣời phải không thi hành án đƣợc thực hiện công việc nhất Biện pháp Biện pháp kê biên, xử buộc Biện pháp lý tài sản chuyển khai thác của ngƣời giao vật, tài sản của phải thi chuyển ngƣời hành án, kể giao quyền phải thi cả tài sản tài sản, hành án đang do giấy tờ ngƣời thứ ba giữ định 13 Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của ngƣời phải thi hành án Đối 0 tượng 1 hướng Thu nhập Hành vi Tài sản, giấy tờ Tài sản Tài sản Tài khoản, tài sản đến người phải thi hành án có thu nhập tương đối ổn định. Để đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người phải 2 Tính thi hành án chất của và những 0 đối người theo tượng quy định hướng pháp luật đến người phải thi hành án có nghĩa vụ Hành vi buộc người Tài sản, Tài sản, phải thi giấy tờ này này chắc hành án chưa chắc chắn phải phải trực thuộc sở thuộc sở tiếp thực hữu của hữu của hiện hoặc người phải người phải không thực thi hành án thi hành án hiện Tài sản, này chắc chắn phải thuộc sở hữu của người phải thi hành án hoặc người bảo lãnh Tài sản, tài khoản này chắc chắn phải thuộc sở hữu của người phải thi hành án nuôi dưỡng, cấp dưỡng thì khi thực hiện trừ vào thu nhập của người phải thi hành án 3 0Người Chấp hành Chấp hành Chấp hành Chấp hành Chấp hành Chấp hành áp dụng viên viên viên viên viên viên Quyết định Quyết định Quyết định Quyết đinh Quyết định Quyết định Hình thức 0 văn 4 bản áp dụng 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan