Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM
:Ngân hàng thương mại
NHNN
:Ngân hàng Nhà nước
NHNo&PTNT
:Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
CVTD
:Cho vay tiêu dùng
UTĐT
:Ứng trước đầu tư
WB
:Ngân hàng thế giới
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1: Tỷ lệ tăng trưởng GDP và thu nhập bình quân đầu người của Việt
Nam giai đoạn 2001-2006
Bảng1. 2: Cho vay tiêu dùng với các hộ gia đình bằng đồng nội tệ
Bảng 1.3: Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng
Bảng 2.4: Tình hình huy động vốn qua các năm của chi nhánh
Bảng 2.5: Phân loại dư nợ theo tính chất nguồn vốn của chi nhánh
Bảng 2.6: Phân loại dư nợ theo thành phần kinh tế
Bảng 2.7: Kết quả tài chính qua các năm
Bảng 2.8: Sự biến động của hoạt động cho vay tiêu dùng qua các năm
Bảng 2.9: Doanh số cho vay tiêu dùng theo mục đích vay vốn
Bảng 2.10: Doanh số cho vay tiêu dùng phân theo thời gian
Bảng 2.11: So sánh mức tăng trưởng GDP năm 2004 giữa các nước trong khu
vực
Bảng 3.12: Kế hoạch huy động vốn tại chi nhánh năm 2007
Bảng 3.13: Kế hoạch sử dụng vốn tại chi nhánh năm 2007
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Thật khó tưởng tượng ra một nền kinh tế nào đó không có sự hiện
diện của hệ thống ngân hàng thương mại. Ngày nay, cùng với sự phát triển
của kinh tế thì vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại càng được khẳng
định. Vai trò này đặc biệt được khẳng định trong việc thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế. Các hoạt động của ngân hàng thương mại không ngừng được
mở rộng và phát triển cả về mặt lượng và mặt chất. Trong các hoạt động đó có
thể nói hoạt động cho vay là hoạt động truyền thống và quan trọng vào bậc
nhất của các ngân hàng thương mại.Không có bất kì ngân hàng nào trên thế
giới mà không thực hiện hoạt động truyền thống này. Thông qua hoạt động
cho vay của mình các ngân hàng thương mại đã góp phần cung ứng vốn cho
sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động cho vay được xem như là một đặc
trưng nổi bật nhất của ngân hàng thương mại. Đây là hoạt động mang lại lợi
nhuận cao nhất cho ngân hàng, nhưng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi
ro nhất trong hoạt động của ngân hàng. Cho vay tiêu dùng là hình thức cho
vay phổ biến của các ngân hàng thương mại. Đây là hình thức cho vay bắt
nguồn từ các hãng bán lẻ trước yêu cầu mở rộng việc tiêu thụ hàng hoá. Tuỳ
theo từng ngân hàng thương mại, từng thời điểm và từng chiến lược của mỗi
ngân hàng mà tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong dư nợ của các ngân hàng là
khác nhau. Hiện nay trên thế giới, cho vay tiêu dùng là một hình thức cho vay
khá phổ biến và chiếm tỷ trong cao trong tổng dư nợ của các ngân hàng
thương mại (tại các nước phát triển nó có thể chiếm từ 40-50% tổng dư nợ).
Dựa trên nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận, mở rộng cho vay tiêu dùng là nhu
cầu của mọi ngân hàng thương mại nói chung và hệ thống NHNo& PTNT
Việt Nam nói riêng.
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Là một chi nhánh mới được thành lập trên cơ sở tổ chức sắp xếp lại
phòng giao dịch Định Công năm 2003, chi nhánh NHNo& PTNT Định Công
là đơn vị phụ thuộc NHNo& PTNT Thăng Long. Tuy mới đi vào hoạt động
với tư cách là chi nhánh cấp 2 loại 4 được 4 năm nhưng chi nhánh Định Công
đã khẳng định được vai trò là trung gian tài chính quan trọng trên địa bàn. Chi
nhánh luôn cung cấp những khoản cho vay an toàn và hiệu quả góp phần tích
cực vào sự phát triển của địa bàn cũng như sự phát triển chung của thủ đô Hà
nội. Cho vay tiêu dùng luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ của chi
nhánh Định Công, thậm chí có năm nó chiếm tới hơn 70% tổng dư nợ của chi
nhánh. Tuy nhiên hiện nay chi nhánh vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay của
người tiêu dùng trên địa bàn, vì vậy việc mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi
nhánh là vô cùng cần thiết. Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh Định
Công cùng với những kiến thức em được tiếp thu trong truờng, em lựa chọn
đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh
NHNo& PTNT Đinh Công” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Việc nghiên cứu cho luận văn của em được tiến hành tại chi nhánh
NHNo& PTNT Định Công, có trụ sở tại nhà CT5, khu đô thị Định Công,
Thanh Trì, Hà Nội. Thông qua phương pháp nghiên cứu phân tích, so sánh,
thống kê, bảng biểu của các năm 2004; 2005; 2006, em muốn đưa ra những lí
luận chung cũng như ý kiến của mình nhằm mở rộng hơn hoạt động cho vay
tiêu dùng của chi nhánh Định Công.
Luận văn của em gồm 3 phần, ngoài phần mở đầu và phần kết luận,
phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về ngân hàng thương mại và hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Tình hình cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo&
PTNT Định Công.
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại
chi nhánh NHNo& PTNT Định Công.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngân hàng- tài
chính, đặc biệt là GS- TS Nguyễn Văn Nam đã dành nhiều tâm huyết giúp đỡ
cũng như chỉ bảo em trong thời gian thực tập và thời gian làm luận văn tốt
nghiệp.
Đồng thời em cũng xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ công nhân
viên chi nhánh NHNo& PTNT Định Công, đặc biệt là những cán bộ tín dụng
tại phòng tín dụng của chi nhánh đã tận tình chỉ bảo em trong suốt thời gian
thực tập của em tại chi nhánh.
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM
1.1.1. Lịch sử hình thành NHTM
Nói tới ngân hàng thương mại là nói đến một trung gian quan trọng
vào bậc nhất của nền kinh tế. Hiện nay ngân hàng là một cụm từ quen thuộc
của mọi người nhưng không phải ai cũng viết về lịch sử hình thành của
ngành ngân hàng.
Ngân hàng ra đời gắn liền với nhu cầu phát triển của nền sản xuất
hàng hoá. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng và sự phát triển của nền
kinh tế có sự tác động qua lại lẫn nhau, sự phát triển của nền kinh tế thúc đẩy
và đặt ra yêu cầu cho sự ra đời của ngân hàng. Sự ra đời của ngân hàng lại
giúp cho sự phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của tiền tệ. Việc đổi
tiền hay đúc tiền của các thợ vàng được coi là nguồn gốc của sự ra đời ngành
ngân hàng hiện nay. Những người cho vay nặng lãi cũng là nguồn gốc cho sự
ra đời của nghề ngân hàng. Lịch sử ra đời của ngân hàng luôn gắn liền với
việc cho vay nặng lãi của những người giàu có, những người này đồng thời
cũng làm luôn việc đổi tiền. Yêu cầu về sự an toàn cho các khoản tiền lớn
làm phát sinh thêm nghề cất trữ tiền, việc này cũng thường do những người
thực hiện việc đổi tiền đảm nhận. Có thể gọi những người này là những người
kinh doanh tiền tệ. Nghiệp vụ cho vay được những người kinh doanh ngoại tệ
thực hiện từ rất sớm, ban đầu họ dùng vốn tự có để cho vay nhưng sau đó họ
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
nhận ra rằng có một số người có nhu cầu gửi tiền và sau một thời gian thì họ
rút tiền ra. Tuy nhiên không phải mọi người gửi tiền đều rút tiền cùng một
lúc, do vậy luôn có một số tiền nhất định tam thời “nhàn rỗi”, tận dụng điều
này những người kinh doanh tiền tệ có thể lấy số tiền đó cho những người có
nhu cầu vay vốn vay. Đây là những hoạt động sơ khai góp phần hình thành
nên ngành ngân hàng.
1.1.2. Lịch sử phát triển của NHTM
Với hình thức ngân hàng đầu tiên là ngân hàng của những người thợ
vàng hay những người cho vay nặng lãi, lịch sử phát triển của ngân hàng bặt
đầu được hình thành. Trải qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử với sự sụp
đổ và phát triển, ngân hàng ngày càng khẳng định vị thế không thể thay thế
của nó trong nền kinh tế.
Ban đầu khi các ngân hàng của những thợ vàng hay những người cho
vay nặng lãi được hình thành, họ chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ giản đơn
của ngân hàng như: Nhận tiền gửi, cho vay phục vụ tiêu dùng, cất trữ tiền.
Sau đó các ngân hàng này cũng phát triển thêm hình thức cho vay với những
người giàu có, vua chúa với mục đích không phải là tiêu dùng như phục vụ
chiến tranh. Hình thức cho vay lúc này là thấu chi, tức là cho phép người vay
vay nhiều hơn số tiền mà họ gửi tại ngân hàng. Điều này gây ra rủi ro cho
ngân hàng. Các ngân hàng này sau một thời gian hình thành và phát triển thì
đứng trước nguy cơ sụp đổ vì các ngân hàng thường mất khả năng thanh toán
do việc phát hành những chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay.
Sau sự sụp đổ của ngân hàng của thợ vàng hay những người cho vay
nặng lãi thì ngân hàng của những người lái buôn ra đời. Trước nhu cầu vay
vốn để buôn bán, nhu cầu thanh toán, ngân hàng lái buôn ra đời. Hình thức
ngân hàng này được gọi là ngân hàng thương mại. Như vậy ngân hàng
thương mại ra đời cùng với tư bản thương nghiệp và sự luân chuyển của tư
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
bản thương nghiệp. Lúc này các nghiệp vụ ngân hàng cũng được mở rộng hơn
so với hình thức ngân hàng trước: Nhận tiền gửi, thanh toán, cất giữ, cho vay.
Hình thức cho vay lúc này không phải là hình thức thấu chi như trước mà chủ
yếu là cho lái buôn vay để thực hiện việc buôn bán của họ dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu. Hình thức cho vay này là hình thức cho vay ngắn
hạn, nó được hình thành trên cơ sở sự luân chuyển của hàng hoá. Vào thời
điểm này các ngân hàng vẫn không dám cho vay tiêu dùng vì độ rủi ro cao
của nó, hình thức cho vay vẫn chủ yếu là cho vay ngắn hạn, những khoản vay
trung va dài hạn hầu như không tồn tại. Hình thức ngân hàng thương mại đầu
tiên này sau một thời gian hoạt động và phát triển thì nhiều ngân hàng rơi và
tình trang phá sản, sụp đổ. Sự sụp đổ này ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát
triển của nền kinh tế. Sau đó nhiều hình thức ngân hàng thương mại khác
được thành lập như ngân hàng đầu tư, ngân hàng phát triển… Các ngân hàng
này chủ yếu thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ. Cùng thời gian này cũng
đánh dấu sự ra đời của ngân hàng Nhà nước, ngoài chức năng kinh doanh tiền
tệ như các ngân hàng thương mại khác thì loại hình ngân hàng quan trọng này
còn có chức năng xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Nền kinh tế từng bước phát triển kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ đã tạo điều kiện cho sự ra đời của nhiều hình thức ngân hàng
thương mại khác nhau như: Ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân
hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng liên doanh…Bước tiến bộ vượt bậc
của giai đoạn so với giai đoạn trước là sự tách biệt rõ ràng giữa ngân hàng
Nhà nước( Ngân hàng trung ương) với các ngân hàng thương mại khác. Hình
thức hoạt động lúc này của các ngân hàng thương mại cũng được mở rộng
không ngừng.
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
1.2. Chức năng của NHTM
Ngân hàng thương mại hoạt động với vai trò là định chế tài chính quan
trọng, vai trò và chức năng của ngân hàng thương mại ngày càng được mở
rộng. Có thể tóm tắt chức năng của ngân hàng thương mại theo 3 chức năng
chính như sau:
1.2.1. Chức năng làm trung gian tài chính
Đây là chức năng thể hiện rõ nét nhất đặc điểm của ngân hàng thương
mại- một trung gian tài chính. Thực hiện chức năng này tức là ngân hàng
đóng vai trò là người trung gian giúp chuyển vốn từ những đối tượng tạm thời
dư vốn đến những người thiếu hụt vốn và có nhu cầu vay vốn. Sự tồn tại của
ngân hàng thương mại là vô cùng cần thiết vì sự hai đối tượng trên nếu quan
hệ trực tiếp với nhau thì gặp rất nhiều trở ngại về không gian, thời gian…
1.2.2. Chức năng làm trung gian thanh toán
Ngay từ khi có sự hình thành của hình thức ngân hàng thương mại đầu
tiên- Ngân hàng của những người lái buôn, ngân hàng thương mại đã có chức
năng này. Ngày này,ngân hàng thương mại trở thành trung gian thanh toán
quan trọng và có qui mô lớn nhất tại đa số các quốc gia trên thế giới. Thực
hiện chức năng này nghĩa là ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng của mình
thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ cho ngưòi cung cấp. Hiện nay các ngân
hàng thương mại không chỉ thực hiện chức năng thanh toán hộ cho khách
hàng mà còn thực hiện việc thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng thông qua
ngân hàng trung ương hay thông qua các trung tâm thanh toán. Thực hiện
hình thức thanh toán này các ngân hàng thương mại hiện nay thường sử dụng
phương pháp thanh toán thủ công hay thanh toán điện tử (Phổ biến hiện nay).
1.2.3. Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Ngay từ khi tồn tại hình thức ngân hàng của những thợ vàng, các
ngân hàng đã tạo ra những phương tiện thanh toán bằng việc phát hành ra
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
những giấy nhận nợ với khách hàng. Những giấy nhận nợ này được phát hành
dựa trên số lượng tiền kim loại mà các ngân hàng này nắm giữ, nhưng sau đó
các giấy nhận nợ này đi vào lưu thông thể hiện được những ưu điểm vượt trội.
Các giấy nhận nợ này dần thay thế cho tiền kim loại cả trong thanh toán lẫn
cất trữ và tiền giấy ra đời từ đó.
Nhận thấy việc phát hành ra tiền giấy mang lại một khoản lợi nhuận
khổng lồ, các ngân hàng đua nhau phat hành tiền riêng của ngân hàng của
mình. Việc đua nhau phát hành tiền của các ngân hàng làm rối loạn nền kinh
tế dẫn tới Nhà nước phải qui định việc phát hành tiền giấy cho ngân hàng
Trung ương( Tại một số nước thì việc này được giao cho Bộ tài chính).
Ngân hàng hiện nay thực hiện chức năng tạo phương tiện thanh toán
bằng việc tạo ra những số dư trên tài khoản của khách hàng, qua đó khách
hàng có thể sử dụng số dư này thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ cho nhà cung
cấp. Ngân hàng có thể tạo ra số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng bằng cách cho khách hành vay tiền. Như vậy thông qua hoạt động
cho vay của mình hay cấp tín dụng cho khách hàng ngân hàng đã thực hiện
chức năng tạo phương tiện thanh toán.
2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
2.1. Các hình thức cho vay của NHTM
2.1.1. Định nghĩa về cho vay
Có khá nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại.
Trong cuốn Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, FREDERIC
S.MISHKIN đã cho rằng, cho vay là món nợ đối với cá nhân hoặc công ty
nhận món vay đó, nhưng là một tài sản có đối với ngân hàng vì nó mang lại
lợi nhuận cho ngân hàng này.
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Trong cuốn Ngân hàng thương mại, PGS. TS PHAN THỊ THU HÀ cho
rằng, cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Trong cuốn Nghiệp vụ ngân hàng thương mại do PGS.TS LÊ VĂN TỀ
chủ biên, nhóm tác giả cũng đã đưa ra định nghĩa về hoạt động tín dụng của
ngân hàng như sau: “ Tín dụng (Credit) xuất phát từ chữ La tinh là Credo (tin
tưởng, tín nhiệm) là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên
cho vay (ngân hàng hay các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân,
doanh nghiệp hoặc các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài
sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên
đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay
khi đến hạn thanh toán”.
Qua việc tiếp nhận những định nghĩa cho vay của các tác giả trên, theo
em hiểu theo một nghĩa chung nhất thì cho vay là hoạt động tài trợ của ngân
hàng thương mại cho những nhu cầu vốn của khách hàng trên cơ sở nguyên
tắc hoàn trả,có thời hạn và có lãi.
2.1.2. Các hình thức cho vay của NHTM
Hiện nay tại các ngân hàng thương mại tồn tại nhiều loại hình cho vay
khác nhau, các loại hình này được phân loại ra thành từng nhóm phù hợp với
nhu cầu của khách hàng cũng như giúp ngân hàng quản lí các khoản vay dễ
dàng hơn. Việc phân chia các loại cho vay chính là việc sắp xếp các khoản
vay theo tùng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định.
Tuỳ theo từng ngân hàng mà tồn tại các cách phân loại cho vay khác
nhau, nhưng nhìn chung hiện nay tồn tại các các cách phân loại sau:
2.1.2.1. Căn cứ theo thời hạn cho vay
Theo tiêu thức này các ngân hàng chia cho vay ra thành 3 loại chính:
Cho vay ngắn hạn
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Hình thức cho vay này có thời hạn vay dưới 12 tháng, bổ sung sự thiếu
hụt vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp cũng như nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân. Với hình thức cho vay này, ngân hàng có thể áp dụng
hình thức cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp, cho vay theo món, cho vay
theo hạn mức, cho vay có tài sản đảm bảo, cho vay không cần tài sản đảm
bảo, thấu chi, chiết khấu hay luân chuyển.
Cho vay trung hạn
Tuỳ theo từng quốc gia mà có cách quy định về thời hạn cho vay trung
hạn khác nhau. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay
trung hạn có thưòi hạn từ trên 1 năm cho tới 5 năm. Cho vay trung hạn
thường được dùng để tài trợ cho việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải
tiến kĩ thuật, mua công nghệ sản xuất…
Cho vay dài hạn
Theo những quy định chung thì cho vay dài hạn có thời hạn là trên 5
năm, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà có quy định về thời gian tối đa của
khoản vay. Các khoản cho vay dài hạn dùng tài trợ cho những nhu cầu vốn
dài hạn như xây nhà, mua các thiết bị, công nghệ cần vốn có qui mô lớn, xây
nhà máy sản xuất mới.
2.1.2.2. Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Theo căn cứ này ta có thể chia cho vay ra thành 2 loại:
Cho vay có tài sản đảm bảo
Với hình thức này ngân hàng yêu cầu khách hàng của mình khi nhận
vốn vay từ ngân hàng cần có tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo của khách
hang có thể được thực hiện dưới dạng cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh của
người thứ ba. Tài sản đảm bảo giúp cho ngân hàng hạn chế những rủi ro có
thể xảy ra và giúp cho ngân hàng bù đắp được phần nào tổn thất khi khách
hàng không hoàn thành được nghĩa vụ với ngân hàng. Vì sự đảm bảo này có
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
cơ sở pháp lý nên ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai nếu như nguồn thu nợ
thứ nhất không được khách hàng thực hiện.
Cho vay không có tài sản đảm bảo
Việc yêu cầu tài sản đảm bảo có thể giúp ngân hàng hạn chế được
những rủi ro xảy ra, nhưng có nhiều trường hợp tài sản đảm bảo lại làm hạn
chế việc khách hàng tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng. Trong một số
trường hợp đặc biệt ngân hàng có thể cấp tín dụng cho khách hàng mà không
đòi hỏi tài sản đảm bảo. Với hình thức này, tức là khách hàng không cần thực
hiện việc cầm cố, thế chấp hay không cần sự bảo lãnh của người thứ ba. Cho
vay không cần tài sản đảm bảo chủ yếu áp dụng cho những khách hàng có uy
tín, có quan hệ lâu năm với ngân hàng.
2.1.2.3. Căn cứ theo hình thức cho vay
Theo căn cứ này, ta có thể chia cho vay ra thành 2 loại:
Cho vay trực tiếp với khách hàng
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với
khách hàng. Với hình thức này, khách hàng có nhu cầu vay vốn được ngân
hàng trực tiếp giao vốn kèm theo một hợp đồng tín dụng, trong đó qui định rõ
số tiền và thời hạn mà khách hàng này phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho ngân
hàng.
Cho vay gián tiếp
Đây là hình thức cho vay mà ngân hàng không trực tiếp giao vốn cho
khách hàng. Việc cho vay của ngân hàng được thực hiện thông qua các tổ
chức trung gian. Hiện nay tại Việt Nam các tổ chức trung gian thường là các
tổ, đội, nhóm, hội(phụ nữ, nông dân…), nhóm sản xuất… Các tố chức trung
gian này thường có các thành viên hoạt động theo những tiêu chí chung. Ngân
hàng thực hiện việc cho vay theo tổ, tức là đã chuyển một số bước trong tiến
trình cho vay cho các tổ này như: Phát tiền cho vay, thu nợ gốc và lãi khi đến
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
hạn,…Ngoài ra với hình thức cho vay gián tiếp này ngân hàng có thể áp dụng
cho các hãng sản xuất, hãng bán lẻ.
Bên cạnh các căn cứ trên, nhiều ngân hàng còn có nhiều căn cứ khác để
phân loại cho vay như: Căn cứ vào loại tiền vay, có thể chia thành cho vay
bằng nội tệ, cho vay bằng ngoại tệ; Căn cứ vào đối tượng vay, có thể chia
thành cho vay với Nhà nước, cho vay với tổ chức tín dụng, cho vay với doanh
nghiệp, cho vay với hộ gia đình, cho vay với cá nhân; Căn cứ vào mục đích
vay, có thể chia thành cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh; Căn cứ vào
các ngành kinh tế, có thể chia thành cho vay công nghiệp-thương mại, cho
vay nông nghiệp và cho vay xuất nhập khẩu…
Việc phân chia các hình thức cho vay này có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc quản lý các khoản vay của ngân hàng. Tuỳ theo từng đặc thù
riêng mà các ngân hàng có các tiêu chí phân chia khác nhau.
2.2. Hình thức cho vay tiêu dùng của các NHTM
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển hình thức cho vay tiêu dùng tại
NHTM
Sự ra đời của hệ thống các ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát
triển của nền kinh tế hàng hoá. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
cũng không ngừng được mở rộng và phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Các hình thức ngân hàng thương mại đầu tiên với nghiệp vụ truyền thống là
cho vay ngắn hạn, đã góp phần cung ứng vốn phục vụ sự phát triển của nền
kinh tế. Cùng với nhu cầu về nguồn vốn trung và dài hạn, cũng như khả năng
quản trị rủi ro của các ngân hàng được nâng cao, các ngân hàng thương mại
đã “mạnh dạn” mở rộng các hình thức tín dụng trung và dài hạn. Nhưng cũng
chính vì tập trung vào hình thức tín dụng mới mẻ và hứa hẹn mang lại nguồn
lợi nhuận lớn này, mà các ngân hàng thương mại đã “bỏ quên” một mảng hoạt
động cũng mang lại nguồn lợi nhuận không nhỏ - Cho vay tiêu dùng.
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Vào những năm 40 của thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến nhiều sự
biến đổi lớn, hệ thống ngân hàng cũng có những bước thăng trầm. Sự ra đời
và phát triển của các tổ chức trung gian phi ngân hàng đã làm cho phạm vi
hoạt động của các ngân hàng thương mại bị thu hẹp lại. Trước sức ép cạnh
cạnh cũng như mong muốn sinh tồn và phát triển, các ngân hàng thương mại
phải mở rộng phạm vi hoạt động ra những khu vực trước đây các ngân hàng
“e ngại”. Nếu như trước đây các ngân hàng cho rằng cho vay tiêu dùng với
những món vay nhỏ vụn, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cao sẽ không thể mang lại
nguồn lợi nhuận mong đợi cho ngân hàng, thì bây giờ các ngân hàng đã khẳng
định cho vay tiêu dùng là một thế mạnh và tập trung khai thác.
Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế làm cho đời sống của con
người không ngừng được cải thiện, thu nhập của người dân tăng lên. Nếu như
trước đây đời sống khó khăn nhu cầu của con người chỉ dừng lại ở những mặt
hàng thiết yếu phục vụ cho cuộc sống, thì ngày nay nhu cầu đó được nâng lên
thành những mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hơn: Mua ô tô, mua nhà, du lịch…Đây
chính là cơ hội cho các ngân hàng phát triển hình thức tín dụng tiêu dùng, bởi
vì không phải lúc nào nguồn tài chính của con người cũng đủ để họ thoả mãn
những nhu cầu tiêu dùng trên. Thu nhập của người dân ổn định và không
ngừng được cải thiện đã làm cho tín dụng tiêu dùng không còn là “khu vực
nguy hiểm”, chứa đựng nhiều rủi ro cho các ngân hàng như trước đây nữa, vì
thu nhập của người vay chính là nguồn trả nợ chính cho các khoản vay tiêu
dùng.
Thực tế hiện nay trên thế giới, cho vay tiêu dùng đã trở thành hình thức
tín dụng quan trọng vào bậc nhất và mang lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho
các ngân hàng. Các cường quốc lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Nga, Đức… hiện
cho vay tiêu dùng thường chiếm từ 40-60% tổng dư nợ của các ngân hàng.
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Tại Việt Nam, cho vay tiêu dùng mới chỉ xuất hiện cách đây khoảng 15
năm và vẫn là hình thức tín dụng khá mới mẻ với các ngân hàng thương mại.
Tuy vậy với dân số hơn 80 triệu người và sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế, đã hứa hẹn Việt Nam sẽ là thị trường “màu mỡ” cho các ngân hàng
phát triển hình thức tín dụng tiêu dùng.
2.2.2. Định nghĩa cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay của ngân hàng thương mại
nhằm tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
Trong hai thập kỷ vừa qua cho vay tiêu dùng có xu hướng tăng lên, do
vậy có thể so sánh nó với các khoản vay có mục đích sản xuất hoặc các
nghiệp vụ tài sản có khác của một ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ khá phổ biến của ngân hàng, đây
là hình thức tài trợ mang lại lợi nhuận khá lớn cho ngân hàng. Tuy vậy không
phải ngân hàng nào cũng tích cực mở rộng hình thức cho vay này, điều này
được lý giải thông qua các đặc điểm của hình thức cho vay tiêu dùng.
2.2.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
Ta có thể tóm tắt những đặc điểm của cho vay tiêu dùng thành 4 đặc
điểm như sau:
2.2.3.1. Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có độ rủi ro cao
Như đã nói ở trên cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ của ngân hàng
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Do vậy khả năng thu hồi lại
nợ vay của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào khả năng tài chính, sức khoẻ…
của người vay. Nếu người vay bị chết, bị ốm hay bị mất việc thì ngân hàng sẽ
rất kho thu hồi được món vay.
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
2.2.3.2. Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có mức lãi suất cao trong
khung lãi suất của NHTM
Chính vì độ rủi ro tiềm ẩn rất cao, ảnh hưởng tới sự an toàn của hoạt
động của ngân hàng, mà khách hàng muốn nhận tài trợ theo hình thức cho vay
tiêu dùng phải chịu mức lãi suất khá cao. Mức lãi suất này giúp đảm bảo cho
ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro và đảm bảo thu nhập trong những
trường hợp có sự cố ngoài ý muốn xảy ra.
2.2.3.3. Các khoản cho vay tiêu dùng thường có giá trị nhỏ nhưng số lượng
các khoản vay nhiều
Do cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ cho hoạt động tiêu dùng của
khách hàng nên giá trị thường nhỏ, vụn vặt. Tuy nhiên do nhu cầu tiêu dùng
của người dân ngày càng tăng do nền kinh tế không ngừng phát triến, nên nhu
cầu về các khoản vay tiêu dùng là rất lớn. Chính điều này cũng làm cho ngân
hàng phải bỏ ra một khoản chi phí không phải là nhỏ khi tiến hành hoạt động
cho vay tiêu dùng.
2.2.3.4. Các khoản cho vay tiêu dùng mang lại lợi nhuận khá lớn cho các
ngân hàng
Như đã nói ở trên, cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có mức lãi
suất cao trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng, mặt khác số lượng
khách hàng của hình thức cho vay này lại nhiều nên đây là hình thức tài trợ
mang lại nguồn lợi nhuận cao cho ngân hàng.
2.2.4. Cơ sở cho vay tiêu dùng
Vào thời kì đầu đa phần các ngân hàng đều không dám cho vay tiêu
dùng vì mức độ rủi ro tiềm ẩn và phức tạp của hình thức tín dụng này. Ngày
nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và công nghệ thì cho vay
tiêu dùng trở thành hình thức cho vay phổ biến được các ngân hàng áp dụng.
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
Vậy cơ sở của hình thức này là thế nào mà các ngân hàng thay vì hạn chế đã
mở rộng hình thức cho vay này?.
2.2.4.1. Do nhu cầu về hàng tiêu dùng tăng nhanh
Sự phát triển của kinh tế và công nghệ dẫn đến đời sống của cong
người được cải thiện đáng kể. Con người hiện nay có nhu cầu rất lớn về hàng
tiêu dùng: nhu cầu về nhà ở, nhu cầu về phương tiện vận tải, nhu cầu về may
mặc…Những nhu cầu này con người không thể đủ khả năng tài chính ở hiện
tại để thoả mãn và yêu cầu phải có một nguồn tài chính đủ lớn để đáp ứng
những nhu cầu kia của con người. Việt Nam- một nước có nền kinh tế đang
phát triển, là một thị trường đầy tiềm năng của hoạt động cho vay tiêu dùng.
Tốc độ tăng trưởng hàng năm luôn dẫn đầu các nước trong khu vực Đông
Nam Á và cao thứ hai Châu Á (Chỉ sau Trung Quốc) làm cho thu nhập bình
quan đầu người của Việt Nam không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Bảng1.1: Tỷ lệ tăng trưởng GDP và thu nhập bình quân trên đầu
người của Việt Nam giai đoạn 2001-2006
GDP(%)
GDP/Đầu người(USD)
2001
6.84
415
2002 2003 2004 2005 2006
7.04
7.34
7.69
8.4
7.8
439
481
514
638
754
(Nguồn: www.mekongcapital.com)
Thu nhập gia tăng và ổn định chính là cơ sở quan trọng nhất để các
ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của mình
2.2.4.2. Do lợi nhuận của các khoản cho vay tiêu dùng
Trước đây khi công nghệ chưa phát triển, qui mô nguồn vốn còn hạn
chế, những biện pháp phòng ngừa rủi ro chưa được hoàn thiện, các ngân hàng
không chú ý đến cho vay tiêu dùng. Ngày nay cùng với sự cạnh tranh trên thị
trường tài chính, các ngân hàng đã chú trọng đến cho vay tiêu dùng hơn. Cho
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
vay tiêu dùng mang lại cho ngân hàng một khoản lợi nhuận lớn nên càng
khuyến khích các ngân hàng mở rộng hơn nữa hình thức cho vay này.
2.2.4.3. Do rủi ro của hoạt động cho vay tiêu dùng đã được hạn chế
Một cản trở làm cho các ngân hàng không muốn mở rộng hình thức
cho vay tiêu dùng là mức độ rủi ro của nó. Có thể nói cho vay tiêu dùng là
hình thức cho vay có mức độ rủi ro cao nhất trong các hình thức cho vay của
ngân hàng. Mức độ rủi ro của nó làm cho các ngân hàng rất ngần ngại trong
khi nhu cầu tiêu dùng của khách hàng thì không ngừng gia tăng. Nhưng ngày
nay với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế, thu nhập của con người cũng
tăng lên và khá ổn định. Vì thu nhập của khách hàng chính là cơ sở để trả nợ
các khoản vay tiêu dùng nên hiện nay các khoản cho vay tiêu dùng của ngân
hàng, do vậy rủi ro của các khoản vay này cũng được hạn chế. Mặt khác hiện
nay các ngân hàng đều áp dụng những công nghệ hiện đại trong việc quản lí
các khoản cho vay ngay từ khâu thấm định hồ sơ vay vốn của khách hàng nên
đã hạn chế được tối đa rủi ro của các khoản cho vay tiêu dùng.
2.2.4.4. Do sự canh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng
Sự ra đời nhanh chóng và lớn mạnh của rất nhiều ngân hàng mới làm
cho hệ thống ngân hàng thương mại được mở rộng. Trước đây khi chỉ có một
số ít ngân hàng thì sự cạnh tranh giữa các ngân hàng không diễn ra mạnh mẽ
và khốc liệt như hiện nay. Đặc biệt trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, quốc
tế hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các ngân hàng thương mại cần phải có
những chính sách mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh. Để đảm bảo sự tồn
tại và phát triển cho ngân hàng mình, các ông chủ ngân hàng đã không ngần
ngại đầu tư vào các lĩnh vức mà trước khi bị coi là “khu vực nguy hiểm” với
mức độ rủi ro cao như cho vay tiêu dùng.
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel (: 0918.775.368
2.2.5. Các hình thức cho vay tiêu dùng
Tuỳ theo các cách chia mà cho vay tiêu dùng có thể chia thành các hình
thức khác nhau.
2.2.5.1.Chia theo tài sản đảm bảo
Nếu theo tài sản đảm bảo có thể chia cho vay tiêu dùng ra làm hai loại
sau:
Cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo
Cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo
2.2.5.2. Chia theo hình thức tài trợ của ngân hàng
Nếu chia theo phương thức này có thể chia cho vay tiêu dùng thành hai
loại sau:
Cho vay trực tiếp cho khách hàng
Hình thức cho vay tiêu dùng này bao gồm có những phương thức sau:
Tín dụng trả theo định kỳ
Là phương thức, trong đó khách hàng vay và trả trực tiếp ngân hàng
với mức trả và thời hạn trả mỗi lần được qui định khi cho vay. Nếu được cấp
tiền vay , toàn bộ số tiền vay được ghi nợ tài khoản cho vay và ghi có tài
khoản tiền gửi cá nhân hoặc giao tiền mặt cho khách hàng.
Thấu chi
Là nghiệp vụ cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản vãng lai của
anh ta vượt mức số dư có, tới một hạn mức đã được thoả thuận
Cả hai loại tín dụng trên đều không cần ký hợp đồng vay mượn mà chỉ
cần thông qua thoả thuận nghiệp vụ với các nội dung: Hạn mức, lãi suất, yêu
cầu đảm bảo phí các loại, bảo hiểm (nếu có), thời điểm tái xét thời hạn có
hiệu lực của hạn mức, kỳ hạn nợ (nếu có).
Thẻ tín dụng
20