HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ VĂN HIẾU
CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ
Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
Mã số: 62 31 02 03
HÀ NỘI - 2020
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Trương Thị Thông
Phản biện 1:
............................................................
............................................................
Phản biện 2:
............................................................
............................................................
Phản biện 3:
............................................................
............................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2020
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn xây
dựng Đảng, lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam và tham
khảo kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản trên thế giới, Đảng chỉ ra cần xây dựng
Đảng vững mạnh trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng lý luận, tổ chức cán bộ và đạo
đức. Trong quá trình thực hiện các lĩnh vực xây dựng Đảng nói trên cần thấy được
mối quan hệ của các lĩnh vực cũng như sự tác động lẫn nhau của các lĩnh vực đó.
Với vai trò to lớn của ý thức xã hội nói chung cũng như của tư tưởng chính trị,
của lý luận cách mạng, nên xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, lý luận có vai
trò đặc biệt quan trọng. Để xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng thì phải thấy
được vai trò cực kì to lớn của công tác tuyên giáo (CTTG) - tư tưởng. CTTG có ý
nghĩa quan trọng, là vũ khí sắc bén trong toàn bộ quá trình hoạt động của Đảng, có
vai trò to lớn trong việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đưa đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đến với cán
bộ, đảng viên và nhân dân.
Đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc, với vị trí quan trọng của tổ chức cơ
sở đảng (TCCSĐ), của địa chính trị, địa kinh tế, quốc phòng, an ninh... càng phải
thường xuyên làm tốt, không ngừng tăng cường CTTG trong mọi giai đoạn cách
mạng. Lý luận và thực tiễn chứng minh, TCCSĐ luôn có vị trí, tầm quan trọng là gốc
rễ, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh đạo ở cơ sở, đảm bảo cho đường
lối của Đảng đi vào cuộc sống, đồng thời là cấp tổ chức trực tiếp tiến hành các hoạt
động xây dựng nội bộ Đảng.
Công tác tuyên giáo của đảng bộ xã luôn là vấn đề quan trọng, rất cần thiết
trong các thời kỳ cách mạng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. CTTG lại càng quan
trọng và cần thiết ở các xã thuộc các tỉnh biên giới nước ta nói chung và các xã ở các
tỉnh biên giới phía Bắc nước ta nói riêng. CTTG là lĩnh vực trọng yếu của công tác
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, góp phần quan trọng vào việc hình thành
cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn của Đảng; truyền bá hệ tư tưởng, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho quần chúng
nhân dân; khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tính chủ
động, sáng tạo của quần chúng nhân dân nhằm biến chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng
nhân dân. Bên cạnh đó, CTTG còn thể hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh
vực văn hóa, văn nghệ và khoa giáo, đảm bảo phát triển các lĩnh vực đó theo đúng
cương lĩnh, đường lối của Đảng trong từng thời kỳ.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó
lường; tình hình trong nước, trong tỉnh đặt ra nhiều khó khăn thách thức đặt ra yêu
cầu phải tăng cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã, công tác tuyên giáo phải
luôn chủ động đổi mới nội dung, phương thức theo hướng chủ động bám sát thực
tiễn, nắm chắc tình hình, linh hoạt, phù hợp từng đối tượng cụ thể... Tuy nhiên, so với
2
yêu cầu và nhiệm vụ công cuộc đổi mới và bảo vệ Tổ quốc những năm tới, CTTG
của các đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là
sự lúng túng trong nội dung, phương thức CTTG; cơ cấu tổ chức bộ máy ban tuyên
giáo; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo... và hệ quả là trong thực hiện đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước có mặt còn chưa ngang tầm với yêu
cầu nhiệm vụ đặt ra. Chính vì vậy, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá (CNH, HĐH) nông nghiệp và nông thôn, xây dựng nông thôn mới, yêu cầu
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ... ở các tỉnh biên giới phía
Bắc trong giai đoạn mới bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn không ít những khó
khăn, thách thức đòi hỏi các Đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc phải tăng
cường hơn nữa CTTG.
Với cách tiếp cận trên, tác giả chọn đề tài “Công tác tuyên giáo của đảng bộ
xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ,
chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tuyên giáo của
đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc, luận án đề xuất phương hướng và các giải
pháp khả thi tăng cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã các tỉnh biên giới phía
Bắc đến năm 2030.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu trong nước và nước ngoài
liên quan trực tiếp đến đề tài luận án; chỉ ra những kết quả, xác định những vấn đề
luận án kế thừa và tiếp tục nghiên cứu.
Hai là, làm rõ những vấn đề lý luận về công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở
các tỉnh biên giới phía Bắc gồm khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm, nội dung, phương
thức tiến hành công tác tuyên giáo…
Ba là, khảo sát, đánh giá thực trạng công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các
tỉnh biên giới phía Bắc, chỉ rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, kinh nghiệm.
Bốn là, đề xuất phương hướng và những giải pháp tăng cường công tác tuyên
giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các
tỉnh biên giới phía Bắc giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các hoạt động công
tác tuyên giáo của đảng bộ xã các tỉnh biên giới phía Bắc giai đoạn hiện nay.
- Về thời gian khảo sát: Luận án tiến hành khảo sát, đánh giá công tác tuyên
giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc từ năm 2010 đến nay, phương
hướng, giải pháp đề xuất có giá trị đến năm 2030.
- Về không gian nghiên cứu: Luận án tiến hành khảo sát công tác tuyên giáo tại
5 tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với tổng số 815 xã.
3
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác tuyên giáo được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết đại hội
Đảng, nghị quyết các hội nghị Trung ương…
4.2. Cơ sở thực tiễn
- Cơ sở thực tiễn của luận án là các báo cáo tổng kết công tác tuyên giáo từ
năm 2010 đến nay.
- Kết quả khảo sát thực trạng công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh
biên giới phía Bắc từ năm 2010 đến nay.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
- Luận án sử dụng phương pháp lịch sử, logic, phương pháp phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án làm rõ đặc điểm chủ thể lãnh đạo công tác tuyên giáo của đảng bộ xã
ở các tỉnh biên giới phía Bắc.
- Làm rõ nội hàm khái niệm công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên
giới phía Bắc.
- Một số kinh nghiệm công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới
phía Bắc
- Đề xuất giải pháp tăng cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh
biên giới phía Bắc đến năm 2030.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học - thực tiễn cho việc tăng
cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy
đảng, nhất là ở cơ sở.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập và
giảng dạy tại các trường chính trị tỉnh, thành phố, trung tâm bồi dưỡng chính trị
cấp huyện.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC TRONG NƯỚC
Luận án đã tổng quan các công trình sách, đề tài, báo, luận án, trong đó có một
số công trình tiêu biểu có liên quan đến đề tài luận án được khai thác: Đề tài khoa học
cấp Bộ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cấp xã ở các
tỉnh miền núi Tây Bắc nước ta - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Việt
Phương; Cuốn sách “Nâng cao chất lượng đảng bộ xã trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” của tác giả Dương Trung Ý; Cuốn
sách “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” của tác giả Võ Văn Đức, Đinh Ngọc Giang... Cuốn
sách “Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng” của tác giả Hà
Ngọc Hợi; Bài viết “Kết hợp hai chiều trong công tác tư tưởng ở cơ sở” của tác giả
Nguyễn Khắc Bộ; Cuốn sách “Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình
mới” của tác giả Phạm Tất Thắng; Cuốn sách “Công tác tư tưởng (sách chuyên
khảo)” của tác giả Đào Duy Quát; Cuốn sách “Nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác tư tưởng ở cơ sở” của các tác giả Ngô Huy Tiếp, Đinh Ngọc Giang; Công
trình, “Tính thuyết phục của công tác tư tưởng” của tác giả Nguyễn Đắc Hưng. Cuốn
sách “Nghiệp vụ tuyên giáo (dành cho cán bộ, tuyên giáo các cấp)” của tác giả Ngô
Văn Thạo; Bài viết “Làm gì để đổi mới công tác tuyên giáo” của tác giả Hà Đăng;
Công trình “Nâng cao chất lượng công tác điều tra, nắm bắt, nghiên cứu dư luận xã
hội phục vụ công tác tuyên giáo của Đảng” của tác giả Lâm Phương Thanh; Công
trình “Tăng cường đổi mới công tác báo cáo viên, tuyên truyền miệng đáp ứng yêu
cầu tình hình mới” của tác giả Bùi Thế Đức; Công trình “Nhân rộng mô hình, cách
làm sáng tạo trong công tác tuyên giáo ở cơ sở” của tác giả Phạm Thu Hà; Công
trình “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên giáo, đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới” của các tác giả Trần Doãn Tiến, Trần Viết Lưu; Cuốn sách “Công tác
tuyên giáo trước yêu cầu mới” của tác giả Bùi Thế Đức. Công trình “Tiếp tục đổi mới
công tác tuyên giáo, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới” của tác giả Mai Văn Ninh; Công trình “Cán bộ tuyên giáo và việc đào tạo nghề
tuyên giáo” của tác giả Nguyễn Minh Tuấn; Công trình “Toàn cầu hóa và những vấn
đề đặt ra đối với công tác tuyên giáo ở nước ta hiện nay” của tác giả Phạm Văn
Linh; Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học, “Đổi mới tổ chức và hoạt động của
ban tuyên giáo đảng ủy cấp xã ở nước ta hiện nay” của tác giả Phạm Văn Hiến;
Công trình “Nâng cao tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ tuyên giáo” của
tác giả Võ Văn Thưởng; Công trình “Cần nhận thức đúng về công tác tuyên giáo”
của tác giả Lương Ngọc Vĩnh; Công trình “Công tác tuyên giáo với xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh” của tác giả Bùi Thế Đức.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC NƯỚC NGOÀI
Luận án đã tổng quan các công trình liên quan đến vấn đề công tác tư tưởng,
lý luận và công tác tuyên truyền của Đảng, vấn đề về xây dựng tổ chức Đảng. Tiêu
biểu có những công trình: Bài viết “Đấu tranh chống hủ bại trong thời kỳ đổi mới
5
của cuộc cải cách và mở cửa ở Trung Quốc” của tác giả Điền Tâm Minh; Luận án
Tiến sĩ “Công tác lý luận của Đảng nhân dân cách mạng Lào trong thời kỳ đổi
mới” của tác giả Phăn Đuông Chít Vông Sa; Luận án Tiến sĩ Lịch sử, “Công tác tư
tưởng của Đảng nhân dân cách mạng Lào hiện nay” của tác giả Xắc Xa Vắt Xuân
Thêp Phim Ma Son; Bài viết “Bàn về đổi mới công tác chính trị tư tưởng” của tác giả
Trần Dục Dân; Bài viết “Một số vấn đề về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản
Trung Quốc trong tình hình mới” của tác giả Vương Bột Chính; Bài viết “Bàn về đổi
mới công tác tư tưởng thời kỳ mới” của tác giả Điền Trung Mẫn; Bài viết “Làm thế
nào để làm tốt công tác tư tưởng trong thời kỳ mới” của các tác giả Triệu Văn Như,
Trương Vệ Đông, Lí Biêu; Bài viết “Cơ sở tư tưởng hệ của công cuộc cải cách kinh tế
ở Trung Quốc” của tác giả B.Mozias; Luận án Tiến sĩ, “Chất lượng công tác tư tưởng
của các Đảng bộ tỉnh đồng bằng miền Trung, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Bun Đuông Cay Xỏn; Cuốn sách “Xây dựng cơ
chế phản hồi nhanh dư luận, tạo ra kênh thông tin thông suốt cho quyết sách của Đảng
và Chính phủ” của tác giả Chu Hiểu Tín, Phùng Linh Chi; Bài viết “Tăng cường sự
hấp dẫn và sức quy tụ của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa” của các tác giả Chu Hiển Tín,
Phùng Linh Chi; Bài viết “Công tác tư tưởng cần tăng cường tính đổi mới và tính thời
đại” của tác giả Lý Diệu Bác. Bài viết “Tổng kết công tác xây dựng Đảng Cộng sản
Trung Quốc trong 30 năm cải cách mở cửa” của tác giả Tập Cận Bình; Cuốn sách
“Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn” của tác giả Chu Chi Hòa; Bài viết
“Xây dựng văn hóa liêm chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc” của tác giả Vũ Dần.
Bài viết “Tăng cường xây dựng tác phong cán bộ thiết thực thực hiện vì dân, thực tế,
thanh liêm” của tác giả Bành Lập Binh.
1.3. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CỦA NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN SẼ TẬP TRUNG
GIẢI QUYẾT
1.3.1. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề
tài luận án
Một là, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí,
vai trò của đảng bộ cơ sở; làm rõ được vị trí, vai trò của công tác tư tưởng, công tác
tuyên giáo nói chung, công tác tuyên giáo ở các đảng bộ xã nói riêng là bộ phận cấu
thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng.
Hai là, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến tình hình, thực trạng công tác
tư tưởng, công tác tuyên giáo ở các cấp, các địa phương trong nước, hoặc nước ngoài.
Các công trình trên tập trung phân tích đặc điểm về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,
tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng, tình hình dân cư; đặc điểm
đội ngũ cán bộ, đảng viên, tình hình tư tưởng, chính trị và kết quả thực hiện nhiệm vụ
chính trị... có tác động đến công tác tuyên giáo.
Ba là, trên cơ sở đánh giá thực trạng và dự báo được tình hình, các công trình
khoa học đã đưa ra phương hướng, các giải pháp, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất
6
lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo; những yêu cầu đặt ra về trình
độ, phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ của cán bộ, đảng viên thực hiện công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo các cấp.
Tuy nhiên, xung quanh việc nghiên cứu các đề tài, sách và những bài viết nêu
trên còn nhiều vấn đề cần bàn luận về công tác tuyên giáo của Đảng trong điều kiện
hiện nay, cũng như những vấn đề mà tình hình quốc tế, trong nước đặt ra với công tác
tuyên giáo như:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở vấn đề chung về công
tác tư tưởng, công tác tuyên giáo của Đảng, mà chưa phân tích thấu đáo tính đặc thù
của các xã ở vùng biên giới phía Bắc, cũng như đặc điểm công tác tuyên giáo của
đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về công tác tuyên giáo của Đảng còn ít,
việc tiếp cận công tác tuyên giáo của cấp xã đang là vấn đề cần được nghiên cứu
nhiều hơn, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
đặt ra hiện nay.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu chủ yếu là đề xuất nâng cao chất lượng công
tác tư tưởng của Đảng mà thiếu đi những công trình nghiên cứu về giải pháp tăng
cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc để đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay.
1.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
Một là, luận án làm rõ những vấn đề lý luận (khái niệm công tác tuyên giáo;
phân biệt công tác tuyên giáo với công tác tư tưởng; vấn đề nội dung và phương thức
tiến hành công tác tuyên giáo; vấn đề tổ chức bộ máy, cán bộ tuyên giáo; sự giao
thoa, chồng chéo giữa công tác tuyên giáo của Đảng với công tác thông tin, văn hóa,
xã hội của chính quyền ở cơ sở) và thực tiễn công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở
các tỉnh biên giới phía Bắc.
Hai là, phân tích làm rõ thực trạng, nguyên nhân, trên cơ sở đó làm rõ nguyên
nhân của thực trạng và một số kinh nghiệm.
Ba là, luận án đưa ra các dự báo thuận lợi, khó khăn của tình hình trong nước
và thế giới; đề xuất các giải pháp tăng cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở
các tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030.
Chương 2
CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ
Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC VÀ ĐẢNG BỘ XÃ
CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
2.1.1. Khái quát về các tỉnh biên giới phía Bắc
Các tỉnh biên giới phía Bắc là một bộ phận lãnh thổ trọng yếu của Tổ quốc
Việt Nam, là địa bàn chiến lược trọng yếu, “phên dậu” của Tổ quốc, có vị trí chiến
lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
7
Đường biên giới Việt - Trung hay còn gọi là biên giới phía Bắc Việt Nam dài
1.449,566km, được tính từ xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Đây
được coi là ngã ba biên giới giữa Việt Nam, Lào và Trung Quốc. Các tỉnh biên giới
phía Bắc chủ yếu phát triển nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp; phát triển du lịch,
dịch vụ thương mại và kinh tế cửa khẩu...
2.1.2. Đặc điểm về xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc
Một là, tình hình kinh tế - xã hội kém phát triển, nhất là ở khu vực miền núi
biên giới, vùng sâu, vùng xa
Hai là, dân cư các xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc chủ yếu là người dân tộc
thiểu số, trình độ dân trí thấp, còn tồn tại nhiều phong tục tập quán lạc hậu
Ba là, các xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc đều có đặc điểm tâm lý truyền thống
ở nông thôn
2.1.3. Đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc - Khái niệm, cơ cấu tổ
chức, chức năng và nhiệm vụ, vai trò, đặc điểm
Một là, khái niệm, cơ cấu tổ chức của đảng bộ xã
Hai là, chức năng và nhiệm vụ của đảng bộ xã
Ba là, vai trò và đặc điểm của đảng bộ xã
2.2. CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH BIÊN
GIỚI PHÍA BẮC - KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC, VAI TRÒ
2.2.1. Khái niệm, nội dung, phương thức công tác tuyên giáo của đảng bộ
xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc
2.2.1.1. Tổ chức bộ máy công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên
giới phía Bắc (hạt nhân là ban tuyên giáo)
* Khái niệm về công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới
phía Bắc
Công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc là hoạt động
lãnh đạo, chỉ đạo và trực tiếp tham gia của cả đảng ủy xã, ban thường vụ đảng ủy xã,
trong đó ban tuyên giáo đảng ủy xã có chức năng tham mưu và giúp việc cho cấp ủy
về các mặt công tác tư tưởng, văn hóa, khoa giáo, biên soạn, bổ sung lịch sử đảng bộ
địa phương và trực tiếp tổ chức thực hiện các hoạt động tuyên giáo trên địa bàn xã;
cùng với sự tham gia của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhằm tuyên truyền, phổ
biến cho cán bộ, đảng viên, nhân dân hệ tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, cổ vũ, động viên và tổ chức nhân dân thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đảng bộ xã.
- Chủ thể CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc: Chủ thể CTTG
bao gồm chủ thể lãnh đạo, quản lý và chủ thể phối hợp, trực tiếp thực hiện. Trong đó
chủ thể lãnh đạo, quản lý là đảng ủy, ban thường vụ đảng ủy; ban tuyên giáo đảng ủy
xã có chức năng tham mưu và giúp việc cho cấp ủy về CTTG. Các lực lượng phối
hợp, trực tiếp thực hiện CTTG: CTTG có sự tham gia phối hợp của ban dân vận, ban
công tác mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, cấp ủy các cơ quan, đơn vị như:
trạm y tế, trường học, lực lượng vũ trang...đóng trên địa bàn. Ở thôn, bản, làng, ấp,
xóm, chi ủy chi bộ thực hiện các mặt công tác xây dựng đảng nói chung và CTTG
nói riêng.
8
- Đối tượng CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc: là toàn thể
cán bộ, đảng viên và nhân dân của xã và các mặt của CTTT, CTTG.
* Ban tuyên giáo đảng ủy xã - Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy
Ban tuyên giáo là cơ quan tham mưu và nghiệp vụ giúp cho đảng ủy thực hiện
sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực tư tưởng, văn hóa - văn nghệ, khoa giáo.
- Chức năng
Ban tuyên giáo đảng ủy xã chịu sự lãnh đạo trực tiếp của đảng ủy cùng cấp, có
chức năng tham mưu và giúp việc cho đảng ủy về các mặt công tác tư tưởng, văn
hóa, khoa giáo, biên soạn, bổ sung lịch sử đảng bộ địa phương, đơn vị và trực tiếp tổ
chức thực hiện các hoạt động tuyên giáo trên địa bàn cơ sở.
- Nhiệm vụ của ban tuyên giáo đảng ủy xã
Một là, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác giáo dục lý luận
chính trị, nâng cao nhận thức và sự thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng, và
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Hai là, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức, lối sống, đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, ngăn chặn các tệ nạn xã hội.
Ba là, xây dựng kế hoạch công tác tư tưởng của đảng bộ trong cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh. Ban
tuyên giáo vừa xây dựng kế hoạch (theo nhiệm kỳ đại hội của chi bộ, đảng bộ; kế
hoạch năm, quý, tháng; kế hoạch thực hiện chương trình hành động của cấp ủy...)...
- Tổ chức bộ máy
Ban tuyên giáo đảng ủy xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc do đảng ủy xã ra quyết
định thành lập. Các đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc có tổ chức bộ máy thực
hiện công tác tuyên giáo không giống nhau và được chia thành các mô hình sau: Mô
hình ban tuyên vận xã; mô hình ban tuyên giáo và mô hình phân công cán bộ trong
cấp ủy phụ trách công tác tuyên giáo theo chế độ kiêm nhiệm.
2.2.1.2. Nội dung công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới
phía Bắc
Một là, công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm bồi dưỡng, nâng cao nhận thức lý
luận chính trị, thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan cộng sản, chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bồi đắp lòng yêu nước, yêu quê
hương, tình cảm cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ở cơ sở thông qua việc tổ
chức nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước; lịch sử, truyền thống đấu tranh cách mạng của đảng bộ và nhân dân.
Hai là, công tác tuyên truyền, cổ động
Nội dung công tác tuyên truyền, cổ động ở đảng bộ xã: Thứ nhất, tuyên truyền,
cổ động về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, tuyên truyền, cổ động về những thành tựu kinh tế, xã hội, văn hóa...của đất
nước, địa phương. Thứ ba, tuyên truyền, cổ động về đạo đức, lối sống... góp phần xây
dựng con người mới ở địa phương. Thứ tư, tuyên truyền, cổ động nhân ngày kỷ niệm,
các đợt vận động chính trị lớn của đất nước và địa phương... thứ năm, tuyên truyền,
9
phổ biến kiến thức mới, quy trình công nghệ mới trong sản xuất, đời sống và bảo vệ
môi trường ở cơ sở. Thứ sáu, tuyên truyền giáo dục về gương người tốt, việc tốt và
các điển hình tiên tiến, thúc đẩy phong trào thi đua ở cơ sở. Thứ bảy, chỉ rõ âm mưu
“diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch; đấu tranh chống tệ nạn xã hội, phê phán
những thói hư, tật xấu...
Ba là, công tác văn hóa - văn nghệ
Công tác văn hóa - văn nghệ của đảng bộ xã là hoạt động lãnh đạo thực hiện
các chủ trương, quan điểm của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Đồng thời, truyền bá hệ
tư tưởng của Đảng, chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua
hoạt động văn hóa - văn nghệ, từ đó biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước thành hiện thực; bảo đảm cho lĩnh vực văn hóa - văn nghệ
luôn hoạt động và đúng quan điểm, đường lối của Đảng.
Bốn là, công tác dư luận xã hội
Công tác dư luận xã hội nhằm nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội và
định hướng tư tưởng, dư luận xã hội ở cơ sở. Công tác dư luận giúp cung cấp thông
tin, dự báo tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội để cấp ủy, chính quyền cơ sở giải
quyết, không để thành các “điểm nóng”, bức xúc xã hội, khiếu kiện kéo dài; đồng
thời có thêm cơ sở trong việc đấu tranh, phản bác các thông tin sai lệch, bịa đặt, thông
tin trái chiều…
Năm là, công tác khoa giáo
Công tác khoa giáo của đảng bộ xã là lĩnh vực công tác nhằm tham mưu xây
dựng quan điểm, chủ trương của Đảng về lĩnh vực khoa giáo (khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo, dạy nghề, y tế, thể dục, thể thao, dân số, gia đình và trẻ
em); tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước về các lĩnh vực khoa giáo đến các tầng lớp nhân dân. Thông qua
đó, công tác khoa giáo góp phần trực tiếp phát huy nguồn nhân lực, xây dựng con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy ứng khoa học và công nghệ vào phát triển
kinh tế - xã hội; bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội...
2.2.1.3. Phương thức công tác tuyên giáo của đảng bộ xã các tỉnh biên giới
phía Bắc
Một là, thông qua việc ban hành các chương trình, kế hoạch của đảng bộ xã về
công tác tuyên giáo
Để thực hiện công tác tuyên giáo trước hết cần phải thông qua các chương
trình, kế hoạch của đảng bộ xã về công tác tuyên giáo. Chương trình, kế hoạch của
đảng bộ xã được thể hiện thông qua các kỳ đại hội đảng bộ, hội nghị, kế hoạch,
chương trình hành động cụ thể dựa trên chủ trương của đảng bộ cấp trên..., được triển
khai, tổ chức thực hiện thắng lợi trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm cho
sự lãnh đạo toàn diện và thống nhất của Đảng về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội,
an ninh - quốc phòng.
Hai là, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là báo cáo viên, tuyên truyền viên
và những người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể chính trị - xã hội
Đội ngũ cán bộ, đảng viên tại đảng bộ xã, nhất là đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên cơ sở là những người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, là lực lượng
10
tiên phong, trực tiếp tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân mọi chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; đồng thời phản ánh tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm việc cung cấp thông tin hai chiều phục vụ cho
sự lãnh đạo của đảng bộ xã. Công tác tuyên giáo trước hết là nhiệm vụ thường xuyên,
trực tiếp của đảng ủy, đảng ủy vừa là chủ thể và là đối tượng của công tác tuyên giáo;
đồng thời, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đóng vai
trò phối hợp, tổ chức thực hiện tốt việc nghiên cứu, quán triệt, học tập và tuyên
truyền nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước cho đoàn viên,
hội viên của tổ chức mình với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
Ba là, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, truyền hình,
phim, ảnh, hệ thống loa truyền thanh của xã...)
Phương tiện truyền thông đại chúng là những công cụ vật chất kĩ thuật quan
trọng được sử dụng để truyền bá thông tin đến đông đảo quần chúng nhân dân. Phương
tiện thông tin đại chúng bao gồm sách, báo in, truyền hình, điện ảnh, video clip... và
các phương tiện trực quan như panô, áp phích, tranh cổ động, biểu ngữ, khẩu hiệu, tờ
rơi, truyền đơn, tem thư... Việc thực hiện công tác tuyên giáo thông qua hệ thống
phương tiện thông tin đại chúng đảm bảo cho mọi thông tin về tình hình phát triển kinh
tế, xã hội, an ninh - quốc phòng, phòng chống cháy nổ, an toàn vệ sinh thực phẩm và
thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; vấn đề di dân tự do, truyền đạo trái
pháp luật, vượt biên trái phép, phụ nữ bỏ đi khỏi địa phương... được truyền tới mọi cán
bộ, đảng viên và nhân dân một cách nhanh chóng, rộng rãi, kịp thời.
Bốn là, thông qua tấm gương, nêu gương của tập thể và cán bộ, đảng viên
Trong giai đoạn hiện nay, các đảng bộ xã cần tiến hành việc nêu gương theo
đúng tinh thần Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị “Về một
số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên” nhằm
góp phần thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” và “tự chuyển
hóa” trong nội bộ”, gắn với việc “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đảng ủy xã cần phát huy vai trò tích cực của
nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí
trong việc tuyên truyền, phổ biến, giám sát; kịp thời biểu dương gương người tốt,
việc tốt, phê phán những tập thể, cá nhân vi phạm...
Năm là, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác tuyên giáo
Kiểm tra, giám sát là khâu không thể thiếu nhằm bảo đảm nghị quyết, chỉ thị,
kế hoạch của đảng ủy xã về công tác tuyên giáo được thực hiện. Sơ kết, tổng kết giúp
đảng ủy phát hiện điển hình tiên tiến, những mô hình hay, cách làm tốt để tiến hành
công tác thi đua, khen thưởng; kịp thời cổ vũ, động viên; làm lan tỏa những tập thể,
cá nhân có thành tích tốt trên mặt trận tuyên giáo. Công tác sơ kết, tổng kết nhằm
đánh giá những mặt đạt được, hạn chế trên các lĩnh vực như tuyên truyền, vận động
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tổ
chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể
thao; công tác nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội; công tác nghiên cứu, biên
11
soạn lịch sử đảng bộ địa phương... trên cơ sở đó đảng ủy tiến hành xây dựng chương
trình, kế hoạch thực hiện công tác tuyên giáo trong thời gian tiếp theo.
2.2.2. Vai trò công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc
Một là, công tác tuyên giáo là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hoạt
động lãnh đạo của đảng bộ.
Hai là, công tác tuyên giáo của đảng bộ xã có vai trò quan trọng trọng xây
dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Ba là, công tác tuyên giáo của đảng bộ xã có vai trò tiên phong trong việc
tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
thành phong trào hành động cách mạng.
Bốn là, công tác tuyên giáo của đảng bộ xã có vai trò quan trọng tạo nên sự
thống nhất cao trong đảng, sự đồng thuận trong xã hội, góp phần giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn xã.
Năm là, công tác tuyên giáo của đảng bộ xã có vai trò quan trọng trong đấu
tranh chống lại quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực thù địch; xây dựng hệ
thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh.
Chương 3
CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ
Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC
TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
3.1.1. Những ưu điểm
3.1.1.1. Về nội dung của công tác tuyên giáo
Một là, công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng
Công tác giáo dục chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng được thực hiện
hiệu quả, ban tuyên giáo đảng uỷ xã tham mưu cho đảng uỷ quán triệt triển khai thực
hiện nghị quyết của Đảng. Số lượng lớp học và lượt học nghiên cứu các nghị quyết,
chỉ thỉ các cấp đạt tỷ lệ cao... Công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử đảng bộ đảm
bảo chất lượng, đầy đủ thông tin, sự kiện, mang đậm tính địa phương.
Hai là, công tác tuyên truyền, cổ động
Công tác tuyên truyền, cổ động của đảng bộ xã tập trung tuyên truyền chính trị,
kinh tế, văn hoá - xã hội, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, tuyên truyền đấu
tranh chống “diễn biến hoà bình”... công tác tuyên truyền được kết hợp, lồng ghép
với buổi sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt thôn, bản, các đoàn thể quần chúng, hội nghị
chuyên đề. Nhiều đảng bộ xã quan tâm biên dịch các tài liệu và trực tiếp tuyên truyền
bằng tiếng dân tộc thiểu số của đội ngũ tuyên truyền viên tại các thôn, bản, đảm bảo
mọi chủ trương, đường lối, chính sách được tuyên truyền đến người dân.
Ba là, công tác văn hóa - văn nghệ
Công tác văn hóa, văn nghệ luôn được đảng ủy xã chỉ đạo kịp thời, đảm bảo
đúng chủ trương, đường lối của Đảng, phù hợp với đặc điểm từng xã; các hoạt động
12
tuyên truyền văn hóa, văn nghệ đã phản ánh rõ nét hiện thực đời sống, cổ vũ các
phong trào thi đua lao động, sản xuất của nhân dân. Bên cạnh đó, góp phần xây dựng
nếp sống văn minh trong việc cưới, tang lễ và lễ hội, tạo không khí phấn khởi, cổ vũ
các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước...
Bốn là, công tác dư luận xã hội
Công tác nghiên cứu, nắm bắt dư luận xã hội được các đảng bộ xã thực hiện
theo đúng quy định của Đảng, đội ngũ cán bộ do sinh sống và làm việc tại cơ sở nên
nắm bắt nhanh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Công tác dư luận xã hội được thực
hiện chủ yếu về xây dựng đảng, vấn đề đền bù, vấn đề tôn giáo, lễ hội..., từ đó định
hướng và giải quyết kịp thời bức xúc, tạo sự đồng thuận trong xã hội, ổn định tư
tưởng của các tầng lớp nhân dân.
Năm là, công tác khoa giáo
Trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc, đảng ủy xã ngày càng khẳng định vai
trò lãnh đạo, đảm bảm cho công tác khoa giáo trên địa bàn được thực hiện hiệu quả
theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Về thực
hiện giáo dục và đào tạo, các đảng bộ xã thực hiện tốt phổ cập giáo dục mầm non cho
trẻ 5 tuổi; phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; công tác xây dựng trường chuẩn
quốc gia được các xã quan tâm... Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, vệ sinh
phòng bệnh được thực hiện tốt, nhiều xã đạt chuẩn về y tế. Trên địa bàn các xã đã áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phát triển kinh tế, xã hội, góp phần giảm tỷ lệ hộ
nghèo ở các xã; đồng thời gắn công tác bảo vệ môi trường với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế xanh.
3.1.1.2. Về phương thức công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên
giới phía Bắc
Một là, thông qua việc ban hành các chương trình, kế hoạch của đảng bộ xã về
công tác tuyên giáo
Thông qua việc ban hành các chương trình, kế hoạch của đảng ủy xã đã xác
định rõ nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư tưởng, tập trung triển khai, quán triệt học tập
các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Các chương
trình, kế hoạch của đảng ủy xã có vai trò định hướng công tác tuyên giáo cần thực
hiện trong từng thời kỳ. Việc thực hiện công tác tuyên giáo thông qua chương trình,
kế hoạch không những làm cho công tác tuyên giáo được thực hiện thường xuyên,
hiệu quả mà còn khẳng định được vai trò tham mưu của ban tuyên giáo đảng ủy đối
với sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy xã.
Hai là, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là báo cáo viên, tuyên truyền
viên và những người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể chính trị xã hội
Nội dung, phương pháp truyền đạt của báo cáo viên có nhiều đổi mới, chú
trọng sử dụng phương pháp hiện đại, trình chiếu bằng hình ảnh, góp phần nâng cao
tính thuyết phục, hiệu quả trong công tác tuyên truyền miệng. Số lượng và chất lượng
báo cáo viên, tuyên truyền viên tại các xã đều tăng và có trình độ, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở các xã
tích cực đổi mới cách thức tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, chính trị cho đoàn viên,
13
hội viên theo hướng linh hoạt, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng, tâm lý, tập quán
của địa phương...
Ba là, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, truyền hình,
phim, ảnh, hệ thống truyền thanh của xã...)
Việc định hướng thông tin, dư luận xã hội trên báo, tạp chí của Đảng được các
đảng bộ xã thực hiện có hiệu quả. Trên địa bàn các xã, các loại báo, tạp chí của Đảng
được chuyển từ huyện đến các điểm bưu điện - văn hóa xã và đến các đối tượng tiếp
nhận. Hệ thống đài truyền thanh xã, cụm loa truyền thanh thôn, bản; tuyên truyền
trực quan thông qua băng zôn, khẩu hiệu, pa nô, áp phích... là công cụ tuyên truyền
giúp đảng ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo, góp phần thiết thực vào công tác nâng
cao hiệu quả hoạt động của công tác tuyên giáo trong những năm qua.
Bốn là, thông qua làm gương, nêu gương của tập thể và cán bộ, đảng viên
Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên, cán bộ chủ chốt, người
đứng đầu ngày càng nề nếp, việc “nói đi đôi với làm” được đảng ủy tập trung chỉ đạo
thực hiện có hiệu quả, coi đây là một trong những giải pháp hiệu quả trong giải quyết
các vấn đề cấp bách, nổi cộm, tiêu cực, tác động xấu đến tư tưởng cán bộ, đảng viên
và dư luận xã hội. Công tác tuyên giáo đã góp phần tuyên truyền những tấm gương
tiêu biểu trong học tập và làm theo Bác, trong phong trào xây dựng nông thôn mới...
Năm là, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác tuyên giáo
Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện công tác tuyên giáo được
đảng ủy triển khai thực hiện linh hoạt, cụ thể như lồng ghép với việc kiểm tra, giám
sát, đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ giáo dục lý luận chính trị của đảng ủy.
Thông qua công tác kiểm tra đã kịp thời chỉ đạo, uốn nắn chấn chỉnh những sai phạm,
hạn chế yếu kém trong công tác quán triệt triển khai thực hiện nghị quyết, đồng thời
biểu dương những cách làm hay, sáng tạo, phù hợp với cơ sở.
3.1.2. Những hạn chế, yếu kém
3.1.2.1. Về nội dung của công tác tuyên giáo
Một là, công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng
Việc thực hiện chế độ học tập lý luận chính trị còn nhiều hạn chế, nhiều cán
bộ, đảng viên có tư tưởng ngại học tập; việc học tập, nghiên cứu nghị quyết của Đảng
còn chậm đổi mới, chưa đảm bảo tiến độ. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị nặng về kiến thức... Công tác giáo dục truyền thống cách mạng qua công tác
nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa phương còn nhiều hạn chế về nguồn tư liệu và đội
ngũ cán bộ có trình độ biên soạn...
Hai là, công tác tuyên truyền, cổ động
Nội dung, hình thức tuyên truyền chưa phong phú, hấp dẫn nhất là ở các xã vùng
sâu, vùng xa có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Công tác tuyên truyền, cổ
động trực quan còn hạn chế, chưa đi vào nề nếp, thiếu đầu tư; chủ yếu tuyên tuyền, cổ
động ở địa bàn trung tâm, chưa mở rộng không gian tuyên truyền. Lực lượng tuyên
truyền, cổ động còn mỏng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn nhiều hạn chế.
Ba là, công tác văn hóa - văn nghệ
Tại nhiều đảng uỷ, việc tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị của địa phương qua
hoạt động văn hoá - văn nghệ chưa được đầu tư có chiều sâu, chưa thực sự tác động
14
đến tư tưởng, nhận thức của người dân. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ ở cơ sở còn
ít, nội dung chưa phong phú. Thiết chế hoạt động văn hoá thông tin cơ sở còn thiếu,
kinh phí hoạt động chưa đáp ứng được yêu cầu, hệ thống loa truyền thanh ở cơ sở chất
lượng thấp, không phát huy được hiệu quả sử dụng, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa...
Bốn là, công tác dư luận xã hội
Việc thực hiện chế độ báo cáo tình hình dư luận xã hội hằng tháng chưa đều,
chưa bảo đảm thời gian quy định; chất lượng báo cáo của nhiều cộng tác viên chưa
cao, còn mang nặng tính hình thức, chưa phản ánh các vấn đề xã hội quan tâm, nhất
là vấn đề dân tộc, tôn giáo. Tại các đảng bộ xã, trình độ của cán bộ thực hiện công tác
dư luận xã hội không đồng đều giữa các vùng, miền, đa số là kiêm nhiệm...
Năm là, công tác khoa giáo
Công tác kiểm tra, đánh giá việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị về
lĩnh vực khoa giáo chưa thường xuyên. Sự phối hợp giữa ban tuyên giáo đảng ủy xã
với các ngành chuyên môn thuộc khối khoa giáo có lúc chưa kịp thời. Tại các đảng
bộ xã, trưởng ban tuyên giáo kiêm nhiệm hoặc cán bộ bán chuyên trách chịu trách
nhiệm chung về công tác tuyên giáo ở cơ sở, không có cán bộ phụ trách riêng công
tác khoa giáo, nên chưa dành nhiều thời gian cho lĩnh vực công tác này. Một số đảng
ủy chưa nhận thức đầy đủ về nhiệm vụ công tác khoa giáo, thiếu sự chỉ đạo toàn diện.
3.1.2.2. Về phương thức công tác tuyên giáo
Một là, thông qua việc ban hành các chương trình, kế hoạch của đảng bộ xã về
công tác tuyên giáo
Ở các tỉnh biên giới phía Bắc, nhiều đảng bộ xã chưa thành lập ban tuyên
giáo nên công tác tuyên giáo không có ban tham mưu, giúp việc cho đảng ủy trong
việc đề ra nghị quyết. Mặt khác, nhiều đảng bộ xã tuy đã thành lập ban tuyên giáo
nhưng chủ trương, nghị quyết của đảng bộ xã về công tác tuyên truyền, vận động,
công tác tổ chức, bố trí sử dụng cán bộ tuyên giáo chưa thực sự hiệu quả; chế độ
phụ cấp cho đội ngũ cán bộ trực tiếp tiến hành công tác tuyên giáo chưa cao, nhất là
ở các xã vùng sâu, vùng biên giới có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn...
Chương trình, kế hoạch hành động thực hiện chỉ thị, nghị quyết của một số đảng bộ
xã nội dung còn chung chung, chủ yếu dựa trên chương trình, kế hoạch của cấp trên,
chưa sát với thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương; khả năng xây
dựng chương trình, kế hoạch hành động theo định kỳ còn nhiều hạn chế, chưa chủ
động, được thường xuyên.
Hai là, thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ báo cáo viên,
tuyên truyền viên và những người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và đoàn
thể chính trị - xã hội
Công tác quản lý hoạt động của đội ngũ báo cáo viên tại các đảng bộ xã chưa
chặt chẽ; chất lượng báo cáo viên và cộng tác viên chưa đồng đều, trình độ, năng lực
của một số báo cáo viên ở cơ sở còn hạn chế, chất lượng hoạt động chưa đáp ứng yêu
cầu. Công tác tuyên giáo được tiến hành thông qua người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội còn tồn tại một số hạn chế
như: Sự phối hợp các lực lượng, binh chủng làm công tác tuyên giáo chưa chặt chẽ,
thiếu sự phối hợp thường xuyên giữa ban tuyên giáo đảng ủy xã với Mặt trận Tổ quốc
15
và các đoàn thể chính trị - xã hội. Mặt khác, khả năng tập hợp đoàn viên, hội viên của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được phát huy rõ vai trò.
Ba là, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, truyền hình,
phim, ảnh, hệ thống truyền thanh của xã...)
Công tác vận động, tuyên truyền việc mua, đọc báo, tạp chí của Đảng hiệu quả
chưa cao; số lượng báo, tạp chí của Đảng phát hành trên địa bàn có sự không đồng
đều giữa các vùng, miền. Trên địa bàn nhiều xã, hệ thống loa truyền thanh xuống cấp,
hư hỏng, chưa được đầu tư kịp thời. Các cơ sở vật chất và thiết chế văn hóa thông tin
như nhà văn hóa, khu vui chơi giải trí, thể thao, hệ thống cổ động trực quan, điểm
truy cập internet…còn thiếu ở nhiều xã.
Bốn là, thông qua làm gương, nêu gương của tập thể và cán bộ, đảng viên
Công tác quán triệt, học tập các chuyên đề của cuộc vận động “học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” ở một số đảng ủy còn chậm, chất
lượng hạn chế, có nơi chưa đạt yêu cầu. Việc xây dựng chương trình hành động, xây
dựng tiêu chuẩn đạo đức, lối sống ở một số đảng ủy còn chung chung, chưa cụ thể.
Việc cụ thể hóa các nội dung cuộc vận động vào sinh hoạt chi bộ, cơ quan, đơn vị
chưa được đồng bộ, còn lúng túng. Việc phát hiện, nhân rộng gương người tốt, việc
tốt, điển hình tiên tiến tại các tổ chức đảng chưa thật sự đúng mức, chưa động viên
được tất cả cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia học tập và làm theo gương Bác;
công tác thi đua - khen thưởng nhiều nơi chưa được coi trọng đúng mức, chưa tiến
hành khen thưởng kịp thời.
Năm là, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác tuyên giáo
Công tác kiểm tra, giám sát công tác tuyên giáo còn nhiều hạn chế, hoạt động
kiểm tra, giám sát chỉ diễn ra khi kết hợp đồng thời với hoạt động kiểm tra của đảng
ủy, ít những cuộc kiểm tra, giám sát riêng về công tác tuyên giáo. Mặt khác, các đảng
bộ xã còn kết hợp nhiều nội dung sơ kết, tổng kết khác trong một hội nghị nên hiệu
quả công tác sơ kết, tổng kết chưa cao. Trong hoạt động sơ, tổng kết của đảng bộ xã
chưa có nhiều ý kiến tham luận để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên giáo;
nhiều đảng bộ xã hằng năm chưa tổ chức sơ kết, tổng kết riêng về công tác tuyên
giáo, chính vì vậy hoạt động đánh giá, rút kinh nghiệm chưa diễn ra thường xuyên đã
làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác tuyên giáo.
3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.2.1. Nguyên nhân
3.2.1.1. Nguyên nhân của những ưu điểm
* Nguyên nhân chủ quan
Một là, nhận thức, trách nhiệm của đảng ủy về CTTG được nâng cao. Hai là,
hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố vững mạnh, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở
cơ sở. Ba là, đội ngũ cán bộ thực hiện CTTG được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn nghiệp vụ, lý luận chính trị; chất lượng TCCSĐ và đội ngũ đảng viên không
ngừng được nâng cao.
* Nguyên nhân khách quan
Một là, những thành tựu to lớn của đường lối đổi mới đất nước hơn 30 năm
qua đã làm thay đổi vị thế, tầm vóc của đất nước trên trường quốc tế. Hai là, trình độ
16
dân trí ngày càng được nâng cao; trang thiết bị và phương tiện tiến hành CTTG được
bổ sung và nâng cấp. Ba là, sự quan tâm, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, trực tiếp là ban
tuyên giáo huyện ủy trong việc bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ.
3.2.1.2. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
Một là, một số cấp ủy còn hạn chế trong nhận thức nên chưa quan tâm đúng
mức đến CTTG, thiếu sâu sát trong lãnh đạo, chỉ đạo. Hai là, việc đổi mới nội dung,
phương thức tiến hành CTTG còn chậm, chưa đáp ứng kịp sự phát triển và yêu cầu
cách mạng. Ba là, lực lượng tiến hành CTTG ở các đảng bộ xã là các cán bộ, đảng
viên kiêm nhiệm thực hiện, không có lực lượng chuyên trách. Bốn là, một số đảng ủy
địa phương thiếu quan tâm lãnh đạo, buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát việc
triển khai thực hiện CTTG.
3.2.2. Một số kinh nghiệm
Một là, thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo của đảng ủy; sự tham mưu,
hướng dẫn của ban tuyên giáo đảng ủy xã đối với CTTG cơ sở. Hai là, phát huy vai
trò của đảng ủy, chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở nhằm huy
động cả hệ thống chính trị tiến hành CTTG. Ba là, phát huy nhân tố tích cực trong
nhân dân, dựa vào nhân dân để thực hiện CTTG ở cơ sở. Bốn là, đảng ủy, ban tuyên
giáo đảng ủy xã bám sát thực tiễn địa phương, kịp thời giải đáp tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân; nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu
quả CTTG ở cơ sở.
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH
BIÊN GIỚI PHÍA BẮC ĐẾN NĂM 2030
4.1. PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA
ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC ĐẾN NĂM 2030
4.1.1. Dự báo những thuận lợi, khó khăn tác động đến công tác tuyên giáo
của các đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030
4.1.1.1. Dự báo thuận lợi
* Về tình hình thế giới
Trong giai đoạn hiện nay hòa bình, hợp tác cùng phát triển là xu thế chủ đạo;
cuộc đấu tranh của các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội ngày càng
phát triển.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (công nghệ 4.0) là cuộc cách mạng
gắn liền với sự phát triển của không gian mạng, thế giới như được phẳng ra, những
khoảng cách về không gian đang thu hẹp lại bởi truyền thông đa phương tiện hết sức
nhanh chóng, thuận lợi và thông tin liên lạc ngày càng dễ dàng, thông suốt.
* Về tình hình trong nước
Công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đạt được nhiều thành
tựu to lớn trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Trong năm 2019 là năm diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của đất nước và địa
phương, đây là năm chuẩn bị tiến hành đại hội đảng các cấp, nhiệm kỳ 2020 - 2025,
17
tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, là đợt sinh hoạt chính trị rộng
lớn trong cả nước nói chung và các đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng...
Nhìn chung, tình hình biên giới Việt - Trung có mối quan hệ ổn định và phát
triển theo chiều hướng tốt, các hoạt động thông tin đối ngoại và giao lưu nhân dân
được duy trì và củng cố...
Trong giai đoạn hiện nay, trình độ nhận thức của đảng uỷ, chính quyền cơ sở
đối với công tác tuyên giáo ngày càng được nâng cao, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng.
4.1.1.2. Dự báo khó khăn, thách thức
* Về tình hình thế giới
Tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường tác động
nhanh chóng đến tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Sự
cạnh tranh về thị trường, khoa học công nghệ, năng lượng... ngày càng tăng và diễn
biến phức tạp. Bên cạnh đó, tình trạng ôi nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, dịch
bệnh, đói nghèo tác động ngày càng lớn đến tư tưởng của mọi tầng lớp nhân dân...
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, sự bùng nổ công
nghệ thông tin nếu không được định hướng đúng đắn, kịp thời có thể làm cho người
tiếp cận thông tin dễ dao động, bị lôi kéo, kích động bởi những phần tử phản động.
Trong bối cảnh hiện nay, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng trở
nên sâu rộng; khoa học công nghệ phát triển như vũ bão đưa thế giới vào kỷ nguyên
4.0 với nhiều thách thức lớn, công tác tuyên giáo sẽ xung kích đi đầu trong việc áp
dụng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra trên thế giới, góp phần vào
phát triển đất nước. Bên cạnh đó, mức độ và phạm vi ảnh hưởng tiêu cực của các
quan điểm, tư tưởng và hành động của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy
và xã hội dân sự đang có nguy cơ tăng lên trong đời sống xã hội, có khả năng lan
rộng, nhất là những phát ngôn, những bài viết mang tính mị dân trên các phương tiện
truyền thông đại chúng, các diễn đàn, các trang mạng xã hội...
* Về tình hình trong nước
Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng trước nhiều khó khăn,
thách thức. Điều đáng chú ý là bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra, trong đó nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến
hoà bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước ta... Với vị trí
biên giới trên bộ, vùng sâu, vùng xa nên các tỉnh biên giới phía Bắc luôn tiềm ẩn
những yếu tố gây mất ổn định chính trị.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tạo ra không ít khó khăn, thách thức,
nhất là đối với khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nguy cơ đe dọa an ninh quốc
gia từ không gian mạng; nguy cơ sự cố mất an toàn thông tin mạng từ mạng lưới thiết
bị kết nối Internet (IoT); tội phạm công nghệ cao, tội phạm qua mạng; tội phạm bạo
lực, bạo hành, xâm hại trẻ em, phụ nữ... gây bức xúc trong dư luận xã hội. Hoạt động
tôn giáo trái pháp luật, phụ nữ bỏ đi khỏi địa bàn không rõ lý do, tình hình an ninh
trật tự, xâm hại trẻ em, buôn bán ma túy vẫn còn diễn biến phức tạp, khó lường...
Mặt trái của nền kinh tế thị trường như sự phân hóa giàu nghèo ngày càng
tăng, chính từ sự phân hóa giàu nghèo giữa các bộ phận dân cư làm nảy sinh tình
18
trạng phân hóa về lối sống, điều kiện sống, từ đó hình thành nên nhiều tầng lớp, bộ
phận xã hội mới. Bên cạnh đó sự xuất hiện của các tôn giáo mới, tà đạo trong những
năm gần đây, nhất là địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc đã ảnh hưởng tiêu cực đến
đời sống xã hội, gây tâm lý bức xúc, hoang mang trong một bộ phận quần chúng.
Trình độ cán bộ, đảng viên ở các xã còn nhiều hạn chế; tổ chức bộ máy ban
tuyên giáo đảng ủy xã nhiều nơi chưa có sự thống nhất, đội ngũ không ổn định, số
lượng thiếu và còn nhiều bất cập về trình độ, năng lực, cơ sở vật chất, điều kiện làm
việc. Chế độ chính sách đãi ngộ, sự thu hút, động viên cán bộ làm công tác tuyên giáo
chưa kịp thời, ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên giáo
trong thời kỳ mới.
4.1.2. Phương hướng tăng cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã đến
năm 2030
* Phương hướng chung
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã vạch ra phương
hướng chung về công tác tư tưởng của Đảng trong thời gian tới là: Kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp
với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên
định đường lối đổi mới... Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa
tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự đồng thuận trong Đảng,
đồng thuận trong xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Đổi mới
công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ,
đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan
điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”.
* Phương hướng cụ thể
Một là, gắn kết thường xuyên, chặt chẽ công tác tuyên giáo của đảng bộ xã với
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng trên địa bàn xã
Hai là, nội dung công tác tuyên giáo của đảng bộ xã phải phù hợp với đặc
điểm tâm lý và trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc ở các tỉnh biên giới phía Bắc
Ba là, các đảng bộ xã cần thực hiện “xây” và “chống” trong công tác tuyên giáo
Bốn là, tăng cường công tác báo chí, biên soạn lịch sử đảng bộ, giáo dục truyền
thống cách mạng
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA
ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC ĐẾN NĂM 2030
4.2.1. Tăng cường xây dựng đảng bộ xã, không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ xã
Đây là giải pháp có vai trò hết sức quan trọng và có mối liên hệ chặt chẽ, quyết
định đến việc thực hiện các giải pháp khác. Để xây dựng đảng bộ xã ở các tỉnh biên
- Xem thêm -