Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía bắc giai đoạn hiện ...

Tài liệu Công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía bắc giai đoạn hiện nay

.PDF
209
180
68

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ VĂN HIẾU CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC HÀ NỘI - 2020 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ VĂN HIẾU CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC Mã số: 62 31 02 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS Trương Thị Thông HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ Lê Văn Hiếu MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7 1.1. Các công trình khoa học trong nước 7 1.2. Các công trình khoa học nước ngoài 20 1.3. Khái quát kết quả của những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài và những vấn đề luận án sẽ tập trung giải quyết 25 CHƯƠNG 2: CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 29 2.1. Khái quát về các tỉnh biên giới phía Bắc và đảng bộ xã các tỉnh biên giới phía Bắc 29 2.2. Công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc khái niệm, nội dung, phương thức, vai trò 48 CHƯƠNG 3: CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 64 3.1. Thực trạng công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc 64 3.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm 115 CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC ĐẾN NĂM 2030 127 4.1. Phương hướng tăng cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030 127 4.2. Những giải pháp tăng cường công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030 141 KẾT LUẬN 166 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 167 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 168 PHỤ LỤC 183 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á BCV, TTV Báo cáo viên, tuyên truyền viên BTVTU Ban Thường vụ Tỉnh ủy CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CTTT Công tác tư tưởng CTTG Công tác tuyên giáo HĐND Hội đồng nhân dân MTTQ Mặt trận Tổ quốc TCCSĐ Tổ chức cơ sở đảng UBND Ủy ban nhân dân WTO Tổ chức Thương mại Thế giới DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Trang Sơ đồ 2.1: Mô hình ban tuyên vận đảng ủy xã 53 Sơ đồ 2.2: Mô hình ban tuyên giáo đảng ủy xã 55 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn xây dựng Đảng, lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản trên thế giới, Đảng khẳng định, để Đảng vững mạnh phải xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, trong đó xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng là nội dung quan trọng định hướng, soi đường, dẫn lối cho mọi hoạt động của Đảng; trong công tác tư tưởng (CTTT) thì công tác lý luận, công tác tuyên giáo (CTTG) có vai trò đặc biệt quan trọng. Đúng như C.Mác đã chỉ rõ: “Lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [117, tr.25]. V.I.Lênin đã từng khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng [108, tr.30]; chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” [107, tr.32], Đảng Cộng sản không chỉ nắm vững lý luận tiên phong, mà còn phải trang bị cho quần chúng nhân dân lý luận tiên phong đó. Với vai trò như vậy, CTTG có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại của cách mạng. Nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng CTTT, lý luận, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng Đảng nói chung, CTTG nói riêng, góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trước yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, công tác xây dựng Đảng nói chung, CTTG của Đảng nói riêng trong những năm qua còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục. Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà 2 bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Việc triển khai thực hiện nội dung các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương của Đảng về rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ, đảng viên chưa thực sự tích cực, đồng bộ, thường xuyên, một số nơi thực hiện chưa nghiêm túc...” [73, tr.127]. Để khắc phục hiệu quả những hạn chế, yếu kém trên đây, đòi hỏi sự quan tâm của Đảng, của toàn hệ thống chính trị và sự nỗ lực của hệ thống tuyên giáo từ Trung ương đến cơ sở đóng một vai trò quan trọng vào thành công của công tác xây dựng Đảng nói chung, CTTG của Đảng nói riêng. Đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc có vị trí rất quan trọng của đất nước cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh quốc gia - là “phên dậu” của đất nước ở vùng biên giới, biên cương Tổ quốc nên Đảng phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo xây dựng các tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ), chính quyền và hệ thống chính trị nơi đây trong sạch, vững mạnh, trong đó cần quan tâm làm tốt CTTG trong giai đoạn cách mạng hiện nay; bởi vì CTTG là lĩnh vực trọng yếu của công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, góp phần quan trọng vào việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn của Đảng; truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho quần chúng nhân dân; phát huy tinh thần yêu nước, tính sáng tạo của quần chúng nhân dân nhằm biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thành phong trào hành động cách mạng. Bên cạnh đó, CTTG còn thể hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực văn hóa, văn nghệ và khoa giáo, đảm bảo phát triển các lĩnh vực đó theo đúng cương lĩnh, đường lối của Đảng trong từng thời kỳ. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết trước hết là phải củng cố, xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, trong đó CTTG ở cơ sở có vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh. 3 Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; tình hình trong nước, trong các tỉnh đặt ra nhiều khó khăn thách thức. Chính vì vậy, đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ của các đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc là lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trong đó, nổi bật là việc lãnh đạo nhân dân tiến hành đường lối CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các tỉnh biên giới phía Bắc; lãnh đạo nhân dân thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới; lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia; đấu tranh chống lại hoạt động buôn lậu, buôn bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới; lãnh đạo đấu tranh chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.... Tình hình thực tiễn đặt ra yêu cầu phải tăng cường CTTG của đảng bộ xã, CTTG phải đổi mới nội dung, phương thức cho sát tình hình thực tiễn, phù hợp từng đối tượng cụ thể. Bên cạnh đó, xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo có bản lĩnh chính trị vững vàng, tâm huyết, trách nhiệm với công việc, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên, so với yêu cầu và nhiệm vụ công cuộc đổi mới và bảo vệ Tổ quốc những năm tới, CTTG của các đảng bộ xã còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là sự lúng túng trong nội dung, phương thức tiến hành CTTG; cơ cấu tổ chức bộ máy ban tuyên giáo; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo... và hệ quả là trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước có mặt còn chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Chính vì vậy, trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, yêu cầu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ... ở các tỉnh biên giới phía Bắc trong giai đoạn mới bên cạnh những thuận lợi thì vẫn còn không ít những khó khăn, thách thức đòi hỏi các Đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc phải tăng cường hơn nữa CTTG. Với cách tiếp cận trên, tác giả chọn đề tài “Công tác tuyên giáo của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước. 4 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc, luận án đề xuất phương hướng và các giải pháp khả thi tăng cường CTTG của đảng bộ xã các tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Một là, tổng quan các công trình khoa học tiêu biểu trong nước và nước ngoài liên quan trực tiếp đến đề tài luận án; chỉ ra những kết quả, xác định những vấn đề luận án kế thừa và tiếp tục nghiên cứu. Hai là, làm rõ những vấn đề lý luận về CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc gồm khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm, nội dung, phương thức tiến hành CTTG… Ba là, khảo sát, đánh giá thực trạng CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc, chỉ rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân, kinh nghiệm. Bốn là, đề xuất phương hướng và những giải pháp tăng cường CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc giai đoạn hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu các hoạt động CTTG của đảng bộ xã các tỉnh biên giới phía Bắc giai đoạn hiện nay. - Về thời gian khảo sát: Luận án tiến hành khảo sát, đánh giá CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc từ năm 2010 đến nay, phương hướng, giải pháp đề xuất có giá trị đến năm 2030. - Về không gian nghiên cứu: Luận án tiến hành khảo sát CTTG tại 5 tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với tổng số 815 xã. 5 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về CTTG được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết đại hội Đảng, nghị quyết các hội nghị Trung ương… 4.2. Cơ sở thực tiễn - Cơ sở thực tiễn của luận án là các báo cáo tổng kết CTTG từ năm 2010 đến nay. - Kết quả khảo sát thực trạng CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc từ năm 2010 đến nay. 4.3. Phương pháp nghiên cứu - Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về CTTG. - Luận án sử dụng các phương pháp cụ thể như phương pháp lịch sử, logic, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, trực tiếp trao đổi… 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Điểm mới của luận án được thể hiện trên các khía cạnh sau đây: Một là, luận án làm rõ đặc điểm chủ thể lãnh đạo CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Hai là, luận án đưa ra khái niệm CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Ba là, luận án rút ra được một số kinh nghiệm CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc Bốn là, luận án đề xuất những giải pháp tăng cường CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc đến năm 2030. 6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án - Kết quả luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học - thực tiễn cho việc tăng cường CTTG của đảng bộ xã ở các tỉnh biên giới phía Bắc. 6 - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng, nhất là ở cơ sở. - Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập và giảng dạy tại các trường chính trị tỉnh, thành phố, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 9 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC TRONG NƯỚC 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về xây dựng tổ chức đảng Luận án tiến sĩ Lịch sử, “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” của tác giả Nguyễn Đức Ái [1]. Luận án góp phần hệ thống hóa các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vị trí và vai trò của TCCSĐ; những nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; đặc điểm, vai trò của các TCCSĐ nông thôn vùng cao phía Bắc thuộc 3 tỉnh Cao Bằng, Sơn La và Lai Châu. Đồng thời, luận án chỉ ra các giải pháp tương đối toàn diện và có tính khả thi nhằm nâng cao khả năng lãnh đạo, sức chiến TCCSĐ nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đề tài khoa học cấp Bộ “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên” của tác giả Nguyễn Ngọc Thịnh [147]. Đề tài luận giải những nội dung về mặt lý luận của TCCSĐ và đảng viên như khái niệm TCCSĐ, đảng viên; chức năng, nhiệm vụ, vị trí và vai trò... Trên cơ sở nghiên cứu thực tế, nhóm tác giả đề tài đã nêu những ưu điểm, hạn chế liên quan đến TCCSĐ, đảng viên, nguyên nhân của thực trạng, trong đó chủ yếu là do nhận thức về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên chưa cao. Đề tài nêu ra những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên. Những nội dung trên có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh trong việc đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng các đảng bộ xã. Đề tài khoa học cấp Bộ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng cấp xã ở các tỉnh miền núi Tây Bắc nước ta - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Việt Phương [139]. Đề tài khẳng định TCCSĐ ở cơ sở có vị trí, vai trò và tầm quan trọng trong việc lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, nhất là đối với các tỉnh miền núi ở nước ta. Trên cơ sở 8 đánh giá thực trạng ưu điểm, hạn chế về năng lực lãnh đạo của TCCSĐ ở cấp xã, đề tài đã nêu ra những giải pháp tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc. Công trình “Xây dựng Đảng Cộng sản Việt nam trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới, thực tiễn và bài học kinh nghiệm” của Hội đồng lý luận Trung ương [96]. Bài viết nêu lên bốn nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, trong đó có nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Cốt lõi của nhóm giải pháp này là tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm nâng cao khả năng nhận thức, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên; đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Cuốn sách “Nâng cao chất lượng đảng bộ xã trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” của tác giả Dương Trung Ý [178]. Nội dung cuốn sách đã khẳng định CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ hết sức quan trọng góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, đóng góp vào thành công chung của đường lối CNH, HĐH đất nước. Tác giả khẳng định, đảng bộ xã có vai trò rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng, cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện và vận dụng đúng đắn mọi chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò của xã và đảng bộ xã; chất lượng đảng bộ xã - Quan niệm và tiêu chí đánh giá; thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm; tác giả đề ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng các đảng bộ xã. Công trình “Tình hình mới và những vấn đề đang đặt ra trong công tác xây dựng Đảng ở Việt Nam - Phương hướng và giải pháp” của tác giả Tạ Ngọc Tấn. Tác giả nhấn mạnh để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu của tình hình, thì cần phải “nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận..., tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng; tuyên truyền, học tập 9 chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” [96, tr.63-64]. Cuốn sách “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên” của tác giả Võ Văn Đức, Đinh Ngọc Giang [83]. Nội dung cuốn sách khẳng định: Một là, cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực trạng, kinh nghiệm (qua khảo sát tại các tỉnh Bắc Giang, Cao Bằng, Hà Giang, Hòa Bình, Lạng Sơn). Ba là, cuốn sách đưa ra giải pháp nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo của TCCSĐ, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng Luận án tiến sĩ Lịch sử, “Chất lượng công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở đảng (cấp xã) vùng đồng bào dân tộc ít người ở các tỉnh Bắc Trung Bộ giai đoạn hiện nay” của tác giả Cao Văn Định [78]. Tác giả nêu lên các quan niệm về CTTT, chất lượng CTTT của TCCSĐ (cấp xã). Tác giả đã phân tích, làm rõ được thực trạng CTTT của các TCCSĐ cấp xã từ năm 1986 đến nay, những vấn đề đặt ra và đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng CTTT của TCCSĐ cấp xã vùng đồng bào dân tộc ít người ở các tỉnh Bắc Trung Bộ. Cuốn sách “Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng” của tác giả Hà Ngọc Hợi [97]. Cuốn sách đã khẳng định được thực trạng CTTT của Đảng, trên cơ sở đó tác giả làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra yêu cầu phải đổi mới CTTT. Cuốn sách đã đưa ra những tiêu chí để đánh giá chất lượng, hiệu quả, giải pháp nâng cao chất lượng CTTT, nhất là nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, cổ động để tuyên truyền và vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra. Bài viết “Kết hợp hai chiều trong công tác tư tưởng ở cơ sở” của tác giả Nguyễn Khắc Bộ [53] đã khẳng định hai vế “Dân biết” và “Đảng biết” không thể tách rời nhau, bởi mọi chủ trương, đường lối của Đảng cũng như chính sách, pháp luật của Nhà nước cần được tuyên truyền tới cơ sở để mọi người dân được biết, được thảo luận dân chủ để đi tới thống nhất, thì khi thực hiện mới thành công… Để 10 làm tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thì CTTT phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất là cấp uỷ, tổ chức bộ máy tiến hành CTTT, của mọi cán bộ, đảng viên. Đề tài khoa học cấp Bộ, “Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của cấp ủy xã miền núi phía Bắc hiện nay” của tác giả Triệu Quang Tiến [151]. Đề tài nêu ra những yếu tố tác động đến CTTT ở nông thôn miền núi phía Bắc; Vai trò, nhiệm vụ CTTT của Đảng và nhiệm vụ CTTT của các cấp ủy xã miền núi phía Bắc. Tác giả khẳng định được những nội dung chủ yếu, phương hướng và những giải pháp nâng cao hiệu quả CTTT cấp ủy xã miền núi phía Bắc. Đề tài khoa học cấp Bộ, “Tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh và một số suy nghĩ về công tác tuyên truyền hiện nay” của tác giả Lương Khắc Hiếu [87]. Đề tài làm rõ được tư tưởng Hồ Chí Minh về tuyên truyền, công tác tuyên truyền (chủ thể, đối tượng, nội dung, cách thức tuyên truyền); tác giả làm rõ phong cách sử dụng ngôn ngữ khi nói, khi viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dựa trên tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất giải pháp đổi mới công tác tuyên truyền theo hướng cụ thể, thiết thực. Đề tài khoa học cấp Bộ, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác tư tưởng trong thời kỳ mới” của tác giả Nguyễn Danh Tiên [149]. Tác giả đã luận giải được quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về CTTT trong tình hình mới, những vấn đề đặt ra với CTTT trong thời kỳ mới. Tác giả đã làm rõ thực trạng quá trình Đảng chỉ đạo CTTT; một số thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm. Chương 3: Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao sự lãnh đạo của Đảng đối với CTTT trong tình hình hiện nay. Công trình “Nguyên lý công tác tư tưởng - tập I và tập II” của tác giả Lương Khắc Hiếu [88]. Cuốn sách đã làm rõ những vấn đề quan trọng của CTTT như chủ thể, đối tượng, nội dung, mục đích, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của CTTT trong đời sống xã hội. Tác giả đưa ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của CTTT: Trước hết cần tạo điều kiện môi trường thuận lợi về chính trị tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội... cho CTTT. Hai là, chú trọng đến đối tượng, nội dung, mục đích, phương thức tiến hành CTTT cho phù hợp... 11 Đề tài khoa học cấp cơ sở, “Xử lý tình huống trong công tác tư tưởng, dân vận của Đảng” của tác giả Đỗ Ngọc Ninh [134]. Tác giả khẳng định CTTT và công tác dân vận có mối liên hệ mật thiết với nhau, trên có sở đó làm rõ những tình huống CTTT, công tác dân vận diễn ra ở một số tỉnh thành từ năm 1998 đến năm 2009. Tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn như: Quan niệm về tình huống, tình huống CTTT, công tác dân vận; đặc điểm của tình huống CTTT, công tác dân vận; quan niệm, nguyên tắc, phương châm, phương pháp xử lý tình huống CTTT, dân vận của Đảng…Đồng thời đề xuất tình huống có thể xảy ra về CTTT, dân vận trong những năm tiếp theo và đề xuất cách xử lý. Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị cho cấp uỷ, cán bộ và đảng viên trong xử lý tình huống CTTT. Cuốn sách “Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới” của tác giả Phạm Tất Thắng [145]. Tác giả đã phân tích được vấn đề lý luận của CTTT như chủ thể, đối tượng, nội dung, khái niệm tư tưởng và CTTT của Đảng. Tác giả nêu ra những giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả về nội dung, phương pháp tiến hành. Tác giả nhấn mạnh trong tuyên truyền thi đua yêu nước cần hướng tới tuyên truyền tấm gương điển hình tiên tiến, những người tốt, việc tốt cụ thể, thiết thực, không hình thức... Cuốn sách “Công tác tư tưởng (sách chuyên khảo)” của tác giả Đào Duy Quát [141]. Nội dung của cuốn sách gồm 2 chương đã làm rõ được những vấn đề về khái niệm, hệ thống, cấu trúc và đối tượng, phương pháp nghiên cứu CTTT; mục đích, chức năng và nhiệm vụ của CTTT; vai trò của CTTT trong sự nghiệp đổi mới; nguyên tắc, phương châm, giáo dục tư duy lý luận, chính trị - tư tưởng, kinh tế… Nội dung đấu tranh tư tưởng, đặc biệt cuốn sách khẳng định vai trò của đội ngũ báo cáo viên (BCV), tuyên truyền viên (TTV) trong việc tuyên truyền và bảo vệ Đảng. Tác giả nhấn mạnh cần xây dựng đội ngũ cán bộ cho CTTT, cơ sở vật chất tiên tiến, hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của ban tuyên giáo; hoạt động kiểm tra hiệu quả của CTTT… Cuốn sách “Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng ở cơ sở” của các tác giả Ngô Huy Tiếp, Đinh Ngọc Giang [152]. Cuốn sách đã làm rõ khái niệm về “nâng cao”, “chất lượng”, “công tác tư tưởng ở cơ sở”, trong đó cuốn sách đề 12 cập đến vị trí, vai trò và nội dung công tác tuyên truyền miệng ở cấp cơ sở. Các tác giả làm rõ những nội dung, hình thức, phương châm thực hiện công tác tuyên truyền miệng. Bài viết “Một số vấn đề trong đổi mới công tác tư tưởng, lý luận” của tác giả Phạm Tất Thắng [146]. Tác giả khẳng định CTTT, lý luận có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức và hoạt động của chính Đảng, trong quá trình tổ chức, vận động cách mạng, tiến tới giành chính quyền cũng như trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Nhận thấy tầm quan trọng đó, tác giả đề xuất giải pháp đổi mới CTTT, lý luận của Đảng. Cuốn sách “Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của Đảng hiện nay” của tác giả Ngô Huy Tiếp [153]. Nội dung cuốn sách khẳng định CTTT góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị. Tác giả chỉ rõ bản chất CTTT của Đảng là một hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức của Đảng đối với các hoạt động tư tưởng. Theo tác giả CTTT được cấu thành bởi ba bộ phận, đó là: Công tác lý luận; văn hóa - văn nghệ; tuyên truyền, cổ động. Công trình “Nâng cao tính thuyết phục của công tác tư tưởng trước những đòi hỏi mới của sự nghiệp cách mạng ở nước ta” của tác giả Phạm Văn Linh [113] đã nêu lên vai trò, các bộ phận cấu thành CTTT; mối quan hệ giữa nội dung và hình thức; chủ thể và khách thể và quan hệ giữa nội dung, hình thức với chủ thể tác động tới khách thể. Tác giả khẳng định trong CTTT, tính thuyết phục và tính chiến đấu có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tác giả đã chỉ ra những đóng góp cũng như hạn chế của CTTT trong những chặng đường đã qua, đồng thời chỉ ra 6 nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Công trình “Một số yêu cầu cơ bản quy định tính thuyết phục trong công tác tư tưởng của Đảng” của tác giả Hoàng Quốc Bảo [50]. Tác giả chỉ ra CTTT của Đảng chịu sự tác động của những yếu tố như sau: Một là, tính thuyết phục trong CTTT chịu sự chi phối, tác động của mục đích CTTT. Hai là, tính thuyết phục của CTTT chịu sự chi phối, tác động của đối tượng CTTT. Ba là, tính thuyết phục trong CTTT chịu sự tác động, chi phối của nội dung CTTT. Tác giả khẳng định các yếu tố nêu trên tự nó không thể tác động, chi phối tính thuyết phục của CTTT mà phải 13 thông qua hoạt động của chủ thể CTTT. Để đảm bảo và không ngừng nâng cao tính thuyết phục trong CTTT của Đảng cần xây dựng tiêu chuẩn của người cán bộ làm CTTT và cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ phù hợp để tuyển chọn người có tâm, có tầm, có trí, có đức vào hoạt động trong CTTT. Cuốn sách “Công tác tư tưởng trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Đào Duy Tùng. Tác giả đi sâu nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, dành nhiều thời gian xuống cơ sở, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân, học hỏi kinh nghiệm và lắng nghe ý kiến của dân. Cuốn sách khẳng định: CTTT là một khoa học và một nghệ thuật. Là “một khoa học” - CTTT của Đảng có nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, phát triển một cách sáng tạo và làm cho phong phú lý luận học thuyết Mác - Lênin. Là “một nghệ thuật” - các “binh chủng” của CTTT phải bám sát thực tiễn, thông qua các hoạt động của mình trang bị lý luận cách mạng tiên tiến cho quần chúng, biến nó thành lý tưởng và niềm tin, thành sự giác ngộ sâu sắc và hành động cách mạng để nhân nguồn sức mạnh nội lực thành một lực lượng vật chất vô địch, đưa mọi chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống [169, tr.375-376]. Cuốn sách chuyên khảo, “Xử lý tình huống trong công tác tư tưởng (sách chuyên khảo)”của tác giả Mai Đức Ngọc [129]. Cuốn sách đã phân tích làm rõ nội hàm khái niệm CTTT; phân tích nội dung, biểu hiện, nguyên nhân và cách thức nhận dạng, yêu cầu và phương pháp tiếp cận quy trình, giải pháp xử lý các tình huống trong CTTT. Từ đó cung cấp kiến thức, kỹ năng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý trong việc chủ động xử lý có hiệu quả các tình huống trong CTTT. Luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học, “Đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Mai Trang [166]. Tác giả đã làm rõ khái niệm “tuyên truyền”, “công tác tuyên truyền” và “công tác tuyên truyền của Đảng”. Tác giả chỉ ra ưu điểm, hạn chế công tác tuyên truyền trong điều kiện hội nhập quốc tế ở Việt Nam; trên cơ sở chỉ những hạn chế, yếu kém và dự báo thời cơ, thách thức, tác giả đề ra quan điểm và giải pháp đổi mới công tác tuyên truyền (giải pháp nâng cao nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của công tác tuyên truyền; giải pháp về thể chế; giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất - kỹ thuật). 14 Cuốn sách “Cơ sở lý luận công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam (sách chuyên khảo)” của tác giả Lương Khắc Hiếu [90]. Nội dung cuốn sách đã làm rõ khái niệm, phạm trù về các yếu tố, các bộ phận cấu thành của CTTT. Cuốn sách còn đi sâu nghiên cứu lý luận về các hình thái, các bộ phận của CTTT. Tác giả làm rõ được công tác tuyên truyền và hoạt động của BCV, TTV; công tác giáo dục lý luận chính trị và giáo dục truyền thống cách mạng; các tổ chức và sinh hoạt, hội họp của các tổ chức; các thiết chế văn hóa và hoạt động của các thiết chế văn hóa; các phương tiện thông tin đại chúng... Công trình, “Tính thuyết phục của công tác tư tưởng”, (2017) của tác giả Nguyễn Đắc Hưng [99]. Tác giả khẳng định, tính thuyết phục của CTTT là sự thuyết phục trên cả 3 phương diện: Quan điểm, lập trường và kỹ năng (năng lực thuyết phục); đồng thời, được thể hiện trên ba hình thái, ba bộ phận cơ bản, đó là: công tác lý luận, công tác giáo dục lý luận, công tác cổ động, làm cho chúng ngày càng hoàn thiện, thấm sâu vào tư tưởng của mọi đối tượng, động viên mọi người tham gia cách mạng. Để nâng cao tính thuyết phục, CTTT cần phải chú ý đến nội dung quan trọng sau: Một là, cần phải hiểu biết rõ nội hàm và bản chất CTTT, đồng thời đánh giá đúng thực trạng CTTT, thực trạng niềm tin, đạo đức, lối sống của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Hai là, để giữ vững và mở rộng mặt trận tư tưởng của Đảng đòi hỏi CTTT phải nâng cao tính chiến đấu chống lại quan điểm sai trái, thù địch, bám sát thực tiễn, sát đối tượng. Ba là, trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, khi làm CTTT cần nắm thông tin đa chiều, kết hợp thông tin từ trên xuống, thông tin từ dưới lên. Bốn là, cách thức chủ yếu của hoạt động tư tưởng là viết và nói; do đó, muốn thuyết phục cán bộ, đảng viên phải viết đúng theo quan điểm của Đảng, đúng bản chất của sự vật, hiện tượng. 1.1.3. Các công trình nghiên cứu về công tác tuyên giáo Cuốn sách, “Nghiệp vụ tuyên giáo (dành cho cán bộ tuyên giáo các cấp)” của tác giả Ngô Văn Thạo [144]. Tác giả khẳng định CTTG là sự thống nhất biện chứng giữa CTTT và công tác khoa giáo; CTTG chỉ các hoạt động tham mưu, chỉ đạo, kiểm tra của tổ chức đảng về lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và khoa giáo. Cuốn sách làm rõ vai trò, nguyên tắc, nội dung, phương châm và nhiệm vụ của CTTG ở
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan