Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác tôn giáo an giang...

Tài liệu Công tác tôn giáo an giang

.DOC
41
247
140

Mô tả:

MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 4. Phương pháp nghiên cứu 2 5. Kết cấu của đề tài 2 B. PHẦN NỘI DUNG 3 CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VỀ TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO 1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo 3 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo và công tác tôn giáo 3 1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo 5 1.2 Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước ta về tôn giáo 7 1.2.1. Đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo 7 1.2.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và công tác tôn giáo 9 CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ AN GIANG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC TÔN GIÁO GIAI ĐOẠN 1995-2014 2.1 Thực trạng công tác tôn giáo trong những năm trước và sau đổi mới 13 2.1.1 Thực trạng công tác tôn giáo trong những năm 1975 – 1995 13 2.1.2 Thực trạng công tác tôn giáo trong những năm 1995 – 2014 18 2.2 Chủ trương của Đảng bộ An Giang đối với công tác tôn giáo 23 2.3 Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm 27 2.3.1 Kết quả 27 2.3.2 Ý nghĩa 30 2.3.3 Bài học kinh nghiệm 31 C. PHẦN KẾT LUẬN 39 TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................2 4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................2 5. Kết cấu của đề tài................................................................................................2 B. PHẦN NỘI DUNG......................................................................................3 CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VỀ TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO 1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo.................................................................................................3 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo và công tác tôn giáo .................................................................................................................................. 3 1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo.......................5 1.2 Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước ta về tôn giáo .................................................................................................................................. 7 1.2.1. Đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo..................7 1.2.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và công tác tôn giáo .................................................................................................................................. 9 CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ AN GIANG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC TÔN GIÁO GIAI ĐOẠN 1995-2014 2.1 Thực trạng công tác tôn giáo trong những năm trước và sau đổi mới....13 2.1.1 Thực trạng công tác tôn giáo trong những năm 1975 – 1995................13 2.1.2 Thực trạng công tác tôn giáo trong những năm 1995 – 2014................18 2.2 Chủ trương của Đảng bộ An Giang đối với công tác tôn giáo..................23 2.3 Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm...................................................27 2.3.1 Kết quả..................................................................................................27 2.3.2 Ý nghĩa..................................................................................................30 2.3.3 Bài học kinh nghiệm..............................................................................31 C. PHẦN KẾT LUẬN.....................................................................................39 TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................40 Trang - 1 - A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tôn giáo vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một thực thể xã hội. Nó ra đời cách đây hàng ngàn năm, cùng với sự ra đời và phát triển của xã hội loài người. Từ lâu, tôn giáo đã trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân ở hầu hết các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó. Từ rất sớm, một số tôn giáo ngoại sinh du nhập vào nước ta như: Phật Giáo, Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do nhu cầu tín ngưỡng của một bộ phận lớn quần chúng nhân dân khu vực Nam Bộ đã hình thành nên những tôn giáo nội sinh như Cao Đài, Phật Giáo Hoà Hảo. Do đó, đến nay Việt Nam được xem là quốc gia đa tôn giáo với 6 tôn giáo chính thức. Vấn đề tôn giáo luôn là vấn đề phức tạp và nhạy cảm ở Việt Nam, vì vậy ngay từ rất sớm Đảng ta có cách nhìn nhận và đánh giá đúng đắn về vai trò của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân. Trong thời kỳ mới Đảng ta có Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (ngày 16/10/1990) về tôn giáo, Nghị quyết này đã tạo nên bước ngoặt quan trọng trong công tác tôn giáo. Hiện nay, Đất nước Việt Nam đã thống nhất, Đảng và Nhà nước ta tăng cường sự lãnh đạo về phương diện chính trị, kinh tế trong đó công tác tôn giáo vẫn là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng, mặc dù đất nước không còn chiến tranh, bóng dáng quân thù đã lùi xa nhưng các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn đang tìm mọi cách để chống phá cách mạng Việt Nam, trong đó tín đồ các tôn giáo là đối tượng được các thế lực này quan tâm đến, bởi vì vấn đề tôn giáo luôn là một lĩnh vực rất nhạy cảm, công tác tôn giáo nếu không thực hiện một cách khéo léo sẽ gây nên hậu quả nghiêm trọng về tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội. Do vậy vấn đề nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo dưới sự lãnh đạo của Đảng nói chung và của Đảng bộ tỉnh An Giang là vô cùng quan trọng, nó tác động to lớn đến tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Quán triệt Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị, từ 1990 Đảng bộ tỉnh An Giang đã lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo ở địa phương với những nét sáng tạo độc đáo riêng ở một tỉnh biên giới đa dân tộc, đa tôn giáo của vùng Tây Nam Bộ. Do đó, việc chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo (1995 - 2014)” làm bài Trang - 2 - thu hoạch môn Niên luận lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm bước đầu tìm hiểu nét đặc thù của tôn giáo ở An Giang và sự lãnh đạo của Đảng bộ trong lĩnh vực tôn giáo. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu sự lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo của Đảng bộ (từ năm 1995 đến năm 2014), bài niên luận bước đầu rút ra một số kinh nghiệm, góp phần vào công tác lãnh đạo của Đảng bộ trên lĩnh vực tôn giáo nói riêng, trong công tác dân vận ở địa phương nói chung. Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục đích trên, bài niên luận có nhiệm vụ - Trình bày đặc điểm tôn giáo ở An Giang và công tác tôn giáo của Đảng bộ. - Làm rõ quá trình lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo của Đảng bộ (từ năm 1995 đến năm 2014); trên cơ sở phân tích nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế, rút ra kinh nghiệm về công tác tôn giáo của Đảng bộ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Tôn giáo và công tác tôn giáo Phạm vi nghiên cứu: Dưới góc độ lịch sử, bài niên luận chỉ đi sâu tìm hiểu công tác tôn giáo của Đảng bộ và tập trung vào thời kỳ 1995 - 2014. 4. Phương pháp nghiên cứu Bài niên luận vận dụng các phương pháp lịch sử, lôgíc, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, bài niên luận được chia thành 2 chương: Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo. Chương 2: Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo công tác tôn giáo giai đoạn 1995 2014 Trang - 3 - B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG TA VỀ TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO 1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo và công tác tôn giáo Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc biệt, hiện đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Bàn về nguồn gốc xã hội và bản chất của nó Mác và Ăngghen viết “Sự nghèo nàn của tôn giáo là sự biểu hiện của nghèo nàn hiện thực và mặt khác là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là điều kiện tinh thần của điều kiện xã hội không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Kế thừa tư tưởng của Mác và Ăngghen, khi định nghĩa về tôn giáo, Lênin viết: “Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ nơi đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh khốn cùng và cô độc. Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu”. Như vậy, tôn giáo là sản phẩm của lịch sử, do con người sáng tạo ra, rồi bị tôn giáo chi phối trở lại. “Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”. Như vậy, tôn giáo là một thực thể xã hội, luôn gắn liền với đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của một nước, là nhu cầu tinh thần của đại bộ phận nhân dân. Theo Các Mác: “ngay trong một nước mà giải phóng chính trị đã hoàn thành, tôn giáo không những vẫn tồn tại mà còn biểu hiện sức sống và sức mạnh, thì điều đó chứng tỏ rằng tồn tại của tôn giáo không mâu thuẫn với tính chất hoàn thiện của nhà nước”. Tôn giáo do con người sáng tạo ra và tồn tại cùng với sự tồn tại của xã hội loài người. Để đáp ứng nhu cầu tôn giáo, bất cứ một nhà nước nào, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhằm tổ chức mối quan hệ giữa cái trần tục và cái siêu nhiên, phục vụ cho yêu cầu của chế độ, cũng phải định ra một thái độ ứng xử đối với tôn giáo. Đó là chính sách tôn Trang - 4 - giáo. Nhà nước phong kiến, cả phương Đông và phương Tây, thường dựa vào một tổ chức tôn giáo để điều hành đất nước. Hơn thế ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, chủ nghĩa thực dân cũng thường sử dụng tôn giáo làm công cụ để xâm lược và thống trị. Các dân tộc này bị ép buộc vứt bỏ tôn giáo của cha ông, cưỡng bức theo một tôn giáo của kẻ xâm lược, hay bị kẻ xâm lược dùng chính sách chia để trị trong lĩnh vực tôn giáo. Do đó người dân ở đây không được thừa nhận các quyền tự do, trong đó có tự do tôn giáo. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa những người cộng sản chủ trương xây dựng một xã hội không có áp bức giai cấp, không còn người bóc lột người, một “thiên đường trên thế gian”. Tuy nhiên với chức năng của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể và cần phải thực hiện việc quản lý đối với các hoạt động tôn giáo cũng như phản đối bất kỳ sự can thiệp nào của các tổ chức tôn giáo vào việc lãnh đạo nhà nước, cũng như biến tôn giáo thành một công cụ của giai cấp thống trị. Những người cộng sản cho rằng, đối với nhà nước phải thừa nhận tự do tôn giáo và không tôn giáo, nhà thờ tách khỏi nhà trường và nhà nước, tôn giáo là công việc riêng tư. Nhưng với đảng của giai cấp công nhân, “không thể và không được thờ ơ trước tình trạng thiếu giác ngộ, dốt nát hoặc mê muội mà biểu hiện là những tín ngưỡng tôn giáo… Đối với chúng ta, đấu tranh tư tưởng không phải là một việc tự nhiên mà là một việc của toàn Đảng, của toàn thể giai cấp vô sản”. Trong bài chủ nghĩa xã hội và tôn giáo V.I.Lênin đã nêu khá rõ điều đó. Người cũng không hề có sự phân biệt giữa người có đạo với người không có đạo, chủ trương sẵn sàng kết nạp những người có đạo vào Đảng Dân chủ Xã hội để toàn dân đấu tranh cho mục đích xã hội chủ nghĩa: “Chúng ta không những phải sẵn sàng kết nạp, mà còn cố gắng thu hút vào trong Đảng Dân chủ Xã hội tất cả những công nhân nào còn tin ở thượng đế”. “Chúng ta nhất định phản đối bất cứ một sự xúc phạm nhỏ nào đến những tín ngưỡng tôn giáo của họ”. Tuy nhiên V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, đối với các đảng viên có đạo, họ vẫn phải có trách nhiệm trước Đảng là tuyên truyền Chủ nghĩa Mác - Lênin, bản thân thực hiện và vận động quần chúng cùng thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng. Như vậy công tác tôn giáo có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của các Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định tôn giáo là một hình thái xã hội nên muốn làm thay đổi nó trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội. Muốn xóa bỏ những ảo tưởng trong đầu óc con người thì phải xóa bỏ nguồn gốc gây ra ảo tưởng đó. Muốn đẩy lùi được được những ước mơ về thiên đường hư ảo ở thế giới bên kia thì con người cần Trang - 5 - phải xây dựng cho một thiên đường có thực ngay tại trần gian này. Đó là một quá trình lâu dài để cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thông qua quá trình này mới tạo được khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội. Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giả quyết vấn đề tôn giáo. Trong những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và tác động của mỗi tôn giáo đối với các lĩnh vực trong đời sống xã hội là không giống nhau và quan điểm của giáo sĩ và giáo dân đối với các lĩnh vực trong đời sống trong xã hội cũng không thống nhất. Vì vậy, khi thực hiện nhất quán nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử cần phải có quan điểm với tôn giáo. Có nhiều tôn giáo khi mới ra đời được coi là phong trào bảo vệ, bênh vực quyền lợi của những người nghèo, người bị áp bức. Sau một thời gian tồn tại, tôn giáo ấy biến thành công cụ của giai cấp thống trị, bóc lột. Vì vậy đòi hỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có thái độ, cách ứng xử đúng đắn, phù hợp với từng trường hợp cụ thể. 1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết cách mạng Việt Nam mà còn có những cống hiến mới, sáng tạo mới, những phát triển mới đặc biệt quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Kết hợp hài hòa giữa lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ trong nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Sợi chỉ đỏ ấy đã xuyên thấm mọi lĩnh vực hoạt động của Người cả trong việc nhận thức ứng xử tôn giáo. Theo Hồ Chí Minh toàn bộ công tác tôn giáo phải hướng đến mục tiêu cơ bản và cấp thiết là độc lập, tự do cho dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi các giá trị nhân bản của các tôn giáo là những di sản văn hóa tinh thần quý báu của nhân loại, bằng những tri thức cách mạng, vốn hiểu biết văn hóa sâu sắc và cái nhìn duy vật biện chứng, Người phát hiện và tiếp cận cái chân, thiện, mỹ, cái cốt lõi nhân văn trong tôn giáo. Người viết: “học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác – Lênin có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê su, Tôn Dật Tiên chẳng phải có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân Trang - 6 - thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”. Người đã nhấn mạnh điểm chung giữa lý tưởng của chủ nghĩa Mác với tôn giáo và các học trò có tính tiến bộ, đó là mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Đây là một điểm lớn được Hồ Chí Minh khai thác một cách triệt để và tài tình trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo. Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin, lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử văn hoá nhân loại, Hồ Chí Minh cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng có tính lịch sử, xã hội và văn hóa, tham gia vào quá trình sáng tạo văn hoá nhân loại. Trong Nhật ký trong tù ở mục Đọc sách, Người viết: “ý nghĩa của văn hóa: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa hoc, tôn giáo, văn học, nghệ thật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát sinh đó tức là văn hóa.” Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết tôn giáo. Sau ngày độc lập 02/9/1945, ngày 03/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trước hội đồng chính phủ “về những cấp bách của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” – Trong đó người đề nghị Chính phủ ra tuyên bố “tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”. Ngày 14/6/1955, sau một năm tạm thời chia đôi đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh về tôn giáo, thể hiện chính sách tín ngưỡng tôn giáo nhằm củng cố niềm tin trong nhân dân: “việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ phụng là một quyền lợi của nhân dân”. Tư tưởng đoàn kết luôn bao trùm trong Hồ Chí Minh. Đối với tôn giáo hơn bao giờ hết cần đoàn kết thật lòng và bền vững. Người cho rằng việc đoàn kết lương giáo, đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo là một bộ phận của đoàn kết dân tộc. Để đoàn kết những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau với những người không theo tín ngưỡng, tôn giáo thì cần phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết đồng thời quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo. Thông qua thực tiễn cách mạng Việt Nam ở từng giai đoạn cụ thể, Hồ Chí Minh đã làm ra những động lực chủ yếu, trực tiếp cho chiến lược đoàn kết lương giáo, Người đã làm thất bại mọi âm mưu và hành động nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết lương giáo, xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm giữa dân tộc và đồng bào theo đạo. Trên cơ sở lập trường duy vật lịch sử, Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn khá bao quát và rộng rãi. Điều đó đưa người vượt qua mọi thành kiến hẹp hòi đối với tôn giáo, thực hiện thắng lợi chiến lược đại đoàn kết toàn dân, góp phần đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng. Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo ra đời khá lâu Trang - 7 - nhưng đến nay, tư tưởng của Người vẫn còn giá trị, là di sản tư tưởng vô cùng quý giá giúp Đảng và Nhà nước ta có cơ cở lý luận hoạch định chính sách tôn giáo trong bối cảnh tôn giáo diễn biến không ít phức tạp như hiện nay. 1.2 Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước ta về tôn giáo 1.2.1. Đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về tôn giáo Đảng và Nhà nước ta đã dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để đề ra chính sách tôn giáo cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ xây dựng đất nước. Đảng nhận thức rõ rằng tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản ánh hư ảo, hoang đường hiện thực khách quan; tôn giáo có vai trò và ảnh hưởng khá lớn đến đời sống xã hội. Đảng ta khẳng định rằng tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc biệt đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, tôn giáo còn tồn tại lâu dài; để giải quyết vấn đề tôn giáo cần gắn liền với quá trình vận động cách mạng, cải biến xã hội và nâng cao nhận thức của quần chúng. Đảng ta chủ trương đoàn kết các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, phát huy sức mạnh của cả dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nước ta có nhiều tôn giáo, với trên 20 triệu đồng bào theo các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, công tác tôn giáo phải được coi là một bộ phận của công tác vận động quần chúng xây dựng khối đại đoàn kết. Cần phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Mọi công dân điều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và không theo đạo, cũng như giữa các tôn giáo khác nhau. Đoàn kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân. Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữ gìn độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được đảm bảo. Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, kể cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể được tôn trọng, khuyến khích, phát huy. Mọi hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để làm mất trật tự, an toàn xã hội, phương hại nền đập lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại chính Trang - 8 - quyền nhà nước, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hóa của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ công dân, đều bị xử lý theo pháp luật. Nghiêm cấm các hoạt động mê tín dị đoan. Công tác tôn giáo có vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của các Đảng Cộng sản. Thực chất đây là công tác dân vận của Đảng. Ở nước ta công tác tôn giáo là việc tuyên truyền vận động bà con tín đồ, chức sắc hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm, đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, tuân thủ pháp luật, đoàn kết tôn giáo, bảo đảm tôn giáo đồng hành gắn bó với dân tộc, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Thông qua công tác tôn giáo, Đảng và Nhà nước có điều kiện thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và văn hoá tinh thần, nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào là tín đồ các tôn giáo. Thực hiện tự do tín ngưỡng, tích cực vận động đồng bào có đạo tăng cường đoàn kết xây dựng cuộc sống mới, sống “tốt đời đẹp đạo”, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng; Nhà nước có điều kiện tăng cường công tác quản lý, tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo pháp luật; mọi tín đồ, chức sắc, nhà tu hành thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, tích cực đóng góp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng cuộc sống mới ở cơ sở, các khu dân cư. Hơn nữa các cấp chính quyền tạo điều kiện tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ tín đồ và chức sắc tôn giáo nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Qua thực tiễn của công tác tôn giáo, cần xây dựng, củng cố tổ chức đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh trên các địa bàn của đồng bào có đạo. Cán bộ, đảng viên nói chung và đảng viên theo tôn giáo nói riêng cần phải gương mẫu thực hiện và vận động các tín đồ tôn giáo thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cần kiện toàn bộ máy làm công tác tôn giáo ở các ngành, các cấp, có quy hoach, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho công tác này. Mặt trận và các đoàn thể tăng cường công tác vận động tín đồ, chức sắc các tôn giáo hoà nhập cùng cộng đồng trong công cuộc đổi mới; thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”..., hăng hái tham gia phong trào thi đua yêu nước ở từng cơ sở, địa phương và cả nước. Trang - 9 - 1.2.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và công tác tôn giáo Đối với tín đồ các tôn giáo Tín đồ các tôn giáo có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự. Tín đồ các tôn giáo không được lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm trái pháp luật, không được hoạt động mê tín dị đoan. Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo theo pháp luật Việt Nam. Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có quyền: - Được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo của mình trong phạm vi trách nhiệm đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. - Được Nhà nước xét khen thưởng công lao đóng góp trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Được hưởng các quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của công dân. Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có nghĩa vụ: - Thực hiện đúng chức trách, chức vụ tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm tôn giáo đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp thuận và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm đó. - Động viên tín đồ chấp hành nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật của Nhà nước. - Người mạo danh chức sắc, nhà tu hành tôn giáo bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Người đang chấp hành án phạt tù, hoặc đang bị quản lý hành chính không được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo. Việc phục hồi chức trách, chức vụ tôn giáo của người đã hết hạn chấp hành các hình phạt kể trên phải do tổ chức tôn giáo quản lý người đó đề nghị và được cơ quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Việc mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành tôn giáo phải được phép của Thủ tưởng Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các trường thực hiện theo các quy định của Ban tôn giáo của Chính phủ. Các trường thực hiện theo các quy chế, chính sách, pháp Trang - 10 - luật của Nhà nước theo sự hướng dẫn, giám sát, kiểm tra của các cơ quan chức năng của Nhà nước và Ủy ban nhân dân cấp sở tại. Việc phong giáo phẩm, phong chức sắc, nhà tu hành tôn giáo; việc bổ nhiệm, thuyên chuyển những chức sắc, nhà tu hành… phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh (phong giáo phẩm Hòa thượng trong đạo Phật; Hồng y, Giám mục trong đạo Thiên Chúa và các giáo phẩm, chức vụ tương đương trong các tôn giáo khác phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ). Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo được các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài phong giáo phẩm, phong chức, bổ nhiệm phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Đối với các tổ chức tôn giáo Tổ chức tôn giáo có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức phù hợp với pháp luật và được Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt động thì được pháp luật bảo hộ. Tổ chức tôn giáo hoạt động trái tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức đã được Thủ tướng cho phép thì bị đình chỉ hoạt động. Những cá nhân chịu trách nhiệm về những vi phạm đó bị xử lý theo pháp luật. Chức sắc, nhà tu hành và tổ chức tôn giáo hoạt động từ thiện theo quy định của Nhà nước. Các cơ sở từ thiện do chức sắc, nhà tu hành và tổ chức tôn giáo bảo trợ hoạt động theo sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Đối với các hoạt động tôn giáo - Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự tôn giáo đã đăng ký hàng năm và thực hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép. - Những hoạt động tôn giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc chưa đăng ký hàng năm phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Các cuộc tĩnh tâm của linh mục trong giáo phận, của các cư sĩ tập trung từ nhiều cơ sở, dòng tu của đạo Thiên Chúa, các bồi linh của mục sư và truyền đạo của đạo Tin Lành, các kì an cư của tăng, ni đạo Phật và những sinh hoạt tôn giáo tương tự của các tôn giáo khác thực hiện theo quy định của cơ quan quản lí nhà nước cấp tỉnh về tôn giáo. Đại hội, hội nghị của các tổ chức tôn giáo cấp toàn quốc, hoặc có liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải được phép của Thủ tướng Chính phủ. Trang - 11 - Đại hội, hội nghị của tổ chức tôn giáo các cấp ở địa phương phải được phép của chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh. Việc in, xuất bản các loại kinh, sách và các xuất bản phẩm tôn giáo, việc sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng trong việc đạo thực hiện theo quy chế của Nhà nước về in, xuất bản, sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm, hàng hóa. Cấm in, sản xuất, kinh doanh, lưu hành, tàng trữ sách báo, văn hóa phẩm có nội dung chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây chia rẽ tôn giáo, chia rẽ dân tộc, gây mất đoàn kết trong nhân dân. Đối với nơi thờ tự và tài sản của các tổ chức tôn giáo - Nhà nước bảo hộ nơi thờ tự của các tổ chức tôn giáo. Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm giữ gìn, tu bổ nơi thờ tự. - Nhà, đất và các tài sản khác đã được các tổ chức, cá nhân tôn giáo chuyển giao cho các cơ quan nhà nước quản lí, sử dụng do thực hiện chính sách của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Việt Nam lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoặc tặng, hiến cho Nhà nước thì thuộc quyền sở hữu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ, không làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình thuộc cơ sở thờ tự thì tổ chức thực hiện sau khi thông báo cho chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã sở tại. - Việc sửa chữa lớn làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ sở thờ tự; việc khôi phục công trình thờ tự bị hoang phế, bị hủy hoại do chiến tranh, thiên tai, rủi ro; việc tạo lập cơ sở thờ tự mới, xây dựng công trình thờ tự (nhà, tượng, bia, đài, tháp…) phải được phép của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh. - Tổ chức tôn giáo được tạo nguồn tài chính từ sự ủng hộ tự nguyện của cá nhân, tổ chức, từ những thu nhập hợp pháp khác. - Việc tổ chức quyên góp bao gồm cả quyên góp để xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự phải được Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh cho phép. Nghiêm cấm việc ép buộc tín đồ đóng góp. - Việc quản lý, sử dụng các khoản tài chính có được từ các nguồn trên đây thực hiện theo quy định của pháp luật. Trang - 12 - Đối với hoạt động đối ngoại của tôn giáo - Hoạt động quốc tế của tổ chức tôn giáo, của các tín đồ, chức sắc tôn giáo phải tuân thủ pháp luật và phù hợp với chính sách đối ngoại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và hữu nghị. - Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước mời tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài vào Việt Nam phải được sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính phủ. - Tổ chức, cá nhân nước ngoài, kể cả tổ chức cá nhân tôn giáo vào Việt Nam để hoạt động ở các lĩnh vực không phải là tôn giáo thì không được tổ chức, điều hành các hoạt động tôn giáo, không được truyền bá tôn giáo. - Các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước muốn nhận viện trợ thuần túy tôn giáo phải xin phép Thủ tướng Chính phủ. Để thực hiện tốt chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước hiện nay, cần quán triệt sâu sắc những quan điểm cơ bản của Đại hội IX về vấn đề tôn giáo trong tình hình mới, đó là “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, nâng cao đời sống của đồng bào. Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Từng bước hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo. Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia” Trang - 13 - CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ AN GIANG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC TÔN GIÁO GIAI ĐOẠN 1995-2014 2.1 Thực trạng công tác tôn giáo trong những năm trước và sau đổi mới 2.1.1 Thực trạng công tác tôn giáo trong những năm 1975 - 1995 Sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng, đời sống dần ổn định trở lại, tiếp đó là những thay đổi to lớn trong đời sống xã hội đã khiến trong nhận thức và trong đời sống tôn giáo của nhân dân có nhiều chuyển biến sâu sắc. Người dân phải lo toan những nhu cầu đời thường, bình dị, nhưng thân thương, trong đó có nhu cầu tôn giáo. Sau khi giải phóng miền Nam, Đảng ta đã có một thời gian dài bỏ ngõ mặt trận tôn giáo. Do chưa nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của tôn giáo trong đời sống nhân dân, cũng như tầm quan trọng của công tác tôn giáo, nên chưa có những chủ trương, chính sách phù hợp. Điều này tuy không đi ngược lại nguyện vọng tha thiết của quần chúng nhân dân có đạo, và không sai lệch tư tưởng về tôn giáo và tự do tôn giáo của Hồ Chủ tịch, nhưng có phần tả khuynh nóng vội. Trong Nghị Quyết 40 của Ban Bí thư về công tác đối với các tôn giáo trong tình hình mới năm 1981 nhấn mạnh “Tôn giáo phát sinh và tồn tại là do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh chống lại thiên tai và áp bức xã hội. Khi cuộc sống còn chưa tốt đẹp, trình độ văn hoá còn thấp kém và chưa có một thế giới quan khoa học, thì con người còn tin ở sức huyền bí nào đó, còn tin ở các tôn giáo”. Bên cạnh đó “nhiều cán bộ, đảng viên đã mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, coi nhẹ công tác quần chúng, trong đó có công tác vận động, tổ chức và xây dựng cơ sở chính trị cốt cán trong cộng đồng các tôn giáo. Nhận thức, quan điểm về công tác tôn giáo của một số cán bộ đảng viên có những lệch lạc. Việc tổ chức thực hiện công tác tôn giáo chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp; bộ máy làm công tác tôn giáo quá yếu; chậm có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tôn giáo”. Những yếu kém trong công tác tôn giáo trên khiến các thế lực thù địch ra sức khai thác để chống phá ta. Chúng vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vu cáo ta vi phạm nhân quyền. Trong giai đoạn này Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo cũng gặp nhiều khó khăn phức tạp, nhất là với đạo Phật giáo Hoà Hảo và đạo Cao Đài. Năm 1989 các tín đồ Phật Giáo Hoà Hảo đề nghị Nhà nước ta chấp thuận 3 vấn đề sau: 1) Công nhận đạo Phật giáo Hòa Hảo được tồn tại trong xã hội. 2) Được tổ chức lễ ngày thành lập đạo 18.5 âm lịch một cách công khai. 3) Cho phép đọc sấm giảng Hòa Hảo Trang - 14 - trong tín đồ. Khi được Nhà nước chấp thuận, một số phần tử phản động núp dưới chiêu bài giữ đạo, lợi dung các cuộc tụ tập tín đồ hợp pháp như: Lập đoàn tín đồ đi viếng núi, chùa, dự lễ giỗ Đoàn Minh Huyên, Ngô Lợi, Trần Văn Thành hoặc tung tin Nhà nước cho phép tổ chức lễ 18.5 âm lịch sớm hơn mọi năm, để tập hợp tín đồ tuyên truyền sấm giảng, thuyết pháp đạo. Nhiều băng cassette về sấm giảng, thuyết pháp đạo rộ lên và được phổ biến khắp các huyện thị. Đồng thời trong tín đồ Phật giáo Hòa Hảo cũng lan truyền nhiều tin đồn mê tín dị đoan, chiến tranh tâm lý như: năm Kỷ Tỵ sẽ tối trời tối đất, hoặc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, chiến tranh sẽ xảy ra ác liệt hơn 1979... nhằm gieo rắc tư tưởng hoài nghi đối với chế độ và tâm lý không an tâm sản xuất trong quần chúng. Bọn phản động, bọn xấu trong Phật giáo Hòa Hảo lợi dụng các chùa chiền, đình miếu có tổ chức lễ giỗ hợp pháp để lồng vào màu sắc của đạo Phật giáo Hòa Hảo, nhằm biến nơi này thành cơ sở thờ tự của đạo như: Chúng lợi dụng việc sửa chữa Dinh Quan Ông Thẻ để đưa trần điều và ảnh Huỳnh Phú Sổ vào thờ, tuyên truyền chùa Phước Điền, Trại ruộng Thới Sơn (Tịnh Biên) là nơi Huỳnh Phú Sổ hoạt động đạo lúc còn sống để tuyên truyền đưa tín đồ “hành hương về cội nguồn của đạo”. Quá trình lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo trong giai đoạn trước 1990, Đảng bộ Tỉnh An Giang đã giải quyết được một số sự vụ xảy ra ở các đạo mà cụ thể nổi bật nhất là các sự vụ thuộc đạo Cao Đài. Từ khi hình thành và phát triển, các thế lực phản động trong đạo Cao Đài luôn câu kết chặt chẽ với ngụy quân, ngụy quyền một mặt để chống phá cách mạng, một mặt để kìm kẹp và ru ngủ tín đồ. Sau ngày giải phóng, một số chức sắc đạo Cao Đài An Giang lợi dụng chính sách đổi mới của Nhà nước đối với tôn giáo, lợi dụng một số sai sót của chính quyền địa phương trong việc sử dụng các thánh thất Cao Đài làm trụ sở, nhà kho, trái chủ trương “cải tạo” đạo này của Đảng và Nhà nước để họ đưa đơn khiếu nại xin lại thánh thất hoặc xin được tổ chức lễ như cũ. Đặc biệt có nơi tín đồ xin phục hồi lại các chức vị cũ của đạo... Hoạt động chống đối của bọn phản động lợi dụng Cao Đài nổi bật là năm 1978. Chúng nhen nhóm tập hợp tín đồ với tổ chức mệnh danh là “Thiên Khai Huỳnh Đạo” nhằm xây dựng lực lượng vũ trang lật đổ chính quyền. Năm 1983, chúng tham gia cái gọi là “Hội đồng hòa giải quốc tế” do Hồ Tấn Khoa, Võ Văn Nhơn, Hồ Vũ Khanh cầm đầu. Chúng đã tổ chức hơn 60 tên trong Ban Trị Sự, đạo hữu rải rác ở các Thánh thất Cao Đài trong Tỉnh tham gia, có băng cờ, lời hiệu chuẩn bị cho việc lật đổ chính quyền cách mạng. Công an Tỉnh đã phá án và xử lý trong năm 1983. Từ sau Đại hội VI, đạo Cao Đài ở An Giang cũng như các tôn giáo khác tích Trang - 15 - cực hoạt động cũng cố nhằm tái lập lại Ban Trị sự các cấp, phục hồi các chức sắc, chức việc như cũ. Nguyễn Trung Chánh vốn là ông từ coi sóc Thánh thất Châu Đốc trực tiếp làm đơn xin Mặt trận Tổ Quốc cho cúng “Lễ vía Hộ pháp” Phạm Công Tắc (12/5/1989) và sau đó tiếp tục làm đơn xin làm lễ mừng sinh nhật Phạm Công Tắc (8/6/1989 tức 5.5 âm lịch). Trong lễ sinh nhật có xe hoa múa lân, nhạc lễ... Bên cạnh đó, những người cầm đầu đã lén lút tăng cường dạy nhạc lễ cho các cháu thiếu nhi nhằm củng cố lại ban nhạc lễ, đội đồng nhi, củng cố lại các nghi thức hoạt động đạo, làm cho tình hình trở nên phức tạp hơn. Nhìn chung, hoạt động và âm mưu của các đối tượng phản động lợi dụng Cao Đài trong giai đoạn này là tích cực củng cố đức tin, tập hợp lực lượng, nắm tín đồ, kích động đồng bào có đạo làm đơn đòi yêu sách (đòi mỗi ấp có một đại diện, mỗi hương đạo cho bầu lại Ban Trị Sự, Lễ Sanh, cho khôi phục lại các chức danh chức sắc với đầy đủ các nghi thức có cả phù hiệu, chức hiệu, chức sắc, cho vọng 7 tiếng chuông thật to khi làm lễ...) nhằm mục đích tái lập lại tổ chức hành chính Đạo, làm sầm uất các hoạt động của Đạo, tập hợp lực lượng, chờ thời cơ để hoạt động chống phá cách mạng. Để giải quyết vấn đề này Tỉnh uỷ, Uỷ ban ra quyết định thành lập Ban Tôn giáo Dân tộc, tiếp tục các hoạt động cải tạo tức là không cho hoạt động cơ bút, không cho tái lập tổ chức hành chánh đạo, không cho phục hồi lại số chức sắc, chức việc. Về cơ sở tiếp tục quản lý điện thờ phật mẫu, mỗi thánh thất chỉ cho từ 1 đến 3 người cai quản, cho làm lễ các ngày rằm. Cho phép sữa chữa các thánh thất nhưng phải làm đủ các thủ tục (đơn xin, bản thiết kế đảm bảo các tiêu chuẩn mỹ quan vệ sinh và được sự cho phép của Uỷ ban Nhân dân huyện. Riêng đối với công an, cho tiến hành công tác trinh sát đối với một số đối tượng hoạt động phản cách mạng (các tổ chức bị tình nghi phản cách mạng), cho phép lập án khi đủ điều kiện. Bên cạnh các hoạt động trên, một số cơ sở tôn giáo đã có những hoạt động coi thường pháp luật như tự ý sửa chữa chùa, đình, nhà thờ không xin phép chính quyền địa phương, chứa chấp người lạ từ nơi khác đến tạm trú trong chùa, nhà thờ quá hạn quy định, tổ chức quyên góp tiền trong dân để làm lễ giỗ trái phép. Đáng chú ý là tình hình dân các tỉnh khác đến vùng Bảy Núi tự xây dựng am, cốc tu và tuyên truyền mê tín dị đoan, khuếch trương thanh thế để lôi kéo người dân vào đạo. Việc thu hút nhiều người từ nơi khác đến gây phức tạp và làm mất an ninh trật tự ở khu vực. Với tình hình tôn giáo trong tỉnh, Đảng bộ tỉnh An Giang đã kịp thời lãnh đạo thực hiện chủ trương chính sách Trang - 16 - của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo. Qua nghiên cứu, chính quyền và các đoàn thể địa phương nhận thấy kẻ xấu lợi dụng tôn giáo chủ yếu vào mục đích cá nhân. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng về phương diện nào đó, các tôn giáo đã lôi cuốn được một số lượng quần chúng tham gia nhất định. Vì vậy, công tác đấu tranh của chính quyền địa phương thời gian này chủ yếu là công tác giáo dục răn đe, công khai hóa các đối tượng đứng ra thuyết pháp đạo, tung tin đồn nhảm, mê tín dị đoan, thu phát các băng cassette nói kinh, giảng, bàn luận thiên cơ, chứa chấp người tạm trú trái phép, sửa chữa chùa, đền không xin phép chính quyền, tự động quyên góp tiền của nhân dân để hoạt động đạo... Tuy nhiên hiệu quả công tác đấu tranh chưa đạt yêu cầu cao, nhất là đối với việc chủ động ngăn chặn những hoạt động tuyên truyền mê tín dị đoan, tuyên truyền chiến tranh tâm lý, ta chưa kịp thời tổ chức phản tuyên truyền nên ít nhiều có gây ảnh hưởng trong bộ phận quần chúng. Việc chứa chấp người từ nơi khác đến tạm trú ở các cơ sở thờ tự tôn giáo để làm công hoả quá hạn gây khó khăn cho ta trong việc giáo dục động viên, trục xuất họ về địa phương sản xuất. Việc sửa chữa, xây cất đình, chùa ta thường bị động, ta giải quyết khi họ đã chuẩn bị sẳn sàng vật liệu, hoặc đến khi họ xin phép ta mới phát hiện, thậm chí có nơi họ đã thi công xong. Đây là giai đoạn đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Những thành tựu về kinh tế ở địa phương góp phần làm phong phú thêm đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời đặt ra những nhu cầu mới. Khái quát về sự đổi mới công tác tôn giáo của Đảng Ngày 16/10/1990, Bộ Chính trị đã ra NQ 24/NQ24.TƯ về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết này đánh dấu nhận thức mới của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta. Điều nổi bật là việc Đảng khẳng định tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài và là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Nghi quyết 24/NQ.TƯ đã nêu ra 3 quan điểm chỉ đạo đổi mới công tác tôn giáo, 3 nhiệm vụ, 5 nguyên tắc và 5 chính sách cụ thể đối với tín đồ, với chức sắc nhà tu hành, với tổ chức giáo hội, với hoạt động từ thiện xã hội của tôn giáo và với hoạt động đối ngoại của tôn giáo. Ngày 21/3/1991 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 69/NĐ.HĐCP cụ thể hoá những nội dung quan điểm của Nghị quyết 24/NQ.TƯ. Nghị quyết 24 và Nghị định 69 đã tác động mạnh tới tình hình tôn giáo ở nước ta theo chiều hướng tích cực. Năm 1994, Ban Bí thư đã chỉ đạo việc sơ kết thực hiện Nghị quyết 24/NQ.TƯ. Việc sơ kết này Trang - 17 - bước đầu đánh giá tác động và hiệu quả của quan điểm mới. Có thể khẳng định rằng so với Nghị quyết số 40/NQ.TƯ ngày 1/10/1981 của Ban Bí thư đến Nghị quyết số 24/NQ.TƯ ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị vấn đề tôn giáo được đặt ra gần như hoàn toàn mới. Nghị quyết 40 (1981) khẳng định “Tôn giáo phát sinh và tồn tại là do sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh chống lại thiên tai và áp bức xã hội. Khi cuộc sống còn chưa tốt đẹp, trình độ văn hoá còn thấp kém và chưa có một thế giới quan khoa học, thì con người còn tin ở sức huyền bí nào đó, còn tin ở các tôn giáo. Giai cấp bóc lột, nhất là chủ nghĩa đế quốc lại ra sức lợi dụng tôn giáo để ru ngủ, mê hoặc quần chúng nhằm phục vụ cho sự thống trị, bóc lột và xâm lược của chúng nên càng làm cho tôn giáo phát triển. Mặc khác, tôn giáo lại mang tính chất quần chúng thì càng nhiều người tin theo và đối với những người có đạo, tôn giáo là một “tình cảm thiêng liêng”, thậm chí là một “lý tưởng”, mặc dù đó là tình cảm không đúng và lý tưởng mù quáng. Cho nên Mác nói: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Đảng của giai cấp công nhân có trách nhiệm giải phóng quần chúng lao động khỏi mọi áp bức xã hội và áp bức tinh thần trong đó có việc giải phóng quần chúng lao động khỏi mọi áp bức tôn giáo. Việc giúp quần chúng khắc phục mê tín tôn giáo, không phải chỉ bằng đấu tranh tư tưởng, tuyên truyền về lý luận, càng không thể bằng những biện pháp hành chính. Vấn đề cơ bản là Đảng phải vận động, lãnh đạo quần chúng đoàn kết đấu tranh cách mạng, xoá bỏ áp bức, bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống kinh tế, trình độ văn hoá và kiến thức khoa học cho quần chúng đồng thời giúp quần chúng xây dựng nhân sinh quan, thế giới quan cách mạng và khoa học”. Thời kỳ này, trên thực tế nhiều nơi các cấp chính quyền đã “cấm đạo”, tìm cách hạn chế đi đến “xóa bỏ” các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng. Gần mười năm sau (1990), Nghị quyết 24 của Bộ chính trị khẳng định: “Tôn giáo là một vấn đề tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện đoàn kết lương giáo, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Như vậy, nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo có bước phát triển mới. Giữa cách mạng và tôn giáo đã có những điểm tương đồng nhất định về đạo đức và văn hóa; tôn giáo sẽ cùng tồn tại lâu dài dưới chủ nghĩa xã hội chứ không phải là mâu thuẫn đến mức phải loại trừ lẫn nhau. Trang - 18 - 2.1.2 Thực trạng công tác tôn giáo trong những năm 1995-2014 Thực hiện đường lối chính sách pháp luật trên từ 1994 đến 1998 Chính phủ lần lượt thừa nhận tư cách pháp nhân cho các hệ phái Cao Đài và xem xét việc thành lập Ban đại diện của Phật giáo Hòa Hảo, đồng thời hướng dẫn các cấp tổng kết thực hiện Nghị quyết 24. Qua tổng kết đã khẳng định tính đúng đắn của các quan điểm trong Nghị quyết 24, đồng thời yêu cầu mở rộng đoàn kết, tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo. Ngày 2/7/1998 Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 37/CT. Ngày 20/6/1994 Ban Bí thư ra Thông báo số 76/TB.TƯ trong đó lần đầu tiên nêu ra khái niệm mới “Đảng viên có đạo”. Điều này phù hợp với tư tưởng của các nhà kinh điển Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. V.I. Lênin cũng không hề có sự phân biệt giữa người có đạo với người không có đạo. Vấn đề đối với quần chúng lao động là “Đối với chúng ta, sự thống nhất trong cuộc đấu tranh cách mạng thực sự đó là của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên đường”. Lênin kêu gọi cần kết nạp những người có đạo vào Đảng Dân chủ Xã hội để cùng toàn dân đấu tranh cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa: “Chúng ta không những phải sẳn sàng kết nạp, mà còn cố gắng thu hút vào Đảng Dân chủ Xã hội tất cả những công nhân còn tin ở thượng đế” và “Chúng ta nhất định phản đối bất cứ một sự xúc phạm nhỏ nào đến những tín ngưỡng tôn giáo của họ”. Về vấn đề này, vào năm 1955, trong bài nói chuyện ở lớp huấn luyện cán bộ tri thức, Hồ Chí Minh đã có quan điểm dứt khoát: “Có anh em hỏi một người Công giáo có thể vào Đảng được không? Có. Người tôn giáo nào vào cũng được, miễn là trung thành, hăng hái làm nhiệm vụ, giữ đúng kỷ luật Đảng. Nước ta kinh tế lạc hậu, kỹ thuật kém, tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật, nhưng trong điều kiện hiện tại, người theo đạo vẫn vào Đảng được”. Ngày 19/4/1999 Chính phủ ban hành Nghị định 26/NĐ.CP về các hoạt động tôn giáo đã tạo điều kiện cho các địa phương thực hiện tinh thần đổi mới của Nghị quyết 24 một cách có hiệu quả. Đại hội IX của Đảng (2001) khẳng định lại những tư tưởng chủ đạo, cơ bản, có nguyên tắc phổ biến về quan điểm của Đảng đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Các cuộc hội nghị Trung ương (khoá IX) bàn và ra nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là cơ sở chỉ đạo để xây dựng các văn bản pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam. Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhiều cấp, nhiều ngành; vì vậy, tôn giáo và công tác tôn giáo là vấn đề quan trọng, rất nhạy cảm Trang - 19 - và tế nhị, từ những vấn đề về lý luận và thực tiễn đấu tranh dựng nước và giữ nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, hội nghị lần thứ VII (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW, ngày 12/3/2003 Về công tác tôn giáo. Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương VII (khoá IX), Tỉnh uỷ An Giang đã tổ chức, kiểm điểm tình hình công tác tôn giáo và vai trò chỉ đạo của các cấp uỷ, vai trò quản lý nhà nước về công tác tôn giáo thời gian qua; từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện đối với từng ngành, từng cấp của hệ thống chính trị trong tỉnh. Qua học tập Nghị quyết, chương trình hành động của Tỉnh uỷ, kế hoạch thực hiện của Ủy ban Nhân dân tỉnh, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, các chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo, nhân dân, nhất trí cao với Nghị quyết đề ra. Từ đó cũng nâng cao nhận thức, vai trò trách nhiệm của hệ thống chính trị các cấp, nhất là cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ công tác tôn giáo. Đặc biệt làm vô hiệu hoá việc tuyên truyền xuyên tạc chính sách về tự do tín ngưỡng, làm cho mọi người nhận thức rõ âm mưu thâm độc, thủ đoạn xảo quyệt, tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch, các đối tượng đội lốt tôn giáo đầu cơ chính trị, phá hoại truyền thống yêu nước của tín đồ, truyền thống Đại đoàn kết của dân tộc ta. Ghi nhận sự nổ lực không ngừng và những thành tích của An Giang trong sự nghiệp Quản lí nhà nước về tôn giáo, tại Đại hội tổng kết công tác tôn giáo diễn ra tại Hà Nội ngày 24-26/02/2011, An Giang đã được tặng 5 bằng khen của Bộ Nội vụ và 10 giấy khen của Ban Tôn giáo Chính phủ cho các tập thể và cá nhân có nhiều đóng góp cho công tác tôn giáo năm 2010. Kế hoạch 08/KH-TGCP ngày 01/5/2006 của Ban Tôn giáo Chính phủ đối với các tôn giáo chưa được công nhận về mặt tổ chức theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã được triển khai tốt trên địa bàn tỉnh An Giang với đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kì Hương và Tịnh Độ Cư Sĩ Phật hội tỉnh An Giang. Các chức sắc, chức việc và tín đồ các tôn giáo này rất phấn khởi và ngày càng tin vào chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và thực hiện đúng pháp luật Nhà nước. Thực hiện Quyết định số 83/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo và cán bộ, công chức quản lý nhà nước về tôn giáo giai đoạn 2006-2010 cho 8 huyện, thị, thành phố trong tỉnh An Giang với 1.394 học viên tham dự, là những đồng chí vừa được sắp xếp, điều chỉnh nhân sự sau Đại hội Đảng các cấp. 12 đồng chí đã được Ban Tôn giáo Trang - 20 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan