HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ KIM LIÊN
C¤NG NGHIÖP V¡N HãA ë
THµNH PHè Hå CHÝMINH HIÖN NAY
(Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI – 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ KIM LIÊN
C¤NG NGHIÖP V¡N HãA ë
THµNH PHè Hå CHÝMINH HIÖN NAY
(Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62 31 06 40
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG
PGS.TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Kim Liên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
1
8
ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU CÔNG NGHIỆP
8
19
28
31
VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
2.1. Một số khái niệm công cụ
2.2. Đặc điểm và vai trò của nghệ thuật biểu diễn
2.3. Những nhân tố tác động đến nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay
31
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG LĨNH VỰC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở
61
42
53
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
3.1. Thực trạng hoạt động sáng tạo/sản xuất nghệ thuật biểu diễn ở
Thành phố Hồ Chí Minh
3.2. Thực trạng công nghệ tổ chức biểu diễn và doanh thu
3.3. Thực trạng phân khúc thị trường và vấn đề bản quyền
3.4. Đánh giá chung
Chƣơng 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
63
76
83
92
118
NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
4.1. Những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
118
4.2. Dự báo xu hướng vận động, phát triển công nghiệp văn hóa và
nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng
4.3. Khuyến nghị về các giải pháp phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh
128
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
146
150
133
151
164
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ASEAN
: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
CLB
: Câu lạc bộ
CNVH
: Công nghiệp văn hóa
FTA
: Hiệp định Thương mại tự do
GĐ
: Giám đốc
NCS
: Nghiên cứu sinh
NTBD
: Nghệ thuật biểu diễn
NSND
: Nghệ sĩ nhân dân
NSUT
: Nghệ sĩ ưu tú
PGS.TS
: Phó Giáo sư, Tiến sĩ
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
TPP
: Đối tác Xuyên Thái Bình Dương
TS
: Tiến sĩ
Tp
: Thành phố
UNESCO
: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
UNCTAD
: Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc
VH, TT & DL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch
VCPMC
: Trung tâm Bảo vệ quyền tác phẩm âm nhạc Việt Nam
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
WTO
: Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1:Tỷ lệ tăng doanh thu của sân khấu Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013
81
Biểu đồ 3.2: So sánh tỷ lệ tăng doanh thu của sân khấu Hồng Vân và một
số sân khấu khác trong giai đoạn 2009 – 2013
81
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ cơ cấu các yếu tố góp phần tăng doanh thu của sân khấu
Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013
Biểu đồ 3.4: So sánh tỷ lệ đóng góp vào việc tăng doanh thu từ các dòng
sản phẩm của sân khấu kịch Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013
Biểu 3.5: Đánh giá về giá vé tại sân khấu
Biểu 3.6: Đánh giá về chất lượng ca sĩ
Biểu 3.7: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lượng chương trình
Biểu 3.8: Đánh giá về chất lượng diễn viên chính
Biểu 3.9: Đánh giá về chất lượng diễn viên phụ
Biểu 3.10: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lượng nội dung các
vở diễn
Biểu 3.11: Thông tin về các chương trình ca nhạc ở sân khấu này qua các
kênh truyền thông
Biểu 3.12: Thông tin về các vở diễn của các sân khấu qua các kênh truyền
thông
Biểu 4.1: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lượng nội dung các vở
diễn
Biểu 4.2: Đánh giá của cán bộ quản lý sân khấu về thuật ngữ CNVH
Biểu 4.3: Đánh giá của cán bộ quản lý nhà nước về thuật ngữ CNVH
Biểu 4.4: Các vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự phát triển của CNNTBD
Biểu 4.5: Định hướng giá trị của các đơn vị nghệ thuật
82
83
86
96
97
98
98
99
106
107
120
122
123
126
144
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 4.1: Chính sách nhà nước cần ưu tiên để tạo động lực phát triển CNVH
139
Bảng 4.2: Giải pháp cần ưu tiên phát triển công nghiệp văn hóa
143
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới, công nghiệp văn hóa (CNVH) đang
đóng vai trò là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế tri thức, có
khả năng to lớn trong việc truyền bá, bảo vệ, phát huy bản sắc giá trị văn hóa dân
tộc. Ở Việt Nam, vào những năm 90 của thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện nhận thức
mới về lao động sáng tạo văn hóa – nghệ thuật, coi đó là một loại lao động đặc
biệt và tìm tòi nhiều phương thức nhằm phát triển văn hóa – nghệ thuật trong điều
kiện nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên cho đến nay, cả về lý luận và thực tiễn phát
triển công nghiệp văn hóa chỉ mới ở giai đoạn đầu, có nhiều vấn đề đang đặt ra cần
phải tiếp tục nghiên cứu.
Việt Nam đang ở thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN), phát triển công nghiệp văn hóa là tất yếu khách quan.
Trong định hướng phát triển văn hoá của Đảng và Chiến lược phát triển văn hóa
từ nay đến năm 2020, vấn đề phát triển công nghiệp văn hoá đã được đặt ra.
Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình phát triển văn hóa nói
chung, phát triển công nghiệp văn hóa nói riêng. Có thể nói, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII) được coi như Nghị quyết có ý nghĩa đột phá chỉ rõ vai
trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế: “Văn hóa là kết quả của kinh tế,
đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết
chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh
tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất
của phát triển” [19, tr.55]. Trong phần giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa,
chính sách kinh tế trong văn hóa đã được Đảng ta xác định là một trong những
chính sách quan trọng tạo điều kiện nhiều hơn để phát triển sự nghiệp văn hóa.
Trong Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 (2009), lần đầu tiên ở Việt
Nam, khái niệm “công nghiệp văn hóa” đã xuất hiện và khẳng định: “Phát triển
2
“công nghiệp văn hoá” đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn
hoá của các nước trên thế giới” [70, tr.11]. Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị
(2009) về phát triển văn học, nghệ thuật thời kỳ mới đã khẳng định về sự hình
thành một thị trường hàng hóa và dịch vụ các sản phẩm văn học, nghệ thuật.
Nghị quyết số 22-NQ/TW về Hội nhập quốc tế (2013), trong đó việc xây dựng
Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được xem là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI (Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI)
(2014), đề ra nhiệm vụ xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát
triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam; phát triển
công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa.... Tuy
nhiên, cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa ban hành được Chiến lược phát triển công
nghiệp văn hóa. Điều này sẽ hạn chế việc cụ thể hóa những quan điểm đổi mới của
Đảng về phát triển văn hóa, phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc trong giai đoạn
đổi mới, hội nhập hiện nay. Vì vậy, thực hiện đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần
triển khai đường lối của Đảng về phát triển văn hóa nói chung và công nghiệp văn
hóa nói riêng.
Công nghiệp văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó, nghệ
thuật biểu diễn là một trong những lĩnh vực quan trọng có tính đặc thù. Nghiên
cứu công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh
hiện nay là vấn đề hết sức bức thiết. Bởi lẽ, Tp. Hồ Chí Minh là một thành phố
công nghiệp trẻ, năng động và phát triển, có nhiều điểm giải trí về văn hóa nghệ
thuật nhất trong cả nước. Cùng với sự phát triển kinh tế, mức sống của người
dân được nâng cao, hoạt động vui chơi giải trí ngày càng được quan tâm hơn để
đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của xã hội. Sự phát triển về du lịch nảy sinh
yêu cầu phục vụ du khách cũng đã góp phần làm phong phú thêm lĩnh vực dịch
vụ này. Trong những năm đổi mới gần đây, do tác động của cơ chế thị trường và
ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa, hoạt động nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh đã có những chuyển biến rõ rệt. Nhiều yếu tố của nghệ thuật biểu diễn
3
được các đơn vị chú trọng, như phát triển thị trường khán giả, phân đoạn thị
trường, chọn thị trường mục tiêu, đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo, mở rộng
địa điểm biểu diễn, nâng cao chất lượng chương trình… Tuy nhiên, sự phát triển
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn còn nhiều vấn đề đặt ra. Đó là hiện tượng sự phát
triển thị trường nghệ thuật còn mang tính tự phát, cạnh tranh không lành mạnh.
Nhiều mâu thuẫn xuất hiện như: mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật biểu
diễn và khả năng đáp ứng; mâu thuẫn giữa tính cấp bách phải phát triển lĩnh vực
nghệ thuật biểu diễn với nhận thức lạc hậu về tổ chức, quản lý tổ chức; mâu thuẫn
giữa bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của nghệ thuật biểu diễn với mở rộng
giao lưu, hợp tác quốc tế… chưa được giải quyết.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề
tài: Công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát
một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn) để viết luận án tiến sĩ văn hóa học. Hy
vọng kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn của phát triển ngành công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở
Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận nghiên cứu
công nghiệp văn hóa, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh; trên cơ
sở đó khảo sát thực trạng công nghiệp văn hoá qua một số lĩnh vực nghệ thuật
biểu diễn; khuyến nghị một số giải pháp phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
ở Tp. Hồ Chí Minh thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án
2. Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển công nghiệp văn hóa và lĩnh vực
nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế.
3. Khảo sát, đánh giá thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ
Chí Minh hiện nay.
4
4. Dự báo xu hướng vận động, phát triển của công nghiệp văn hóa ở Việt
Nam nói chung, nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng trong thời
gian tới; khuyến nghị một số giải pháp nhằm phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghệ thuật biểu diễn bao gồm nhiều lĩnh vực
khác nhau. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát ba lĩnh vực: Âm nhạc,
Sân khấu Kịch nói và Múa ở một số đơn vị công lập và ngoài công lập trên địa
bàn Tp. Hồ Chí Minh.
Sở dĩ luận án chọn lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn tại Tp. Hồ Chí Minh vì
đây là lĩnh vực nghệ thuật khá nổi bật trong phát triển công nghiệp văn hóa cả
trên thế giới và trong nước. Khi bàn đến cơ cấu của công nghiệp văn hóa, các
nước châu Á, châu Âu, UNESCO cũng đều đề cập loại hình này trong cách phân
loại công nghiệp văn hóa. Trong loại hình nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh thì lĩnh vực kịch nói, ca - múa - nhạc phát triển khá sôi nổi.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận án khảo sát từ năm 2010 đến 2015, vì đây
là khoảng thời gian các loại hình nghệ thuật biểu diễn như Kịch nói, Âm nhạc và
Múa ở Tp. Hồ Chí Minh phát triển khá rầm rộ, chứa đựng tính đại diện và điển
hình cho sự phát triển công nghiệp văn hóa thông qua các loại hình nghệ thuật
này ở Tp. Hồ Chí Minh.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Công nghiệp văn hóa có thể được nghiên cứu từ nhiều ngành khoa học
chuyên biệt như kinh tế học, xã hội học, văn hóa học, lịch sử văn hóa…Tuy
nhiên, để phù hợp với mã số chuyên ngành văn hóa học, luận án chú trọng
phương pháp tiếp cận văn hóa học đối với nghệ thuật biểu diễn, đặc biệt chú ý
đến giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật và ảnh hưởng của nghệ thuật biểu diễn, tiềm
năng phát triển của nó trong giao lưu và hội nhập quốc tế hiện nay. Với cách tiếp
cận như vậy, để giải quyết được mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, tác giả luận án chủ
yếu sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
5
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận mác xít và quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mối quan hệ giữa phát triển văn
hoá và kinh tế trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp lịch sử - logic: Phương pháp lịch sử - logic giúp tác giả
luận án đi sâu tìm hiểu quá trình vận động và phát triển của công nghiệp văn hóa
ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới gắn với quá trình phát triển nhận thức lý
luận cũng như quá trình đổi mới kinh tế - xã hội của thành phố. Đồng thời, giúp
cho tác giả luận án khái quát logic của sự vận động này theo những nội dung vấn
đề cần quan tâm nghiên cứu phục vụ cho triển khai thực hiện của luận án.
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp: Luận án tập trung nghiên cứu phân
tích các tài liệu, các số liệu, các kết quả điều tra, các kết quả nghiên cứu đã có để
có thể khái quát hóa, tổng hợp hóa, đưa ra các nhận định khoa học của luận án,
đảm bảo tính khoa học của các nhận định về công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí
Minh hiện nay.
+ Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Phương pháp nghiên cứu trường
hợp hay còn gọi là phương pháp điển hình thực chất là sự phân tích một hay một
số trường hợp điển hình cụ thể nhằm mục đích nghiên cứu nào đó. Công nghiệp
văn hóa bao gồm rất nhiều các loại hình khác nhau, đó là: nghệ thuật biểu diễn,
thiết kế mỹ thuật, thời trang, mỹ thuật, nhiếp ảnh và galeres, bảo tàng, di sản văn
hóa, báo chí, in ấn – xuất bản, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, phần mềm có
nội dung văn hóa, thủ công mỹ nghệ và các dịch vụ văn hóa sáng tạo... Tác giả
luận án chọn một số loại hình nghệ thuật biểu diễn để khảo sát, đánh giá dưới
góc nhìn công nghiệp văn hóa.
+ Phương pháp phân tích SWOT (Điểm mạnh - Điểm yếu - Cơ hội Thách thức): Phương pháp này giúp tác giả luận án chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu,
thời cơ, thách thức, triển vọng để phát triển công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí
Minh; từ đó đề xuất giải pháp để giải quyết những vấn đề đang được đặt ra.
6
+ Phương pháp điều tra xã hội học: Chúng tôi thực hiện phương pháp
này bằng quy trình sau:
Giai đoạn 1: Chọn mẫu. Chúng tôi chọn 200 khán giả của Sân khấu kịch
Idecaf, Sân khấu kịch Hồng Vân, Nhà hát Nhạc – Vũ kịch Tp. Hồ Chí Minh,
Nhà hát Kịch sân khấu nhỏ 5B, Sân khấu ca nhạc 126, Sân khấu ca nhạc Trống
Đồng, cách chọn mẫu thuận tiện – phi xác suất - nghĩa là chọn những khán giả
dễ tiếp cận nhất để khảo sát. Ngoài ra, khảo sát 100 cán bộ quản lý ở Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch Tp. Hồ Chí Minh (Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh)
cán bộ/ nhân viên ở một số sân khấu kịch, ca nhạc nói trên.
Giai đoạn 2: Soạn câu hỏi khảo sát: dựa trên dữ liệu nghiên cứu của đề
tài; xây dựng bảng hỏi theo tiêu chí phát hiện: nhận thức, thái độ, hành vi của
các nhóm chủ thể khác nhau đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh hiện nay; khảo sát thử và điều chỉnh để hoàn thiện bảng hỏi.
Giai đoạn 3: Xây dựng và tập huấn khảo sát viên (khảo sát viên là tác giả
luận án, đồng nghiệp và một số sinh viên).
Giai đoạn 4: Khảo sát đại trà khán giả tại các sân khấu và tại các cơ quan
quản lý nhà nước về văn hóa.
Giai đoạn 5: Xử lý kết quả khảo sát bằng phần mềm SPSS 16.0 và lên
bảng biểu, sơ đồ, rút ra kết luận sơ bộ.
Chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn sâu một số nhà quản lý văn hóa, các
doanh nghiệp văn hóa, các công ty tổ chức sự kiện…tìm ra những thuận lợi, khó
khăn cũng như những thành tựu và hạn chế, những vấn đề đặt ra trong lĩnh vực
nghệ thuật biểu diễn trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.
+ Phương pháp thống kê – so sánh: Luận án sử dụng các số liệu thống kê
để phân tích và so sánh, đánh giá thực trạng về công nghiệp văn hóa trong lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian qua.
+ Phương pháp dự báo: Luận án kết hợp giữa phương pháp định tính và
phương pháp định lượng để dự báo về xu hướng phát triển của công nghiệp văn
hóa ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
7
- Giả thuyết nghiên cứu
+ Công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng đang phát triển bùng nổ
gắn với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế có nhiều cơ hội và thách thức.
+ Công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh đã có những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu
cầu tinh thần phong phú, sôi động của người dân thành phố. Phát triển công
nghiệp văn hóa sẽ góp phần giải quyết hài hoà giá trị kinh tế và văn hoá trong
quá trình phát triển.
+ Công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh cần có nhiều giải pháp đồng bộ và thiết thực để tạo động lực, tháo gỡ khó
khăn tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
5. Đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến công nghiệp văn hóa và
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ
Chí Minh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và
hội nhập quốc tế hiện nay. Từ đó dự báo xu hướng phát triển công nghiệp văn
hóa ở Việt Nam nói chung và ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các trường đại
học, cao đẳng, các nhà nghiên cứu, cơ quan nghiên cứu và hoạch định chính sách
xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án kết cấu thành 4 chương, 13 tiết. Cụ thể:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận tiếp cận nghiên cứu công nghiệp văn hoá và nghệ thuật
biểu diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay
Chương 4: Những vấn đề đặt ra đối với phát triển nghệ thuật biểu diễn ở
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và một số khuyến nghị
8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về công nghiệp văn hóa và nghệ
thuật biểu diễn
Hiện nay, ngành công nghiệp văn hoá nói chung và nghệ thuật biểu diễn
nói riêng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia. Vì vậy, công
nghiệp văn hóa (CNVH) đã trở thành đối tượng quan tâm của các nhà khoa học
và quản lý. Có thể nêu ra những công trình nghiên cứu lý luận (về khái niệm,
phân loại, cấu trúc, đặc trưng, quy luật tác động… của công nghiệp văn hóa và
nghệ thuật biểu diễn) tiêu biểu sau:
Trong cuốn sách nổi tiếng Dialectic of Enlightenment (Biện chứng của
Khai sáng) xuất bản năm 1947 của Adorno và Horkheimer, lần đầu tiên cụm từ
công nghiệp văn hóa (cultural industry) đã được sử dụng.
Theodor Adorno trong cuốn sách khác: Culture Industry Reconsidered đã
dùng khái niệm công nghiệp văn hóa thay vì khái niệm văn hóa đại chúng để
diễn đạt thực trạng văn hóa bị biến thành hàng hóa trao đổi. Adorno còn cho
rằng trong hiện tượng công nghiệp văn hóa có một khía cạnh chính trị nhất định:
đảm bảo duy trì kéo dài sự phục tùng của đại chúng vào lợi ích thị trường
[Dẫn theo 67, tr.33].
Ở hướng nghiên cứu về kinh tế học văn hóa, giáo sư Throsby David - một
nhà kinh tế của nước Úc, trong tác phẩm: Economics and Culture -Kinh tế học
và Văn hóa (Cambridge University Press, 2001) đã phân tích khía cạnh kinh tế
của các hoạt động văn hóa, công nghiệp sáng tạo, các dịch vụ văn hóa và bối
cảnh văn hóa của kinh tế. Đồng thời, ông nhấn mạnh: Các sản phẩm văn hóa với
tư cách là một loại hàng hóa có giá trị cả về kinh tế và văn hóa: Sản phẩm văn
hóa có điểm giống với sản phẩm vật chất như có giá trị và giá trị trao đổi. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, sản phẩm văn hóa còn mang các giá trị khác như giá trị thẩm
9
mỹ, tinh thần, xã hội, lịch sử, giá trị biểu tượng [109, tr.208]. Tác giả dành nhiều
trang viết để phân tích vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế, các ngành
công nghiệp văn hóa và chính sách văn hóa, giới thiệu các khái niệm về vốn văn
hóa với phát triển bền vững, xem xét mối quan hệ giữa kinh tế và bản sắc văn
hóa trong thế giới toàn cầu hóa. Ngoài ra, Throsby David còn quan tâm đến các vấn
đề: nghệ thuật biểu diễn, vai trò kinh tế của các nghệ sĩ, kinh tế và sự can thiệp trực
tiếp trên thị trường nghệ thuật, phát triển văn hóa, chính sách văn hóa, vấn đề di sản
và tính bền vững của quá trình văn hóa. Ông nhận định: bản thân mỗi loại hình
nghệ thuật đều có thể coi là một ngành công nghiệp văn hóa [109, tr.208].
Harold L. Vogel1 (2001), Entertainment Industry Economics - A Guide for
Financial Analysis- Hướng dẫn phân tích tài chính cho nền công nghiệp giải trí,
Cambridge University Press. Tác giả của công trình đã phân tích và chứng minh
ngành công nghiệp giải trí là một trong những ngành lớn nhất của nền kinh tế
Mỹ và trong thực tế đã trở thành một trong những ngành kinh tế nổi bậc nhất
trên phạm vi toàn cầu với các sản phẩm: phim, âm nhạc, chương trình truyền
hình, phát thanh, quảng cáo, nghệ thuật biểu diễn, thể thao... Bên cạnh đó, công
trình cũng là tài liệu tham khảo hữu ích về các vấn đề về kinh tế, tài chính, sản
xuất, tiếp thị và vui chơi giải trí ở Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới đối với
các nhà đầu tư, quản trị kinh doanh, kế toán, luật sư, nhà quản lý nghệ thuật và
độc giả nói chung.
Throsby David and Glenn A. Withers: The Economics of the Performing
Arts - Kinh tế học về Nghệ thuật biểu diễn (edition 1993), Edward Arnold
(Australia). Ở công trình này, các tác giả đã đề cập đến các vấn đề chung về
nghệ thuật biểu diễn và hệ thống lý thuyết trong kinh tế của nghệ thuật biểu diễn.
Ngoài ra, một số nước châu Á như Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Ấn Độ... đã và đang đặt ra mục tiêu trở thành cường quốc về “công
nghiệp văn hóa”. Khái niệm công nghiệp văn hóa được dùng phổ biến.
Ở Hồng Kông, tư tưởng về công nghiệp văn hóa lần đầu tiên được nêu lên
do một số tổ chức phi chính phủ về văn hóa vào khoảng năm 1999 – 2000.
10
Trong bản báo cáo năm 2003, định nghĩa các ngành công nghiệp văn hóa được
nêu rõ: “một nhóm các hoạt động kinh tế khai thác và triển khai tính sáng tạo, kỹ
năng và tài sản trí tuệ để sản xuất và phân phối các sản phẩm và dịch vụ có ý
nghĩa văn hóa và xã hội, một hệ thống sản xuất thông qua đó tiềm năng tạo ra giàu
có và sáng tạo nghề nghiệp được thực hiện”. Danh sách các ngành công nghiệp
văn hóa được liệt kê bao gồm: quảng cáo, kiến trúc, nghệ thuật, cổ vật và đồ thủ
công, thiết kế, giải trí kỹ thuật số, phim và video, âm nhạc, nghệ thuật trình diễn,
xuất bản và in ấn, phần mềm và kỹ thuật máy tính, phát thanh truyền hình.
Hiện nay, Hàn Quốc là một trong năm nước có ngành công nghiệp văn
hóa mạnh nhất thế giới. Có được điều này là vì Chính phủ Hàn Quốc khẳng định
văn hóa là một lĩnh vực kinh tế năng động, đóng góp trực tiếp và gián tiếp vào
sự phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc. Luật Phát triển Nghệ thuật và Văn hóa
của Hàn Quốc định nghĩa sản phẩm văn hóa, nghệ thuật và sáng tạo, được sản
xuất, biểu diễn, trưng bày, mua bán và phân phối sản phẩm của các ngành công
nghiệp văn hóa. Luật Xúc tiến công nghiệp văn hóa năm 1999, nêu rõ phạm vi
công nghiệp văn hóa bao gồm nghệ thuật nghe nhìn, game, âm nhạc, phát thanh
truyền hình, quảng cáo, xuất bản, thiết kế, nghề thủ công, phim đặc tả nhân vật,
mỹ thuật, video, phim, hoạt hình, các nội dung số hóa. Phòng Chính sách văn
hóa và du lịch Hàn Quốc cũng định nghĩa công nghiệp văn hóa là “công nghiệp
dịch vụ có liên quan đến phát triển, sản xuất, chế tác, phân phối và tiêu thụ các
nội dung văn hóa”. Các ngành công nghiệp đó có tính tri thức cao, dựa trên sự sử
dụng công nghệ văn hóa cho các mục đích thực tế.
Ở Trung Quốc, năm 2003, Bộ Văn hóa Trung Quốc đã coi công nghiệp
văn hóa là ngành nghề mang tính chất kinh doanh, sản xuất sản phẩm văn hóa và
cung cấp dịch vụ văn hóa. Công nghiệp văn hóa là khái niệm đối ứng với sự
nghiệp văn hóa. Hai khái niệm đó đều là bộ phận hợp thành quan trọng của xây
dựng văn hóa XHCN. CNVH là sản phẩm tất yếu của phát triển sức sản xuất xã
hội, là sản nghiệp mới trỗi dậy, được hoàn thiện dần cùng với nền kinh tế thị
trường và phát triển mạnh mẽ cùng với sự tiến bộ không ngừng của phương thức
11
sản xuất hiện đại. Về phạm vi công nghiệp văn hóa, Bộ Văn hóa Trung quốc đã
đưa ra 9 loại ngành nghề lớn như ngành trình diễn, ngành tivi điện ảnh, ngành
video, ngành vui chơi giải trí văn hóa, ngành du lịch văn hóa, ngành văn hóa
mạng, ngành báo chí xuất bản, ngành cổ vật và tác phẩm văn nghệ, ngành đào
tạo, bồi dưỡng nghệ thuật vào phạm vi quản lý của công nghiệp văn hóa [58,
tr.85-86]. Đại hội đại biểu lần thứ XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa
ra khái niệm công nghiệp văn hóa và coi đó là sự đột phá quan trọng về lý luận
văn hóa của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Nghiên cứu về công nghiệp văn hóa không thể không kể đến những quan
tâm nghiên cứu của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc
(UNESCO). Cùng với những vấn đề nảy sinh trong phát triển xã hội đương đại,
với tư cách là một cơ quan văn hóa của Liên hợp quốc, UNESCO ngày càng có
những quan tâm đặc biệt đến vấn đề này, cả về phương diện lý luận lẫn phương
diện thực tiễn. Từ những nhận thức mới về vai trò của văn hóa đối với sự phát
triển của các quốc gia và nhân loại nói chung, UNESCO đã đề cập đến vai trò
của văn hóa trong những lĩnh vực cụ thể, trong đó có công nghiệp văn hóa.
Trong công trình: Các ngành công nghiệp văn hóa – Tâm điểm của văn
hóa trong tương lai [116], UNESCO đã định nghĩa: “Các ngành công nghiệp kết
hợp sự sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể và
văn hóa. Các nội dung này thường được bảo vệ bởi luật bản quyền và thể hiện
dưới dạng các sản phẩm hay dịch vụ”. Các ngành công nghiệp văn hóa bao gồm
ngành in ấn, xuất bản, đa phương tiện, nghe nhìn, ghi âm, điện ảnh, thủ công và
thiết kế. Đối với một số nước, các ngành công nghiệp văn hóa còn bao hàm kiến
trúc, nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật thị giác, thể thao, sản xuất nhạc cụ, quảng
cáo và du lịch văn hóa. Như vậy, phạm vi của các ngành công nghiệp văn hóa
khá rộng, từ những ngành mang tính truyền thống như văn hóa dân gian, thủ
công, lễ hội, văn học, nghệ thuật biểu diễn đến các ngành mang nặng tính công
nghệ như điện ảnh, truyền thông, phim hoạt hình kỹ thuật số, trò chơi điện tử và
các ngành thiên về dịch vụ như kiến trúc và quảng cáo.
12
Các ngành công nghiệp văn hóa có sự kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa, nghệ
thuật, kinh tế và công nghệ. Các ngành này đều sáng tạo, sản xuất và phân phối
các sản phẩm và dịch vụ sử dụng nguồn lực trí tuệ của con người như những
nguyên liệu đầu vào then chốt.
Vai trò quan trọng của văn hóa đã được thể hiện qua bốn mục tiêu cuộc
vận động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa: (1) Với khẩu hiệu “Văn hóa vì
phát triển” đã khẳng định vị trí quan trọng của văn hóa trong phát triển, tìm mọi
phương thức có thể cho sự phù hợp giữa sản xuất và sáng tạo, để kinh tế có thể
bắt rễ trong văn hóa; (2) Tôn trọng tất cả các nền văn hóa của các dân tộc, tuân
thủ nguyên tắc bình đẳng và khuyến khích sự tự khẳng định, tự làm phong phú
bản sắc văn hóa dân tộc trong sự thống nhất với tinh hoa văn hóa và văn minh
nhân loại; (3) Đảm bảo sự tham gia của mọi lực lượng vào đời sống văn hóa, tạo
ra càng nhiều cơ hội và điều kiện để từng cá nhân và mỗi cộng đồng tự do hưởng
thụ và sáng tạo văn hóa; (4) Đẩy mạnh hợp tác văn hóa quốc tế với luận điểm
quan trọng: “Nhận thức về vị trí và vai trò của văn hóa trong phát triển, chúng ta
cần vượt lên cách tiếp cận kinh tế học thuần túy và tìm ra hàng trăm phương
thức có thể được để cho tính công nghiệp và tính sáng tạo có thể gắn bó, móc nối
với nhau và để cho kinh tế có thể bắt rễ trong văn hóa”.
Theo UNESCO, sản phẩm văn hóa là kết quả của hoạt động sáng tạo, sản
xuất, khai thác giá trị văn hóa trong ngành công nghiệp văn hóa. Sản phẩm văn
hóa được lưu thông, buôn bán trên thị trường nên còn được gọi là hàng hóa văn
hóa. UNESCO cho rằng: hàng hóa văn hóa là “các sản phẩm tiêu dùng chứa
đựng ý tưởng, biểu tượng và lối sống. Chúng có chức năng thông báo hoặc giải
trí, đóng góp cho việc xây dựng bản sắc văn hóa cộng đồng và ảnh hưởng đến
các tập quán văn hóa”. Sản phẩm văn hóa mang tính phi vật thể. Điều này có thể
thấy rõ trong các sản phẩm văn hóa nghệ thuật thuộc loại hình nghệ thuật biểu
diễn. Các sản phẩm văn hóa khác như tác phẩm hội họa, điêu khắc, trưng bày
sắp đặt tuy có vỏ vật chất để biểu hiện nhưng phần quan trọng vẫn là nội dung, ý
tưởng sáng tạo, hình tượng nghệ thuật mang tính biểu cảm và phi vật thể.
13
1.1.2. Những nghiên cứu về thực tiễn công nghiệp văn hóa và nghệ
thuật biểu diễn
Ngoài nghiên cứu về lý luận, các nhà khoa học còn quan tâm đến thực
tiễn. Đó là chính sách phát triển, thực tiễn phát triển, kinh nghiệm quản lý, giải
pháp phát triển CNVH và nghệ thuật biểu diễn… Có thể kể ra một số công trình
tiêu biểu sau:
James Heilbrun and Charles M.Gray (1993), The Economics of Art and
Culture - An American Perspective - Kinh tế học về Nghệ thuật và Văn hóa –
Một triển vọng ở Mỹ, Cambridge University Press. Các vấn đề được bàn đến
trong công trình này là: Vấn đề tài chính, kinh tế của mỹ thuật và nghệ thuật biểu
diễn ở Hoa Kỳ; chính sách công và vai trò của nó đối với các loại hình văn hóa
nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn; một số khái niệm, lý thuyết liên quan
đến hoạt động biểu diễn nghệ thuật; vấn đề sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nghệ
thuật biểu diễn; vấn đề tài chính và thị trường nghệ thuật trong xã hội đương đại; dự
báo tương lai phát triển nghệ thuật biểu diễn tại Hoa Kỳ.
Throsby David and Glenn A. Withers: The Economics of the Performing
Arts - Kinh tế học về Nghệ thuật biểu diễn (edition 1993), Edward Arnold
(Australia). Ở công trình này, ngoài nghiên cứu về lý luận kể trên, các tác giả
còn phân tích một số kinh nghiệm về chính sách công của nghệ thuật biểu diễn
và các quan điểm về chính sách công. Phát triển các lý thuyết cơ bản về hành vi của
các tổ chức nghệ thuật, người tiêu dùng và khách hàng trung thành; kiểm chứng
tính đúng đắn của những lý thuyết này với thực tiễn. Công trình đã trở thành một
trong những tài liệu tham khảo quan trọng trong lĩnh vực kinh tế văn hóa.
Cùng với Throsby David, giáo sư Victor A. Ginsburgh - một nhà kinh tế
học người Bỉ, gốc Áo, chuyên nghiên cứu các lý thuyết về kinh tế vi mô, văn hóa
kinh tế đã cho ra đời tác phẩm: Handbook of the Economics of Art and Culture Sổ tay Kinh tế học Văn hóa và Nghệ thuật. Công trình gồm 05 phần với các nội
dung chuyên sâu như: Giá trị và việc xác định giá trị trong nghệ thuật và văn
hóa; cung, cầu; tiêu dùng và đầu tư; đổi mới và thay đổi công nghệ, thương mại,
phát triển đa dạng văn hóa và các vấn đề văn hóa rộng hơn.
14
Ruth Towse là giáo sư đầu ngành của lĩnh vực kinh tế và công nghiệp văn
hóa, bà đã tham gia giảng dạy ở rất nhiều trường đại học nổi tiếng ở trên thế giới
về những lĩnh vực này vừa xuất bản cuốn sách: A Handbook of Cultural
Economic: Sổ tay kinh tế học văn hóa (2011). Ở công trình này, giáo sư đã tập
trung phân tích những thay đổi trong lĩnh vực kinh tế văn hóa trong xã hội
đương đại; Phân tích những tác động của công nghệ mới đối với ngành công
nghiệp sáng tạo. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích những tính chất kinh tế của
hoạt động văn hóa, nghệ thuật như: vấn đề đấu giá sản phẩm, thị trường tiêu thụ
sản phẩm văn hóa nghệ thuật, giá cả, thị trường lao động của các nghệ sĩ, sáng
tạo và sáng tạo kinh tế, giá trị văn hóa, toàn cầu hóa và thương mại quốc tế,
internet, phương tiện truyền thông kinh tế, bảo tàng, các tổ chức phi lợi nhuận,
biểu diễn nghệ thuật, xuất bản, kinh tế phúc lợi. Đây là cuốn sách thực sự có giá
trị đối với những người nghiên cứu về lĩnh vực công nghiệp văn hóa và những
vấn đề liên quan đến kinh tế văn hóa.
Harry Hillman, Joni M.Cherbo2 and Margaret J. Wyszomirski3 (2000) The
Public Life of the Arts in America - Đời sống công cộng của nghệ thuật ở Mỹ,
(Nxb Rutgers University Press, New York). Công trình gồm 2 phần: Phần
I:“Exploring a changing landscape”, Phần II: “The public and the arts”.Công
trình này đã có những đóng góp quan trọng trong hệ thống tài liệu về nghệ thuật
ở Mỹ. Công trình đã cung cấp nhiều thông tin khoa học có giá trị như: 96% người
dân Mỹ liên quan đến hoạt động nghệ thuật dưới nhiều hình thức trực tiếp hay
gián tiếp: là khán giả, là những người có sở thích, hoặc thông qua truyền hình, ghi
âm, video, Internet... Công trình cũng cho thấy nền công nghiệp văn hóa đã đóng
góp quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế Mỹ. Bên cạnh đó, nền công
nghiệp văn hóa Mỹ cũng đang tìm cách để ngày càng phục vụ những lợi ích
công ngày càng tốt hơn. Các tác giả công trình cũng cho rằng các chính sách
công của chính phủ sẽ tác động đến nghệ thuật và văn hóa Mỹ. Vì vậy, theo họ,
Mỹ nên tiếp tục hỗ trợ nghệ thuật để lĩnh vực này không ngừng phát triển. Điều
này hỗ trợ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng, duy trì sự
- Xem thêm -