Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cộng đồng kinh tế asean ( aec ) và những ảnh hưởng đến phát triển thương mại ở v...

Tài liệu Cộng đồng kinh tế asean ( aec ) và những ảnh hưởng đến phát triển thương mại ở việt nam

.DOCX
16
233
95

Mô tả:

Mục lục A, phần mở đầu……………………………………………………………………….2 B, Phần nội dung……………………………………………………..………………3 I,Cộng đồng kinh tế ASEAN…………………………………………………………3 1,Khái quát về tổ chức quốc tế khu vực và vai trò…………………………………….3 2,Khái quát về ASEAN………………………………………………………………..3 2.1,Sự thành lập……………………………………………………………………….3 2.2,Bản tuyên bố ASEAN và sự thành lập cộng đồng kinh tế ASEAN………………4 3,Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)…………………………………………………4 3.1,Mục đích thành lập………………………………………………………………5 3.2,Mục tiêu…………………………………………………………………………5 3.3,Tác động và vai trò của AEC đến các nước thành viên…………………………6 II,Ảnh hưởng của AEC đến phát triển thương mại ở Việt Nam……………………7 1,Khái quát về sự gia nhập AEC của Việt Nam……………………………………..7 2,Ảnh hưởng tích cực……………………………………………………………….8 3,Ảnh hưởng tiêu cực………………………………………………………………11 4,Cơ hội và thách thức……………………………………………………………..12 5,Giải pháp cho Việt Nam…………………………………………………………14 C,Kết luận…………………………………………………………………………16 1 Lời mở đầu Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu thế phát triển nổi bật hiện nay trên thế giới với sự tồn tại của hàng loạt các tổ chức,các liên kết khu vực liên kết giữa các quốc gia : WTO,ASEAN,EU,....thông qua các Hiệp định được ký kết như các FTA. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN) đang khẳng định là một trong những hình mẫu hợp tác khu vực thành công trên thế giới,đặc biệt trên phương diện kinh tế được thể hiện thông qua liên kết nội khối : khu vực mậu dịch tự do thương mại AFTA. Hợp tác kinh tế trong ASEAN đã giúp nền kinh tế của các quốc gia thành viên tăng trưởng mạnh, phát triển tiềm năng và tạo dựng được vị thế trên trường quốc tế. Sự ra đời của Cộng đồng kinh tế ASEAN ( AEC ) là sự tiếp nối của AFTA nhằm tiến tới một mức độ hội nhập kinh tế cao hơn trong sự phát triển không ngừng của khối. Các nước thành viên sẽ có được những lợi ích như tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, tạo ra nhiều việc làm hơn, thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ hơn, phân bổ nguồn lực tốt hơn, tăng cường năng lực sản xuất và tính cạnh tranh. Tuy nhiên,cũng chính AEC tạo ra cho các quốc gia những thách thức trong việc hội nhập như vấn đề năng lực cạnh tranh quốc gia nói chung và của các doanh nghiệp nói riêng,đặc biệt là trong thương mại hàng hóa khi mà thuế và các rào cản phi thuế quan được loại bỏ. Đối với Việt Nam,Đảng ta xác định ASEAN là đối tác chiến lược – một trong những trụ cột quan trọng trong tiến trình thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, ASEAN cũng là một trong các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu và là động lực quan trọng giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua. Việc Việt Nam tham gia AEC đã tạo điều kiện cho nền kinh tế thương mại của ta được hội nhập và phát triển cùng khu vực. Thế nhưng, việc tham gia này sẽ đem lại cho nền kinh tế thương mại nước ta những tác động mạnh mẽ. Thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề này, nhóm 3 đã chọn đề tài : “ Cộng đồng kinh tế ASEAN ( AEC ) và những ảnh hưởng đến phát triển thương mại ở Việt Nam “ làm đề tài thảo luận của nhóm nhằm nghiên cứu và đưa ra những kiến nghị giúp Việt Nam có thể hội nhập và phát triển toàn diện hơn. 2 Nội dung I. Cộng đồng kinh tế ASEAN ( AEC) 1. Khái quát về tổ chức quốc tế khu vực và vai trò của tổ chức quốc tế khu vực nói chung. Tổ chức quốc tế là Tổ chức bao gồm các thành viên thuộc hai hoặc nhiều bên quốc tịch hợp thành, có chung tôn chỉ mục đích hoạt động, có cơ quan, bộ máy điều hành chung, có trụ sở và quy chế pháp luật chung để hoạt động. Tổ chức quốc tế có thể là tổ chức của các quốc gia có chủ quyền như Đại hội đồng Liên hợp quốc và các tổ chức của Liên hợp quốc, hoặc là tổ chức của các đảng phái chính trị xã hội như tổ chức Quốc tế cộng sản... hoặc tổ chức nghề nghiệp như Tổ chức các nhà báo quốc tế "OIJ", hoặc tổ chức tôn giáo như Phật giáo quốc tế, Hồi giáo, Thiên chúa giáo... Tổ chức quốc tế khu vực là tổ chức quốc tế của các quốc gia ở cùng một khu vực, được thành lập trong các lĩnh vực khác nhau: chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học - kĩ thuật, vv. Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, không ngăn cản việc thành lập các tổ chức quốc tế khu vực nhằm phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác cùng có lợi giữa các nước kể cả các nước có chế độ xã hội khác nhau, vì hoà bình và phát triển kinh tế, xã hội của mỗi nước và của cả khu vực. Được công nhận là hợp pháp nếu mục đích, tôn chỉ và hoạt động của tổ chức phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Trong những năm gần đây, xu hướng thành lập các tổ chức quốc tế khu vực có xu hướng ngày càng phát triển, ví dụ Hiệp hội các Nước Đông Nam Á (ASEAN), Liên minh Châu Âu (EU), Liên minh Châu Phi (AU), Tổ chức các Nước Châu Mĩ (OAS),vv. Các tổ chức quốc tế khu vực có vai trò rât quan trọng trong việc duy trì an ninh khu vực, góp phần vào công cuộc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để tham gia hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và thế giới. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các tổ chức quốc tế khu vực còn gặp phải nhiều khó khăn nhất định, ảnh hưởng tới hiệu quả của các tổ chức này trong công cuộc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Vì vậy, trước nhu cầu của bối cảnh hiện nay, các tổ chức quốc tế khu vực cần tiến hành những biện pháp cần thiết để hoạt động của các tổ chức này ngày càng hiệu quả. 2. Khái quát về ASEAN 2.1. Sự thành lập *Bối cảnh ra đời:  Bối cảnh khu vực:  Sau khi dành được độc lập, nhiều nước trong khu vực cần có sự hợp tác cùng nhau trong cùng phát triển.  Muốn hạn chế chế ảnh hưởng của các cường quốc ngoài đối với khu vực,nhất là khi cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mĩ ngày càng tỏ rõ ko tránh khỏi thất bại cuối cùng. 3  Bối cảnh quốc tế:  Trên thế giới xuất hiện nhiều tổ chức hợp tác mang tính khu vực: Khối thị trường chung châu Âu(EEC)  Sự cần thiết ra đời:  Gần gũi về mặt địa lý  Trình độ phát triển tương đối đồng đều  Sự tương đồng cao trên nhiều lĩnh vực *Lộ trình hợp tác, liên kết khu vực ĐNA: - - Tiền thân của ASEAN là tổ chức có tên Hiệp hội Đông Nam Á, thường được gọi tắt là ASA. ASA là một liên minh thành lập năm 1961 gồm ba nước Philippines, Malaysia và Thái Lan. Năm 1963, MAPHILINDO gồm 3 nước hợp tác là Malai, Phillip và Indo Tháng 8 – 1967, “Hiệp hội các nước Đông Nam á” (ASEAN) thành lập tại BăngCôc (Thái Lan)gồm các nước: Indonexia, Malaixia, Xingapo, Thái Lan, Philippin. Năm 1984 ASEAN kết nạp Bru-nây ngay sau khi nước này được độc lập. Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. 1997 Mi-an-ma và Lào gia nhập ASEAN. Căm-pu-chia được kết nạp vào ASEAN tại Hà Nội ngày 30 tháng 4 năm 1999, hoàn tất mục tiêu của ASEAN trở thành một tổ chức khu vực với đầy đủ 10 quốc gia thành viên Đông Nam Á. 2.2. Bản tuyên bố Asean và sự thành lập cộng đồng kinh tế Asean (AEC) Tầm nhìn ASEAN 2020, được thông qua 12/1997, Các nhà lãnh đạo ASEAN đã định hướng ASEAN sẽ hình thành một Cộng đồng, trong đó sẽ tạo ra một Khu vực Kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hoá, dịch vụ và đầu tư được lưu chuyển thông thoáng, vốn được lưu chuyển thông thoáng hơn, kinh tế phát triển đồng đều, nghèo đói và phân hoá kinh tế-xã hội giảm bớt. Ý tưởng đó được khẳng định lại tại HNCC ASEAN 9 (Bali, In-đô-nê-xia, tháng 10/2003), thể hiện trong Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II). Theo đó, ASEAN nhất trí hướng đến mục tiêu hình thành một cộng đồng ASEAN liên kết, tự cường vào năm 2020 với 3 trụ cột chính là hợp tác chính trị - an ninh (Cộng đồng an ninh ASEAN – ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng Kinh tế ASEAN – AEC) và hợp tác văn hoá xã hội (Cộng đồng Văn hoá Xã hội ASEAN – ASCC). Quyết định xây dựng AEC vào năm 2020 trong Tuyên bố Hòa hợp ASEAN (Tuyên bố Bali II) ghi rõ: tạo dựng một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và cạnh tranh cao, nơi có sự di chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, di chuyển tự do hơn của các luồng vốn, phát triển kinh tế đồng đều và giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về kinh tế xã hội. Để đẩy nhanh các nỗ lực thực hiện mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12 tại Cebu, Phi-líp-pin, tháng 1/2007 đã quyết định rút ngắn thời hạn hình 4 thành Cộng đồng, trong đó có Cộng đồng Kinh tế, từ 2020 xuống 2015. Hội nghị cũng thông qua Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN trong dịp này. Sáng 22-11, thay mặt các quốc gia thành viên ASEAN, Thủ tướng Malaysia - nước chủ nhà Hội nghị cấp cao ASEAN lần 27 – Najib Razak đã tuyên bố thành lập Cộng đồng chung ASEAN vào ngày 31-12 năm 2015 thông qua lễ ký kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập Cộng đồng ASEAN 2015. 3, Cộng đồng kinh tế ASEAN 3.1. Mục đích thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập là để thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế trong "Tầm nhìn ASEAN 3. Cộng đồng kinh tế ASEAN 2020", nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế-xã hội được giảm bớt vào năm 2020. Kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của ASEAN (2004-2010) - Chương trình Hành động Vientian đã xác định rõ hơn mục đích của AEC là: tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua hội nhập nhanh hơn, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của ASEAN. 3.2. Mục tiêu của cộng đồng kinh tế ASEAN + Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, thông qua:  Tự do lưu chuyển hàng hoá  Tự do lưu chuyển dịch vụ  Tự do lưu chuyển đầu tư  Tự do lưu chuyển vốn  Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề  Lĩnh vực hội nhập ưu tiên  Thực phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp + Một khu vực kinh tế cạnh tranh, thông qua:  Các khuôn khổ chính sách về cạnh tranh  Bảo hộ người tiêu dùng  Quyền sở hữu trí tuệ 5  Phát triển cơ sở hạ tầng  Thuế quan  Thương mại điện tử + Phát triển kinh tế cân bằng, thông qua:  Các kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)  Sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN + Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, thông qua:  Tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác kinh tế  Nâng cao năng lực tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu 3.3. Tác động và vai trò của AEC đến các nước thành viên Với mục tiêu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế công bằng trong khu vực, AEC sẽ tạo ra một khu vực kinh tế có tính cạnh tranh cao và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Do đó, lợi ích mà các thành viên có được khi AEC được hình thành là tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, tạo ra nhiều việc làm hơn, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ hơn, phân bổ nguồn lực tốt hơn, tăng cường năng lực sản xuất và tính cạnh tranh. Đặc biệt, AEC chú trọng đến mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước, cũng là lĩnh vực mà Việt Nam hết sức quan tâm. a,Tác động tích cực (AEC tạo động lực phát triển)  AEC mở ra một khu vực thị trường chung rộng lớn: với gần 100% hàng hóa được tự do lưu chuyển trong nội khối, AEC tạo ra một khu vực thị trường hàng hóa chung giữa các nước ASEAN, mở ra cơ hội làm ăn kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp trong khu vực;  AEC mở ra cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài vào các nước thành viên: môi trường kinh doanh được mở rộng theo hướng minh bạch và bình đẳng hơn sẽ là điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài không những từ các nước ASEAN mà cả từ các nước ngoại khối, đặc biệt là các nước đối tác FTA của ASEAN vào các nước thành viên để tham gia vào chuỗi giá trị khu vực; 6  AEC tạo ra sức ép, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vào các nước thành viên: tham gia vào một sân chơi chung và chịu áp lực cạnh tranh từ các đối tác khu vực cả về trình độ quản lý, công nghệ và nhân lực sẽ buộc các doanh nghiệp những nước thành viên đang phát triển phải tự cải tổ, thay đổi, nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển.  AEC tạo ra khí thế và động lực cho doanh nghiệp: Điển hình như Việt Nam với tinh thần chuẩn bị cho việc hình thành AEC vào cuối năm 2015 và những trông đợi về một khu vực thị trường chung năng động với nhiều cơ hội mở ra, các doanh nghiệp Việt Nam dường như đã được thức tỉnh để chuẩn bị tư thế và hành tranh cho tiến trình hội nhập mạnh mẽ sắp tới.  … b,Tác động tiêu cực Tạo sức ép cạnh tranh từ hàng hóa từ các nước ASEAN: với cơ cấu sản phẩm tương đối giống nhau ở cả 10 nước ASEAN, việc mở cửa thị trường sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn đối với các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp có sức cạnh tranh yếu và ở các ngành vốn được bảo hộ cao từ trước tới nay. Trong tương lai, khi các mục tiêu AEC được hoàn tất, những sức ép từ các khía cạnh khác sẽ xuất hiện, thách thức vì vậy sẽ mở rộng ra các vấn đề khác. Thách thức về dịch vụ: Nếu mục tiêu tự do lưu chuyển dịch vụ trong AEC được hiện thực hóa, các doanh nghiệp các nước thành viên trong lĩnh vực dịch vụ chắc chắn sẽ bị đặt trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hơn nhiều. Thách thức về lao động: Khi AEC hoàn tất mục tiêu tự do lưu chuyển lao động, nếu không có sự chuẩn bị đầy đủ, lao động các nước đang phát triển tay nghề còn kém, thiếu các kỹ năng cần thiết (ngoại ngữ, tính chuyên nghiệp…) có thể sẽ gặp khó khăn lớn. II, Ảnh hưởng của AEC đến phát triển thương mại ở Việt Nam 1, Khái quát về sự gia nhập AEC của Việt Nam 7 Là thành viên tích cực của ASEAN, Việt Nam đã và đã nỗ lực chuẩn bị gia nhập AEC. Theo cam kết cắt giảm thuế của Việt Nam trong CEPT-ATIGA, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế về 0% cho tất cả các mặt hàng trao đổi trong ASEAN (ngoại trừ các mặt hàng trong Danh mục loại trừ chung) với lộ trình cho hầu hết các dòng thuế là cho tới năm 2015 và 7% dòng thuế còn lại cho tới năm 2018. Hải quan điện tử là một nội dung quan trọng đang được thực hiện nhằm các mục tiêu trên. Việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử ở Việt Nam về cơ bản đã đạt được các mục tiêu như rút ngắn thời gian thông quan, và giảm các yêu cầu về các giấy tờ kê khai. Việt Nam cũng đang xây dựng chương trình Một cửa quốc gia (Vietnam's National Single Window - VNSW) nhằm tạo thuận lợi tối đa cho thương mại. Bên cạnh các nội dung trên, Việt Nam cũng đã nỗ lực đơn giản hoá hệ thống các giấy phép, giấy chứng nhận bao gồm giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu, giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), giấy chứng nhận vệ sinh kiểm dịch, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm. Các nỗ lực này thể hiện qua hệ thống eCoSys (hệ thống xin cấp C/O qua mạng) cũng như việc cấp phép nhập khẩu tự động. Hướng tới tự do hóa dịch vụ, Việt Nam đã tiến hành sửa đổi một số Luật liên quan như Luật đầu tư, Luật Thương mại, Luật doanh nghiệp và ban hành nhiều Nghị định, văn bản hướng dẫn các Luật này. Để thực hiện trụ cột 2 của AEC, Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới các chính sách để thực hiện các cam kết trong từng ngành cụ thể, điển hình là trong các ngành dịch vụ phân phối, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, viễn thông để phù hợp với các cam kết trong hiệp định khung ASEAN về dịch vụ(AFAS) cũng như GATS. Đối với các ngành ưu tiên gồm y tế, du lịch, logistics, e-ASEAN và hàng không, Việt Nam cũng đã tuân thủ nghiêm túc các cam kết và tích cực tham gia vào các hiệp định liên quan. Hiện tại, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có Luật cạnh tranh khá toàn diện áp dụng cho cả nền kinh tế và có các cơ quan giám sát thực hiện luật này cùng với Indonesia, Singapore và Thái Lan.. Cuối năm 2015, Việt Nam sẽ chính thức gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Thị trường lúc đó sẽ không còn là 90 triệu dân Việt Nam mà là 600 triệu dân ASEAN. 2.Ảnh hưởng tích cực - Sau khi hình thành vào cuối năm nay, AEC cơ bản sẽ trở thành một thị trường chung gồm khoảng 600 triệu người tiêu dùng với tổng GDP gần 3.000 tỷ USD, một không gian sản xuất 8 thống nhất, giúp phát huy lợi thế chung của khu vực ASEAN. Hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và lao động có tay nghề sẽ được tự do lưu chuyển trong ASEAN mà không chịu bất cứ hàng rào hay sự phân biệt đối xử nào giữa các thành viên. - Việt Nam sẽ có cơ hội dễ dàng tiếp cận thị trường trong và ngoài khu vực, qua đó mở rộng thị trường, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu; ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu vào nhập khẩu, từ đó, góp phần cải cách quản lý, dịch chuyển cơ cấu kinh tế và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Một trong những trụ cột trong Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC là hình thành thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất. Mục tiêu đưa ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất đang được ASEAN thúc đẩy mạnh bao gồm 5 yếu tố cơ bản: (i) Tự do lưu chuyển hàng hóa; (ii) Tự do lưu chuyển dịch vụ, (iii) Tự do lưu chuyển đầu tư, (iv) Tự do lưu chuyển vốn, (v) Tự do lưu chuyển lao động có kỹ năng. Năm yếu tố này sẽ là những động lực chính thúc đẩy sự tăng trưởng kim ngạch XK của Việt Nam với các nước ASEAN cũng như với các đối tác của ASEAN. Từ trước tới nay, ASEAN luôn là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. Tính đến 9 tháng đầu năm 2015, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với thị trường ASEAN đạt 31,3 tỷ USD. Các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa sang khu vực thị trường ASEAN đạt trị giá 13,7 tỷ USD và chiếm 11,4% kim ngạch xuất khẩu của cả nước ra thế giới. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam đã nhập khẩu xấp xỉ 17,6 tỷ USD hàng hóa có xuất xứ từ các nước ASEAN, chiếm 14,1% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước từ tất cả các thị trường. Tính đến tháng 9 năm 2015, ASEAN đang là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu và là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sau Trung Quốc và Hàn Quốc. - Việt Nam sẽ có cơ hội tăng cường thu hút FDI cũng như mở rộng cơ hội đầu tư sang các nước ASEAN và cơ hội kinh doanh từ bên ngoài; tiếp cận các nguồn hỗ trợ về khoa học-công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tính đến hết tháng 10 năm 2015, ASEAN có 2.629 dự án FDI còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 56,55 tỷ USD, bình quân 1 dự án là 21,51 triệu USD/dự án cao hơn so với bình quân đầu tư 1 dự án nước ngoài đầu tư tại Việt Nam là 13,9 triệu USD/dự án. Số liệu thống kê cho thấy ASEAN luôn là đối tác thương mại hàng hóa lớn của Việt Nam, với tốc độ tăng thương mại song phương bình quân đạt 12,3%/năm trong giai đoạn 19962006 và 8,1%/năm giai đoạn 2007-2016. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – ASEAN tăng gấp 7 lần sau 20 năm trở thành viên của khối này. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa Việt Nam và ASEAN năm 2016 đạt 41,49 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 11,8% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. 9 Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – ASEAN giai đoạn 1996-2016 Nguồn: Tổng cục Hải quan Trong đó, xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang các nước ASEAN trong năm 2016 đạt gần 17,45 tỷ USD, giảm 4,4% so với năm 2015. So với thời điểm gia nhập cộng đồng này cách đây 20 năm, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang ASEAN năm 2016 tăng 6,8 lần với tốc độ tăng bình quân 10% năm. Nhập khẩu hàng hóa xuất xứ ASEAN năm 2016 đạt 24,04 tỷ USD, tăng nhẹ 1% so với cùng kỳ năm 2015 và tăng 7,2 lần so với năm 1996. Sau 20 năm gia nhập, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa xuất xứ từ ASEAN đạt tốc tộ tăng 10,4% mỗi năm. Cán cân thương mại hàng hóa luôn nghiêng về thâm hụt với các nước ASEAN và trong suốt 20 năm gia nhập, Việt Nam chưa từng đạt thặng dư thương mại với khối này. Năm 1996 thời điểm gia nhập ASEAN Việt Nam thâm hụt với khối này là 745 triệu USD, thì đến năm 2016 thâm hụt 6,59 tỷ USD. - Tham gia AEC sẽ tác động đến việc thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo chiều hướng tích cực. ASEAN là thị trường chung có qui mô lớn. Thời gian qua, cơ cấu XK của ViệtNam sang ASEAN đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực, được nâng cao cả về chất lượng và giá trị. Ngoài những mặt hàng nông sản và nguyên liệu có hàm lượng chế tác thấp, Việt Namđã xuất khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp như linh kiện máy tính, dệt may, nông sản chế biến, mỹ phẩm với giá trị cao và ổn định. Các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi lớn nhờ phát huy hiệu quả từ quy mô để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, dẫn tới giá cả hàng hóa cạnh tranh. Điều mong đợi hơn cả là việc AEC có thể tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN, đóng góp vào tăng trưởng và thịnh vượng chung của khu vực. Bên cạnh đó, định hướng cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận 10 lợi cho thương mại mà ASEAN đang đặt ra cho giai đoạn sau 2015 sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp. - Người tiêu dùng ASEAN sẽ có nhiều lựa chọn về hàng hóa và dịch vụ với giá cả thấp và chất lượng cao hơn. Thương mại và đầu tư nội khối có cơ hội phát triển nhanh chóng. - Những tác động tích cực từ AEC sẽ góp phần tạo chuyển biến trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, luật lệ và thủ tục trong nước, phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế. - Việc thực hiện các cam kết trong ASEAN tạo nền tảng để Việt Nam tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn, cũng như tham gia sâu rộng hơn vào các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam. Tham gia AEC góp phần tích cực mở rộng thị phần của hàng hóa Việt Nam tại thị trường các nước ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trên thực tế, thị phần của hàng Việt Nam trên các thị trường này đã tăng đột biến và giữ được sức tăng ổn định ngay sau khi các FTA có hiệu lực. Các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng chủ động và tích cực hơn trong viêc tận dụng các ưu đãi về thuế trong các FTA. Tỷ lệ hàng hóa được hưởng ưu đãi của Việt Nam cao so với các đối tác trong khu vực và luôn có xu hướng tăng lên qua các năm thực hiện. Riêng đối với Hàn Quốc, trên 90% hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế thông qua FTA ASEAN–Hàn Quốc. - Ngoài ra, tham gia AEC giúp gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Khi AEC được thành lập, DN Việt Nam sẽ có thị trường rộng lớn hơn, tạo cơ hội để các doanh nghiệp cải thiện năng lực cạnh tranh; tạo cơ hội để Việt Nam tiếp tục thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng giá trị gia tăng (từ xuất khẩu nguyên liệu thô sang mặt hàng có chất lượng cao); nâng cao năng lực và hiệu quả của nguồn nhân lực Việt Nam. Thêm vào đó, khi thuế suất trong ASEAN giảm xuống 0%, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh. Theo quy định của ASEAN, các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối” 40% được xem là sản phẩm vùng ASEAN, sẽ được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang các thị trường khu vực ASEAN đã có FTA. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng các ưu đãi nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trong nước sang thị trường khu vực. 3, Ảnh hưởng tiêu cực -Về kinh tế vĩ mô Rủi ro cao hơn đối với các cú sốc từ bên ngoài, có thể tác động đến các biến vĩ mô gộp khác, bao gồm thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách thấp thường gắn với cải cách kinh tế trong nước mạnh mẽ; trong khi thâm hụt ngân sách cao sẽ dẫn đến nền kinh tế dễ bị tổn thương và cải cách kinh tế ở mức thấp hơn. Khó khăn hơn trong quản lý chính sách tiền tệ khi đối mặt với dòng vốn chuyển vào nhiều, với chính sách tỷ giá 11 Nền kinh tế của Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào xu thế biến động trên thị trường thế giới khi gia nhập ASEAN với việc tăng rủi ro đối với hàng nhập khẩu và cũng như tăng rủi ro đối với thị trường xuất khẩu. Ngoài ra, các dòng vốn đầu tư gián tiếp cũng ngày càng tăng để tài trợ cho thâm hụt thương mại, có thể dẫn đến sự đảo chiều vốn nhanh khi có sự thay đổi về kỳ vọng của nhà đầu tư. Dòng vốn vào nhiều cũng làm suy yếu hiệu quả của chính sách tiền tệ và đặt ra vấn đề về các công cụ mới cần thiết để quản lý lạm phát. Gia nhập ASEAN, các sáng kiến hội nhập khu vực và mối quan hệ tăng lên về thương mại và đầu tư khiến Việt Nam chịu nhiều tác động từ thị trường quốc tế và cần có những công cụ mới trong tác động đến các biến số kinh tế. - Ảnh hưởng đến hoạt động ngoại thương và thương mại Cải cách thương mại đóng góp tích cực vào mở cửa của nền kinh tế, làm cho kinh tế Việt Nam nhạy cảm hơn với các cú sốc của kinh tế thế giới như việc gia tăng bất thường gần đây trong giá nguyên liệu thô và giá hàng hóa trên thị trường quốc tế. Thâm hụt thương mại của Việt Nam gia tăng nhanh chóng trong năm 2007, chủ yếu do nhập khẩu thép, phôi thép, xăng dầu, máy móc, hàng điện tử và linh kiện điện tử. Việt Nam dựa nhiều vào nhập khẩu các nguyên liệu thô và máy móc thiết bị, đặc điểm cho thấy mức độ phát triển công nghiệp và khả năng cạnh tranh thấp đối với hàng các sản phẩm công nghiệp nặng. Ngoài ra, Việt Nam ở trình độ kinh tế thấp hơn một số nước là đối tác thương mại quan trọng trong khối như Singapore, Malaysia, Indonesia… và lại đang áp dụng chế độ tỷ giá neo vào USD một cách cứng nhắc, kéo dài, làm cho đồng VND cao giá. Rất có thể, AEC hình thành trong bối cảnh này sẽ biến Việt Nam thành nơi tiêu thụ hàng hóa công nghiệp của nước khác, trong khi lợi ích thu về từ xuất khẩu sẽ bị thiệt hại do thiếu sức cạnh tranh. -Đối với công nghiệp Mặc dù giá trị tổng sản phẩm tăng lên trong tất cả các lĩnh vực, tăng trưởng của khu vực ngoài quốc doanh và khu vực đầu tư nước ngoài đạt khoảng 20%/năm trong một vài năm gần đây, trong khi khu vực DNNN chỉ tăng khoảng 10%/năm (một phần là do cải cách DNNN, trong đó có cổ phần hóa). Do đó, tỷ trọng của khu vực DNNN trong tổng sản phẩm công nghiệp đã giảm xuống. Các ngành công nghiệp của Việt Nam cũng đang đứng trước sự cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực. quy mô doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu ở dạng vừa và nhỏ nên khả năng cạnh tranh sẽ thấp hơn, trình độ yếu kém trong tay nghề lao động và năng lực quản lí còn yếu dẫn đến nguy cơ các doanh nghiệp Việt sẽ bị doanh nghiệp nước ngoài thâu tóm toàn bộ thị phần. -Tác động tới nông nghiệp 12 Việt Nam đang đứng trước nguy cơ cạnh tranh cao với các sản phẩm nông nghiệp ngay tại sân nhà. Khi chất lượng gạo của Việt Nam còn thấp hơn chất lượng gạo của Thái Lan, Campuchia, Lào… Giá thành nông sản Việt không chỉ thua kém về chất lượng mà về giá cũng rất khó cạnh tranh khi các hiệp định miễn thuế xuất nhập khẩu được thông qua giữa các nước trong khu vực. -Tác động đến xã hội Đang có những dấu hiệu đáng lo ngại về việc xảy ra ngày càng nhiều vụ tranh chấp lao động, nhất là trong các doanh nghiệp sở hữu nước ngoài và sự bất bình đẳng ngày càng tăng trong phân phối thu nhập: chênh lệch ngày càng tăng giữa lương của lao động có kỹ năng và lao động không có kỹ năng, thường được gọi là "khoảng cách kỹ năng" và phân phối thu nhập đang ngày càng chênh lệch giữa các hộ gia đình và giữa các tỉnh. Nếu xu hướng tiếp tục tăng mạnh thì sẽ ảnh hưởng đến mối liên kết xã hội, một trong những trụ cột của xã hội Việt Nam. Hiện tượng du nhập những luồng văn hóa ngoại lai làm cho giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam đang dần bị mai một. Các giá trị văn hóa truyền thống không được giới trẻ quan tâm mà thay vào đó là những nguồn văn hóa nước ngoài lại thu hút bộ phận giới trẻ hơn 4. Cơ hội và thách thức a,Những cơ hội đáng mong đợi Thứ nhất, Việt Nam có cơ hội được tiếp cận một thị trường mới khá rộng lớn. Với kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt trên 40 tỷ USD thì ASEAN đang vừa là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam (sau Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu), vừa là đối tác cung cấp nguồn hàng lớn thứ hai cho các doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa, chi phí vận chuyển hàng hoá, kể cả là nguyên liệu, chi phí trung gian cũng như thành phẩm sẽ đều giảm xuống. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nước ta còn có thể tiếp cận với những đối tác đã ký kết hiệp định thương mại tự do riêng rẽ với ASEAN như Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Thứ hai, AEC còn giúp cho lao động của Việt Nam dễ tìm việc làm hơn, nhất là đối với những lao động có tay nghề giỏi, chuyên môn tốt. Hiện tại, nước ta đang tập trung 1/6 lực lượng lao động của khu vực ASEAN. Đổi lại, Việt Nam cũng tìm kiếm được nguồn nhân lực dồi dào từ các nước thành viên khác trong ASEAN về cả số lượng và kỹ thuật nhưng có giá vẫn khá thấp. Điều này góp phần bổ sung vào lượng lao động sẵn có, đồng thời khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động chất lượng cao hiện nay tại nước ta. Thứ ba, AEC sẽ đưa Việt Nam thâm nhập sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Thị trường trong nước được cải thiện nhờ môi trường thương mại hiệu quả, minh bạch và hàng rào thuế quan dần được xoá bỏ, các hàng rào phi thuế quan dần được giảm bớt trong các giao dịch thương mại quốc tế. Qua đó, nước ta sẽ có một môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, kích thích các doanh nghiệp trong nước có khả năng mở hướng đầu tư tới các nước trong khu vực ASEAN. 13 b,Và những thách thức mới Có thể nói rằng cơ hội cũng chính là thách thức dành cho Việt Nam. Trước tiên, việc lưu chuyển hàng hoá dễ dàng hơn sẽ khiến các nhà đầu tư cân nhắc việc phát triển sản phẩm tại một số địa điểm nhất định vì có nhiều thuận lợi, rồi sau đó sẽ đưa sản phẩm tới các nơi khác trong ASEAN. Như vậy, Việt Nam có thể có nguy cơ trở thành nơi để tiêu thụ hàng hoá chứ không phải nơi được đầu tư để phát triển sản xuất, nếu như nước ta không chứng tỏ được là đang sở hữu một môi trường kinh doanh tốt. Ngoài ra, Việt Nam còn đang dựa chủ yếu vào lực lượng lao động giá rẻ và năng suất thấp. Điều này đồng nghĩa với việc nước ta sẽ khó có thể nhận được những dự án đầu tư lớn về công nghệ hoặc quy mô, bởi chất lượng lao động thấp sẽ không đáp ứng được các yêu cầu về tính đa dạng, tính sáng tạo, tính hiệu quả…trong công việc. Thêm nữa, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối yếu kém, không chỉ về mặt nhân lực như trên mà còn về quy mô vốn nhỏ, cơ sở vật chật chưa đầy đủ, công nghệ lạc hậu, quản trị doanh nghiệp yếu kém và tư duy kinh doanh chưa cởi mở. Khi hàng hoá từ các nước thành viên ASEAN tràn ngập trên thị trường, áp lực cạnh tranh sẽ đè nặng lên các doanh nghiệp nước ta. Mức độ cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt hơn. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực, chủ động điều chỉnh nếu không rất có khả năng bị qua mặt ngay tại thị trường trong nước. 5, Giải pháp để thương mại Việt Nam hội nhập AEC một cách hiệu quả Để nền kinh tế Việt Nam nói chung và thương mại Việt Nam nói riêng hội nhập AEC có hiệu quả, cần thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất, thực hiện đổi mới kinh tế: Để tham gia hiệu quả vào lộ trình AEC, một trong những yếu tố quan trọng nhất là Việt Nam cần nỗ lực trong việc cải cách các quy chế trong nước như đơn giản hóa các thủ tục hành chính, hệ thống hóa và điều chỉnh các điều luật không có hiệu quả hay có sự mâu thuẫn. Đồng thời, bên cạnh việc thực hiện đúng, đủ và tích cực các cam kết, Chính phủ Việt Nam cần có sự hỗ trợ đối với các doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí giao dịch kinh doanh thông qua việc cắt giảm chi phí đầu vào sản xuất và cung ứng dịch vụ với thời gian ngắn nhất. Thứ hai, tăng cường tuyên tuyền, nâng cao nhận thức về AEC. Cần đẩy mạnh và đổi mới công tác thông tin tuyên truyền để xã hội và người dân nắm bắt được những nội dung cơ bản của AEC cũng như ý nghĩa quan trọng của tiến trình này đối với khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng. Tình trạng thiếu thông tin và hạn chế nhận thức về AEC là thực tế đang tồn tại ở hầu hết các nước ASEAN. Công tác thông tin, tuyên truyền trong thời gian tới cần phải được cải thiện về chất để nâng cao hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu thông tin của xã hội. Hình thức tuyên truyền phải đổi mới trên cơ sở tăng cường sử dụng các công cụ truyền thông đại chúng. Bên cạnh các 14 kênh thông tin chính thống cần khuyến khích sự tham gia nghiên cứu, phản biện... của các nhà khoa học, các hiệp hội doanh nghiệp để tạo sự nhìn nhận khách quan, đa chiều đối với các cơ hội và thách thức AEC. Thứ ba, tăng cường quản lý nhà nước về thị trường lao động, thường xuyên cập nhật thông tin liên quan đến thị trường lao động theo hàng tuần, hàng tháng, hàng quý trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các kênh chuyên dùng riêng biệt nhằm cung cấp cho người lao động có đầy đủ thông tin nhất về cung cầu lao động, sự biến động lao động trong từng ngành nghề cụ thể. Các cơ quan chức năng cần có chiến lược duy trì và phát triển nguồn lực lao động có kỹ năng cao phù hợp với quá trình hội nhập và điều kiện phát triển kinh tế đất nước theo từng giai đoạn cụ thể. Bên cạnh trình độ chuyên môn tự có của người lao động, doanh nghiệp nên chủ động đào tạo lại hoặc đào tạo nâng cao theo yêu cầu của quá trình hoạt động kinh doanh của mình thông qua các chương trình như tài trợ chi phí học nghề, thuê chuyên gia tư vấn, gửi đi hội thảo, giao lưu học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm với các tổ chức cá nhân đã thành công trong cùng lĩnh vực. Đối với bản thân người lao động muốn nâng cao cơ hội việc làm họ phải chủ động học hỏi, mở rộng kiến thức, phát huy sự sáng tạo, thay đổi tư duy khoa học, trau dồi ngoại ngữ . Xây dựng tác phong lao động chuyên nghiệp, có tính kỷ luật cao và nâng cao đạo đức nghề nghiệp. Thứ tư, tăng cường hiệu quả của cung ứng đầu vào cho sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là tăng cường hiệu quả của các ngành cung ứng đầu vào cho sản xuất và dịch vụ như giao thông vận tải, điện lực, viễn thông, tài chính và ngân hàng để toàn bộ nền kinh tế có được đầu vào sản xuất và dịch vụ với chi phí thấp hơn và chất lượng cao hơn. Thứ năm, nhà nước cần đưa ra những chính sách minh bạch, thống nhất: Một khuôn khổ đầu tư mở và tự do đối với lưu chuyển dòng vốn thông qua cải cách các quy định điều tiết thị trường theo hướng minh bạch hơn, dự đoán được và có hiệu lực hơn; một chính sách thuế quan chung với bên ngoài để thị trường không bị phân mảng. Trên cơ sở phân tích hiệu quả thực tế và đảm bảo tuân thủ các qui định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm tránh xảy ra các xung đột thương mại, cần khẩn trương xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng, chỉ dẫn, nhãn mác, bao bì, cũng như tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý nhập khẩu để hạn chế nhập khẩu công nghệ, thiết bị lạc hậu, ô nhiễm môi trường, hàng hoá chất lượng thấp. Đồng thời, áp dụng linh hoạt các biện pháp thương mại tạm thời như biện pháp chống bán phá giá, biện pháp chống trợ cấp, biện pháp tự vệ cũng như các biện pháp khác để bảo vệ sản xuất trong nước. Thứ sáu, thúc đẩy xây dựng mạng lưới cơ sở hạ tầng hiện đại giúp cho việc giao thương giữa Việt Nam với các nước trong cộng đồng AEC trở nên thuận tiện, dễ dàng hơn thông qua các chính sách kêu gọi đầu tư. Thứ bảy, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp: Đây là vấn đề quan trọng, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước/tư nhân hoạt động trong 12 lĩnh vực ưu tiên của tiến trình AEC. Theo đó, cần tập trung cải tổ bộ máy điều hành, nâng cao trình độ sản xuất - kinh doanh 15 của các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và ưu đãi cho các doanh nghiệp tư nhân để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khối ASEAN. Các cơ quan hành chính cần có các quy định cụ thể và nhất quán về các thủ tục, có chế độ hướng dẫn bằng văn bản và tư vấn hiệu quả cho các doanh nghiệp trước khi doanh nghiệp tiến hành các thủ tục hành chính. Về phía các doanh nghiệp Việt Nam, ngoài việc phải có nhân sự chuyên trách xây dựng thị trường, còn cần có sự chuẩn bị chu đáo từ sản phẩm, bao bì, mẫu mã, quy cách… đến các phương thức thâm nhập thị trường phù hợp. Đồng thời, quá trình phát triển thị trường cần theo sát xu hướng tiêu dùng của người dân mỗi nước ASEAN. Quá trình kinh doanh cũng cần liên kết với nhà phân phối nội địa uy tín, có năng lực… Thực tiễn cho thấy, sản phẩm của mỗi nước, mỗi doanh nghiệp đều nằm trong chuỗi giá trị của khu vực hay chuỗi giá trị của toàn cầu. Ví dụ, về các sản phẩm nông nghiệp, 13/15 sản phẩm của Việt Nam tương đồng với Indonesia nên cơ hội thị trường của nước ta không nhiều. Nhưng với 70% dân số làm nông nghiệp thì chắc chắn Việt Nam có thế mạnh so với các nước ASEAN khác phát triển công nghiệp hoặc phát triển dịch vụ. Đây là một thế mạnh mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tận dụng. Kết luận Xây dựng Cộng đồng ASEAN là nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt của Hiệp hội nói chung và Việt Nam nói riêng. Đối với Việt Nam, AEC sẽ là cơ hội quý báu để Việt Nam nhanh chóng bắt nhịp với xu thế và trình độ phát triển kinh tế của khu vực và thế giới. Do đó, Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong quá trình xây dựng AEC, hội nhập sâu rộng hơn nữa nhằm nâng cao vai trò của mình trong quá trình phát triển và hoàn thiện của ASEAN cũng như phát triển thương mại của đất nước một cách nhanh, mạnh, bền vững dựa trên khuôn khổ pháp lý quốc tế và ASEAN phù hợp với pháp luật Việt Nam, vì lợi ích của mình cũng như của cả Hiệp hội. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng