Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công cụ phòng ngừa cho thị trường chứng khoán việt nam...

Tài liệu Công cụ phòng ngừa cho thị trường chứng khoán việt nam

.PDF
71
89
101

Mô tả:

Luận văn Công cụ phòng ngừa cho thị trường chứng khoán Việt Nam Mục lục  LỜI MỞ ĐẦU Trang Chương 1 Cấu trúc thị trường quyền chọn chứng khoán 1.1. Quyền chọn chứng khoán 1 1.2. Đặc điểm quyền chọn chứng khoán 4 1.3. Thực hiện quyền chọn 4 1.4. Các thành phần tham gia giao dịch quyền chọn 7 1.5. Chi phí giao dịch quyền chọn 7 1.6. Một số thị trường quyền chọn chứng khoán trên thế giới 8 1.6.1 Thị trường Chicago Board Options Exchange (CBOE) 8 1.6.2 Thị trường Tokyo (TSE) 18 Chương 2 Thị trường chứng khoán Việt Nam và quyền chọn chứng khoán 2.1 Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 22 2.2 Sự bất ổn của thị trường chứng khoán 25 2.2.1 Quan sát chung toàn thị trường 25 2.2.2 Quan sát trên một số cổ phiếu cụ thể 27 2.3 Những bất cập còn tồn tại 29 2.4 Thị trường quyền chọn Việt Nam 34 2.4.1 Thị trường quyền chọn vàng 34 2.4.2 Thị trường quyền chọn ngoại tệ 33 Chương 3 Giải pháp cho thị trường quyền chọn chứng khoán Việt Nam 3.1 Đối với Uỷ ban chứng khoán 39 3.1.1 Hành lang pháp lý cho giao dịch quyền chọn chứng khoán 39 3.1.2 Xây dựng cơ chế giao dịch 43 3.2 Đối với Công ty chứng khoán 44 3.2.1 Một số quy định cơ bản 44 3.2.2 Cách thức giao dịch và khớp lệnh 45 3.2.3 Định giá quyền chọn 47 Kết luận 54 Phụ lục và tài liệu tham khảo CÁC CHỮ VIẾT TẮT TTCK: Thị trường chứng khoán UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà nước HOSE: Sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh HASTC: Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội CP: cổ phiếu MỤC LỤC HÌNH, BẢNG: Trang Hình 1.1.1: Quyền chọn mua cổ phiếu ..................................................................... 2 Hình 1.1.2: Quyền chọn bán cổ phiếu ...................................................................... 3 Hình 1.1.3: Đồ thị quyền chọn mua - quyền chọn bán ............................................. 3 Hình 1.3.1: Sơ đồ giao dịch quyền chọn .................................................................. 6 Hình 2.1.1: Tỷ lệ tăng trưởng GDP 2000 - 2007 của Việt Nam................................ 23 Hình 2.1.2: Tốc độ tăng trưởng tổng mức vốn hoá thị trường từ 2005 – 2007 .......... 23 Hình 2.1.3: Biểu đồ thể hiện số lượng thành viên tham gia nhập TTCK năm 2007 .. 24 Hình 2.1.4: Biểu đồ thể hiện sự gia tăng giá trị giao dịch tại hai sàn năm 2007 ........ 24 Hình 2.2.1.1: Biểu đồ VN-INDEX từ tháng 6/2006 đến tháng 3/2008 ..................... 28 Hình 2.2.2.1: Bảng thể hiện tỷ suất sinh lợi và mức độ dao động của cổ phiếu từ tháng 8/2004 đến tháng 3/2008 ......................................................................................... 28 Bảng 3.1.1.1: Các mã cổ phiếu có thể giao dịch quyền chọn .................................... 41 Hình 3.2.3.1: Cơ chế giao dịch trực tiếp .................................................................. 46 Hình 3.2.3.2: Cơ chế giao dịch gián tiếp thông qua nhà môi giới ............................. 47 Hình 3.2.4.1: Bảng tóm tắt các nguyên tắc định giá quyền chọn .............................. 49 Lời mở đầu  Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, một sự kiện được đánh dấu là mở cửa trên đường hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt là gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, ngày 28 tháng 7 năm 2000 với hồi chuông vang lên từ sở giao dịch chứng khoán TP.HCM đã đánh dấu một bước ngoặc trong lịch sử với phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên đã được thực hiện. Khi bắt đầu chỉ có hai công ty niêm yết với mã cổ phiếu là REE và SAM. Trải qua bao sóng gió trên thị trường và trên lộ trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước cũng như các doanh nghiệp tư nhân niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch cho đến thời điểm ngày 7 tháng 3 năm 2008 đã có hơn 145 cổ phiếu niêm yết trên sàn. Thị trường chứng khoán là huyết mạch của nền kinh tế đối với các nước phát triển trên thế giới, ở Việt Nam thị trường cũng đi vào hoạt động được hơn 7 năm, nhưng thật sự sôi động từ tháng 11 năm 2006. Thị trường vừa là kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp và cũng là nơi cho các nhà đầu tư mua bán giao dịch cổ phiếu. Trong thời gian vừa qua với biểu hiện tình trạng bong bóng chứng khoán trên thị trường, sự hoan mang của các nhà đầu tư trong nước khiến chỉ số VN-Index không ngừng biến động và các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước thật sự không dự báo được. Hiện tại trên thị trường chứng khoán Việt Nam các nhà đầu tư chỉ đầu cơ giá lên, khi giá xuống tới mức nào đó thì bán để cắt lỗ. Thật sự chưa có công cụ bảo vệ các nhà đầu tư. Đây cũng là lý do mà em chọn đề tài nghiên cứu mang tên “Công cụ phòng ngừa cho thị trường chứng khoán Việt Nam”. Đề tài này em sẽ đi sâu tìm hiểu về thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam để thấy được sự cần thiết ra đời sản phẩm phái sinh mang tên quyền chọn cổ phiếu: vừa là công cụ phòng ngừa hữu hiệu, vừa là kênh đầu tư mới cho nhà đầu tư. Có thể nói đây cũng là thời điểm chín mùi để quyền chọn cổ phiếu ra đời không những đáp ứng nhu cầu đông đảo từ phía các nhà đầu tư mà quyền chọn cổ phiếu còn có thể là công cụ bảo vệ, bình ổn thị trường từ đó có thể giúp thị trường phát triển bền vững hơn. Chương 1 Cấu trúc thị trường quyền chọn chứng khoán 1.1. Quyền chọn chứng khoán. Khái niệm: Quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên - người mua và người bán – trong đó cho người mua có quyền thực hiện hợp đồng nhưng không bắt buộc để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào một ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán quyền chọn một khoản tiền gọi là phí quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo các điều khoản của hợp đồng nếu người mua muốn thế. Hợp đồng quyền chọn có hai loại: quyền chọn mua và quyền chọn bán. Quyền chọn mua cổ phiếu Hợp đồng quyền chọn mua là thỏa thuận cho phép người mua có quyền mua tài sản từ người bán với mức giá định sẵn vào ngày đáo hạn hợp đồng. Người mua quyền chọn mua sẽ trả cho người bán quyền chọn mua một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay phí quyền chọn và người mua quyền chọn mua sẽ có quyền được mua nhưng không bắt buộc phải mua một lượng tài sản nhất định (chứng khoán, ngoại tệ, hàng hoá…) theo một mức giá đã được thoả thuận trước vào một ngày xác định trong tương lai (theo kiểu châu Âu) hoặc được thực hiện trước ngày đó (theo kiểu Mỹ). Người bán quyền chọn mua nhận được tiền từ người mua quyền chọn mua nên họ có trách nhiệm phải bán một số lượng cổ phiếu nhất định theo một giá cả đã được thoả thuận trước vào một ngày xác định trong tương lai hoặc được thực hiện trước ngày đó, khi người mua quyền chọn mua muốn thực hiện quyền được mua. Hình 1.1.1 Quyền chọn mua Trên đồ thị ta cũng dễ dàng thấy được, khi mua quyền chọn mua cổ phiếu nếu giá thực hiện ở 80.000đ/cp và phí quyền chọn là 2000đ/cp, điểm hoà vốn khi giá cổ phiếu trên thị trường tăng lên 82.000đ/cp. Người mua quyền chọn có vùng lời không giới hạn và lỗ có giới hạn còn người bán quyền chọn thì ngược lại. Ngoài ra người mua quyền chọn cũng có thể bán hợp đồng quyền chọn của mình khi hợp đồng chưa đáo hạn đối với quyền chọn mua kiểu Mỹ. Nhưng nếu giá cổ phần ABC không tăng lên theo dự đoán của bạn, nó giảm liên tục, cho tới ngày đến hạn trên hợp đồng giá vẫn giảm thì bạn sẽ không thực hiện quyền chọn mua của mình và bạn chỉ lỗ phí quyền chọn mà thôi. Điểm hoà vốn quyền chọn mua = Giá thực hiện + Phí quyền chọn mua 82.000 đ = 80.000 đ + 2.000 đ Quyền chọn bán cổ phiếu Hợp đồng quyền chọn bán cổ phiếu: là thỏa thuận cho phép người bán bán một số lượng cổ phiếu nhất định ghi trong hợp đồng cho người mua với giá đã thoả thuận trong tương lai vào ngày đáo hạn hợp đồng hoặc trước ngày đáo hạn nhưng không bắt buộc thực hiện. Trong giao dịch bán quyền chọn cũng có 2 bên tham gia: người mua quyền chọn bán và người bán quyền chọn bán. Hình 1.1.2 Quyền chọn bán Người mua quyền chọn bán sẽ trả cho người bán quyền chọn bán một khoản tiền – phí quyền chọn. Người bán quyền chọn bán nhận được tiền từ người mua, nên người bán sẽ có trách nhiệm phải mua một cổ phiếu nhất định theo một mức giá đã được thỏa thuận trước vào một ngày xác định trong tương lai hoặc được thực hiện trước ngày đó, khi người mua quyền chọn bán muốn thực hiện cái quyền được bán của nó. Hình 1.1.3 Ví dụ: giá cổ phần ABC là 80.000 đ, dự báo giá cổ phần ABC sẽ giảm trong thời gian tới. Vậy để có lời, bạn sẽ vay cổ phiếu của người khác và bán nó đi. Sau đó nếu giá cổ phần giảm 80.000 đ, bạn sẽ mua lại để trả cho khoản vay cổ phiếu trước đó. Nhưng nếu thực tế giá trị cổ phiếu ABC trên thị trường lên 100.000 đ/cp chẳng hạn, nếu bạn muốn an toàn, ít rủi ro và vẫn thực hiện được dự báo của mình (cổ phiếu ABC giảm giá), bạn thử đầu tư vào quyền chọn bán, cụ thể bạn mua quyền chọn bán cho cổ phần ABC với giá thoả thuận trước là 80.000 đ/cp, với mức phí là 2.000 đ cho 1 quyền chọn bán 1 cổ phiếu ABC, nếu đầu tư 1.000 cổ phiếu thì phí quyền chọn bán là 2.000.000 đ. Nếu giá cổ phiếu ABC giảm theo đúng dự báo, giảm xuống còn 50.000 đồng/cổ phiếu, thì bạn sẽ được quyền bán cổ phiếu ABC với giá thoả thuận trước 80.000 đồng/cổ phiếu, so với giá thị trường bạn sẽ có chênh lệch là 30.000 đồng/cổ phiếu, trừ phí mua quyền chọn bán 2.000 đồng/cổ phiếu, bạn sẽ có lợi ròng là 28.000 đồng/cổ phiếu, 1.000 cổ phiếu thì bạn sẽ có lợi nhuận là 28 triệu đồng. 1.2. Đặc điểm quyền chọn chứng khoán. Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn: - Không ràng buộc nghĩa vụ đối với bên mua hợp đồng quyền chọn phải mua hay bán một lượng cổ phiếu nhất định khi hợp đồng quyền chọn đến hạn. Người mua có thể thực hiện quyền hoặc bán quyền cho người khác hay không thực - hiện quyền. Để thực hiện quyền này, khi ký kết hợp đồng người mua phải trả phí quyền chọn, giá trong hợp đồng gọi là giá thực hiện và ngày định trong hợp đồng là ngày đáo hạn. Tương tự như vậy đối với người bán trong hợp đồng quyền chọn bán. Tùy theo từng loại mà hợp đồng quyền chọn có thể thực hiện tại bất kỳ thời điểm nào - trước ngày đáo hạn hoặc đến ngày đáo hạn. 1.3. Thực hiện quyền chọn. Đặt lệnh mở: Sau khi mở tài khoản ở công ty môi giới, khi tham gia giao dịch các nhà đầu tư. Một cá nhân đặt lệnh quyền chọn đầu tiên phải mở một tài khoản ở công ty môi giới. Sau đó cá nhân này sẽ đặt lệnh thông qua người môi giới. Người môi giới gởi lệnh đến người môi giới sàn giao dịch của công ty trên sàn giao dịch quyền chọn. Tất cả các lệnh phải được thực hiện trong giờ giao dịch bình thường, trong trường hợp có thay đổi trung tâm giao dịch sẽ thông báo.Các giao dịch được thực hiện tại các trạm giao dịch thiết kế cho các quyền chọn riêng biệt. Một nhà giao dịch có thể đặt nhiều lệnh:  Lệnh thị trường chỉ thị cho các nhà môi giới trên sàn giao dịch nhận giá tốt nhất.  Lệnh giới hạn quy định cụ thể mức giá cao nhất có thể trả để mua hoặc mức giá thấp nhất chấp nhận bán, các lệnh giới hạn có thể có giá trị cho đến khi bị huỷ hoặc có giá trị trong ngày.  Lệnh dừng ở mức giá thấp hơn mức giá hiện tại.  Lệnh tất cả hoặc không cho phép người môi giới thực hiện một phần lệnh giá này, và phần còn lại với giá khác.  Lệnh tất cả hoặc không, cùng giá yêu cầu người môi giới hoặc là thực hiện toàn bộ lệnh với cùng một mức giá hoặc là không thực hiện lệnh. Vai trò của trung tâm thanh toán: Sau khi các giao dịch được thực hiện. Trung tâm thanh toán (Công ty thanh toán bù trừ quyền chọn OCC) là một công ty độc lập đảm bảo cho việc thực hiện của người bán. OCC là trung gian cho mỗi giao dịch. Người mua thực hiện giao dịch không hướng vào người bán mà hướng vào OCC vì vậy OCC thực hiện một trách nhiệm quan trọng là bảo đảm cho việc thực hiện của người bán quyền. Người mua không cần biết đến hay nhận dạng của người bán. Vì là công ty thanh toán thành viên nhận lấy một số rủi ro, OCC áp đặt một yêu cầu vốn tối thiểu cho công ty này. OCC có quyền đối với thành viên thanh toán về tài khoản ký quỹ của họ trong trường hợp họ không thể chi trả. Để nâng tính bảo vệ hơn, OCC duy trì một mức ký quỹ đặc biệt được hỗ trợ bởi các thành viên. Nếu quỹ bị kiệt quệ, OCC có thể đánh giá chất lượng của các thành viên khác để đảm bảo sự tồn tại của mình cũng như thị trường quyền chọn nói chung. Dĩ nhiên trên OTC không có trung tâm thanh toán nên người mua nhạy cảm với rủi ro tín dụng từ phía người bán. Đặt lệnh bù trừ: Giả định một nhà đầu tư đang nắm giữ một quyền chọn. Giá cổ phiếu hiện nay đang tăng, và giá của quyền chọn hiện nay đã cao hơn nhiều so với giá mua lúc đầu. Tính thanh khoản của thị trường quyền chọn cho phép các nhà đầu tư kiếm lời bằng cách bán quyền chọn trên thị trường. Lệnh này được thực hiện giống lệnh mở. Thực hiện một quyền chọn: Một quyền chọn kiểu Mỹ có thể được thực hiện vào bất kỳ ngày nào cho đến ngày đáo hạn. Quyền chọn kiểu Châu âu chỉ có thể được thực hiện vào ngày đáo hạn. Vào ngày đáo hạn, nếu bạn cho rằng giá cổ phiếu thấp hơn giá thực hiện, hoặc đối với quyền chọn bán, giá cổ phiếu cao hơn giá thực hiện, bạn để cho quyền chọn hết hiệu lực bằng cách không làm gì cả. Hình 1.3.1 Sơ đồ giao dịch quyền chọn (1a) (1b) Người mua và người bán chỉ thị cho người môi giới riêng của mình tiến hành một giao dịch quyền chọn. (2a) (2b) Người môi giới của người mua và người bán yêu cầu nhà môi giới trên sàn của công ty mình thực hiện giao dịch. (3) Các nhà môi giới trên sàn gặp gỡ trên sàn giao dịch quyền chọn và thống nhất giá cả. (4) Thông tin về giao dịch được báo cáo cho trung tâm thanh toán bù trừ. (5a) (5b) Nhà môi giới trên sàn thông báo giá cho người môi giới của người mua và người bán. (6a) (6b) Người môi giới của người bán và người mua thông báo giá về cho người bán và người mua. (7a) (7b) Người mua (người bán) ký gửi phiếu quyền chọn cho người môi giới. (8a) (8b) Người môi giới của người mua và người bán ký gửi phí quyền chọn và tiền ký quỹ cho công ty thanh toán của mình. (9a) (9b) Công ty thanh toán của người môi giới của bên mua và bên bán ký gửi phí quyền chọn và tiền quỹ cho trung tâm thanh toán bù trừ. 1.4. Các thành phần tham gia giao dịch quyền chọn. Nhà tạo lập thị trường: Vai trò của nhà tạo lập thị trường trên sàn giao dịch là đảm bảo cho các lệnh mua bán của các nhà đầu tư công chúng luôn luôn được khớp lệnh, khi các nhà đầu tư mua hay bán quyền chọn mà không có nhà đầu tư khác bán hay mua quyền chọn thì nhà tạo lập thị trường sẽ thực hiện giao dịch đó. Nhà tạo lập thị trường về bản chất là một doanh nghiệp, các nhà tạo lập thị trường sử dụng đa dạng các biện pháp kỹ thuật để giao dịch quyền chọn một cách thông minh và để có lợi nhuận. Môi giới sàn giao dịch: thực hiện giao dịch cho các thành viên công chúng có thể nhận được một mức lương thuần hoặc nhận hoa hồng trên mỗi lệnh thực hiện được. Nhà môi giới trên sàn không quan tâm đến việc giá tăng hay giảm. Tuy nhiên một nhà môi giới sẽ làm việc mẫn cán để đạt được một kết quả tốt nhất cho khách hàng. Nhân viên giữ sổ lệnh (OBO): đảm bảo cho lệnh giới hạn của công chúng luôn luôn được thực hiện trước lệnh của các nhà tạo lập thị trường. Các hệ thống giao dịch quyền chọn: Các sàn giao dịch đã đưa các tiện ích của công nghệ hiện đại vào hoạt động xử lý lệnh của họ, sử dụng nhiều phương tiện điện tử để đẩy nhanh tốc độ thực hiện lệnh. Ví dụ hầu hết các nhà kinh doanh của CBOE hiện nay đều sử dụng thiết bị đầu cuối cầm tay thay vì cấp thẻ viết tay hoặc các mảnh giấy để gửi theo dõi các giao dịch của mình. Những nhà kinh doanh quyền chọn trên sàn: Các tổ chức lớn như quỹ hưu bổng, quỹ uỷ thác, quỹ hỗ tương, số lượng các tổ chức nước ngoài giao dịch quyền chọn cũng tăng lên. Ngoài ra còn có nhiều nhà đầu tư có tổ chức lớn, dĩ nhiên là nhiều cá nhân – giàu có hoặc không – mua bán quyền chọn. Số tiền tham gia giao dịch quyền chọn trên sàn khá nhỏ nên hầu hết bất cứ ai cũng có thể tham gia. 1.5. Chi phí giao dịch quyền chọn. Phí giao dịch trên sàn và phí thanh toán: là khoản phí tối thiểu do sàn giao dịch ấn định, chi phí này trả cho trung tâm thanh toán và các thành viên xử lý các giao dịch trên sàn. Đối với những nhà kinh doanh thông qua môi giới, các phí này được tính gộp trong hoa hồng của người môi giới. Đối với người tạo lập thị trường thì các khoản này do công ty thanh toán của nhà tạo lập thị trường thu. Công ty thanh toán ký kết một thoả thuận theo hợp đồng với một nhà tạo lập thị trường để thanh toán giao dịch với mức phí thường được tính trên cơ sở từng hợp đồng. Trên thực tế tại các sàn giao dịch thì các nhà tạo lập thị trường đều phải tốn chi phí nhất định cho mỗi giao dịch, chi phí này còn tuỳ thuộc vào khối lượng giao dịch. Ngoài ra nhà tạo lập thị trường còn phải gánh chịu một số chi phí cố định. Đối với quyền chọn trên thị trường OTC, không phải gánh chịu các dạng chi phí này, nhưng có những khoản chi phí tương đương. Liên quan đến hoạt động giao dịch của công ty và liên quan đến việc xử lý các giao dịch được thiết lập theo yêu cầu của khách hàng. Hoa hồng: Một trong những lợi thế chính của việc sỡ hữu seat trên sàn giao dịch là tránh được việc phải trả hoa hồng cho mỗi giao dịch. Nhà tạo lập thị trường chỉ gián tiếp thông qua chi phí cơ hội của các khoản tiền liên quan đến giá của seat, công sức thực hiện giao dịch, bỏ qua các lợi nhuận có thể thu được theo một kênh khác. Tuy nhiên khoản hoa hồng tiết kiệm được thì rất đáng kể. Các nhà môi giới chiết khấu thu tỷ lệ hoa hồng thấp nhất nhưng các giao dịch thường xuyên và các giao dịch lớn đôi khi cần phải tận dụng lợi thế về giá. Các công ty môi giới chiết khấu cho bạn những lời khuyên và không cung cấp các nghiên cứu như các nhà môi giới trọn gói. Mặc dù vậy, nhà môi giới trọn gói sẻ cho bạn nhiều thông tin một cách đầy đủ hơn. Hoa hồng quyền chọn dựa trên một khoảng giá trị cố định tối thiểu và một khoảng phí trên mỗi hợp đồng. Khi thực hiện quyền chọn cổ phiếu, nhà đầu tư phải trả hoa đồng cho việc mua bán cổ phiếu. Nếu một nhà đầu tư thực hiện một quyền chọn thanh toán bằng tiền, giao dịch này chỉ kéo theo một bút toán kế toán. Một công ty môi giới không thực hiện việc tính phí thanh toán quyền chọn bằng tiền. Khi bất kỳ quyền chọn nào hết hiệu lực mà không được thực hiện thường thì công ty môi giới không tính hoa hồng. Đối với quyền chọn OTC thường không cần trả hoa hồng, vì người mua và người bán quyền chọn thường giao dịch trực tiếp với đối tác. Chênh lệch giá mua bán: Mức chênh lệch do nhà tạo lập thị trường đưa ra là một khoản phí giao dịch đáng kể. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là nhà đầu tư có thể kiếm lời. Giá quyền chọn mua có thể tăng giá đáng kể trước khi quyền chọn được bán đi, nhưng nếu khoản chênh lệch không đổi, giá hỏi mua phải tăng lên ít nhất bằng khoản chênh lệch giá mua – bán rồi mới có thể kiếm được lợi nhuận. Các chi phí giao dịch khác: Ngoài ra không có các chi phí như: tiền ký quỹ và thuế. Hầu hết các nhà kinh doanh quyền chọn đều giao dịch cổ phiếu. Vì vậy chi phí giao dịch cổ phiếu cũng là nhân tố ảnh hưởng chi phí giao dịch quyền chọn. Yêu cầu ký quỹ đối với quyền chọn cổ phiếu: Khoản ký quỹ ban đầu thấp nhất đối với mua và bán khống cổ phiếu là 50%. Mức ký quỹ duy trì thấp nhất là 25%. Nhiều công ty môi giới cộng thêm khoản 5% hay hơn nữa với các mức yêu cầu này. 1.6. Một số thị trường quyền chọn chứng khoán trên thế giới 1.6.1. Thị trường Chicago Board Options Exchange (CBOE). Thông tin về thị trường Quyền chọn Trong thập niên 80 thị trường quyền chọn đối với ngoại tệ, chỉ số chứng khoán và hợp đồng future đã phát triển ở Mỹ. Thị trường CBOE trao đổi quyền chọn chỉ số chứng khoán của S & P 100 và S & P 500. Thị trường chứng khoán Mỹ giao dịch quyền chọn về chỉ số chứng khoán của một số thị trường chính, và thị trường chứng khoán New York giao dịch chỉ số NYSE. Hầu hết các thị trường đều giao dịch quyền chọn đối với những hợp đồng future. Thị trường CBOE giao dịch quyền chọn đối với hợp đồng tương lai về các sản phẩm nông nghiệp. Hiện nay thị trường quyền chọn tồn tại khắp nơi trên thế giới. Từ khi ra đời, thị trường quyền chọn của Mỹ, đặc biệt là sàn giao dịch quyền chọn CBOE phát triển mạnh. Theo những tiêu chuẩn của sàn CBOE, một hợp đồng quyền chọn được xác định rõ bởi 6 phần : loại quyền chọn, cổ phiếu hoặc tài sản gốc, số lượng hợp đồng, cách thức thực hiện hợp đồng, giá thực hiện và ngày đáo hạn. Tiêu chuẩn của những phần này như sau:  Tiêu chuẩn của cổ phiếu được giao dịch quyền chọn Những cổ phiếu được chọn ra từ sàn giao dịch làm cơ sở cho quyền chọn phải chắc chắn tuân theo những tiêu chuẩn: - Giá của cổ phiếu cơ sở phải thấp nhất là $7.50 trong 1 thời kỳ 3 tháng niêm yết. - Cổ phiếu cơ sở phải có ít nhất 2000 cổ đông - Tổng giá trị giao dịch của cổ phiếu cơ sở phải ít nhất là 2.4 triệu trong suốt 12 tháng niêm yết. - Cổ phiếu cơ sở cần phải có ít nhất 7 triệu cổ phiếu đang lưu hành được nắm giữ bởi những nhà đầu tư không phải là thành viên của công ty.  Đơn vị hợp đồng Một hợp đồng là số lượng cổ phiếu cơ sở mà người nắm giữ quyền chọn được quyền mua hay bán tại mức giá thực hiện lúc đáo hạn. Ở thị trường quyền chọn của Mỹ, tiêu chuẩn của một hợp đồng là một số chẵn cổ phiếu cơ sở thường là 100 cổ phiếu. Tuy nhiên, một hợp đồng có thể tăng thêm nếu cổ phiếu cơ sở bị chia tách không chẵn trong suốt thời kỳ tồn tại quyền chọn. Ví dụ: nếu cổ phiếu cơ sở được chia tách với tỷ lệ 3/2. Trong trường hợp đó hợp đồng quyền chọn sẽ tăng thêm lên 3x100:2=150 cổ phiếu, số lượng hợp đồng vẫn như cũ không thay đổi, giá cổ phiếu và giá của thực hiện sẽ giảm đi 2/3.  Giá thực hiện Giá thực hiện được cố định là 2½ điểm nếu giá của cổ phiếu cơ sở thấp hơn $25, và 5 điểm nếu giá cổ phiếu nằm trong khoảng từ $25 đến $200 và 10 điểm cho những cổ phiếu có giá từ $200 trở lên. Những quyền chọn mới được thiết lập với giá thực hiện gần bằng với giá của cổ phiếu hiện tại và cùng thời gian trên. Ví dụ như, nếu cổ phiếu đang được giao dịch với giá 51 ¾, thì những quyền chọn có giá 45, 50 và 55 được niêm yết vào lúc đầu. Những danh sách mới sẽ được thêm vào khi cổ phiếu giao dịch qua giá thực hiện cao nhất hoặc thấp nhất.  Tháng đáo hạn Cổ phiếu làm cơ sở cho những quyền chọn đầu tiên được quy vào tháng 1, tháng 2 hoặc tháng 3 trong chu kỳ 4 tháng. Khi đó hợp đồng quyền chọn với thời hạn đáo hạn là 4 tháng được niêm yết vào bất kì lúc nào. Tháng đáo hạn sẽ là 2 tháng liên tục gần nhất và 2 tháng kế tiếp trong chu kỳ 4 tháng. Ví dụ như nếu hợp đồng quyền chọn hết hiệu lực vào tháng 1 thì chu kỳ 4 tháng sẽ là cột bên trái, tháng mở hợp đồng sẽ ở cột bên phải của bảng dưới. Chu kỳ 4 tháng Hợp đồng mở Tháng 1, tháng 4, tháng 7, tháng 10 Tháng 2, tháng 3, tháng 4, tháng 7 Tháng 2, tháng 5, tháng 8, tháng 11 Tháng 2, tháng 3, tháng 5, tháng 8 Tháng 3, tháng 6, tháng 9, tháng 12 Tháng 2, tháng 3, tháng 6, tháng 9 Ngày đáo hạn thường là ngày thứ bảy sau ngày thứ 6 của tháng đáo hạn cho quyền chọn cổ phiếu và quyền chọn chỉ số được niêm yết trên thị trường Mỹ. Ngày cuối cùng trên hợp đồng có thể được giao dịch vào ngày làm việc ngay trước ngày đáo hạn (thường là ngày thứ 6 của tháng có ngày đáo hạn). Những điểm lưu ý khi tham gia trên sàn CBOE Một phần quan trọng trên thị trường quyền chọn đó là nhà tạo lập thị trường. Cấu trúc và những cơ quan riêng biệt của thị trường quyền chọn cổ phiếu của Mỹ phát thảo những mục sau:  Đặt lệnh Có hai loại lệnh mua và bán là lệnh thị trường (market order) và lệnh giới hạn (limit order). Lệnh thị trường là một cấu trúc mua hay bán tại mức giá tốt nhất ngay khi lệnh tới sàn giao dịch. Lệnh giới hạn là cấu trúc mua hay bán chỉ tại mức giá đã định trước hoặc tốt hơn. Lệnh giới hạn là được định rõ là lệnh trong ngày đặt lệnh hay GTC. Lệnh trong ngày tự động hết hiệu lực vào cuối ngày giao dịch nếu như nó không được khớp. Một lệnh GTC vẫn có tác dụng cho đến khi nó được thực hiện, huỷ bỏ bởi khách hàng hay quyền chọn hết hiệu lực. Lệnh spread là lệnh mua hoặc bán đồng thời hai quyền chọn như là một sự kết hợp. Giao dịch mở là một cách để tăng số lượng quyền chọn mua hay bán trong một tài khoản. Giao dịch đóng bù lại những giao dịch ưu tiên và bao gồm quyền chọn bán để làm giảm bớt số lượng hợp đồng trong một vị thế bán hiện tại hoặc là người mua quyền chọn để giảm bớt số lượng hợp đồng trong vị thế bán hiện tại.  Giới hạn vị thế Trung tâm giao dịch sẽ quy định tổng số lượng quyền chọn lớn nhất đối với một cổ phiếu cơ sở mà một cá nhân riêng lẽ có thể mua hoặc bán. Giới hạn này tương ứng với số lượng cổ phiếu đang lưu hành và lượng giao dịch của cổ phiếu đó trong 6 tháng trước và hiện tại là 25000, 20000, 10500, 7500, 4500 hợp đồng. Giới hạn này áp dụng cho bất kỳ hợp đồng kết hợp nào mà được lập trên cùng một thị trường. Giới hạn vị thế thường là số lượng hợp đồng lớn nhất trên cùng một thị trường mà có thể đáo hạn trong 5 ngày làm việc liên tiếp.  Giao dịch và đáo hạn Khách hàng sẽ chỉ rõ thông số yêu cầu như trên đã nói và người môi giới sẽ chuyển lệnh bằng điện thoại hay máy tính đến trung tâm viễn thông trên sàn giao dịch nơi mà quyền chọn được giao dịch. Từ nơi đó, lệnh sẽ chuyển tới môi giới sàn của công ty. Nếu công ty môi giới không thuê những môi giới sàn, thì sau đó lệnh sẽ đưa tới một người độc lập hay một môi giới sàn của công ty khác. Môi giới sàn là thành viên của sàn giao dịch hay nói cách khác là người ngồi ở sàn giao dịch nghĩa là họ được cho phép có 1 vị trí trong sàn và được phép giao dịch với những thành viên khác. Môi giới sàn không được phép mua hay bán trên tài khoản của họ mà chỉ có thể thực hiện các lệnh của khách hàng. Nhà tạo lập thị trường là một thành viên của sàn giao dịch, là người được yêu cầu duy trì kiểm kê chính xác những quyền chọn còn tồn đọng để mua và bán những tồn đọng đó. Thông thường có nhiều nhà tạo lập trong cùng một thị trường. Nhà tạo lập thị trường được yêu cầu định ra giá chào mua, giá cao nhất mà họ sẽ mua và giá chào bán là giá thấp nhất mà họ sẽ bán. Tuy nhiên, môi giới sàn không được tiết lộ đó là lệnh mua hay lệnh bán. Hệ thống đấu giá công khai qua có thể đấu giá một cách nhanh chóng và sẽ tìm ra giá hiệu quả, chắc chắn rằng nhiều lệnh có thể khớp tại cùng 1một giá và đưa đến một yêu cầu thanh toán tiền mặt. Người thứ 3 của trung tâm giao dịch quyền chọn đó là nhân viên giữ sổ lệnh. Nếu một môi giới sàn cố gắng đáp ứng một lệnh giới hạn mua ở mức $10, nhưng hiện tại giá chào bán hiện tại của nhà tạo lập thị trường là $11, thì lệnh đó không được thực hiện. Lệnh giới hạn khi đó sẽ được chuyển tới nhân viên giữ sổ lệnh. Nhân viên giữ sổ lệnh nhập lệnh giới hạn vào máy tính, nó có thể được theo dõi bởi những thành viên khác trong sàn giao dịch. Lệnh sau đó được thực hiện khi mà giá giới hạn được định bởi nhà tạo lập thị trường. Giá của những quyền chọn được xác định và giao dịch trên sàn cần phải đầy đủ những giá trị phức tạp nhỏ nhất được quy định tại sàn giao dịch. Cơ cấu hệ thống này chỉ có tại CBOE. Trung tâm giao dịch quyền chọn Hoa Kỳ (AMEX) và trung tâm giao dịch quyền chọn Philadelphia (PHLX) sử dụng hệ thống nhỏ hơn. Tại những sàn giao dịch đó, những chuyên gia sẽ đảm nhận cả 2 vai trò là nhà tạo lập thị trường và nhân viên giữ sổ lệnh. Với vai trò là nhà tạo lập thị trường, họ thực hiện hoạt động điều phối bằng cách duy trì thống kê và giao dịch với những tài khoản họ sở hữu. Với vai trò là nhân viên giữ sổ lệnh, họ thực hiện nhiệm vụ của người môi giới bằng cách chấp nhận và thực hiện những lệnh giới hạn của khách hàng. Tuy nhiên, không giống như nhân viên giữ sổ lệnh tại CBOE, chuyên gia không bị bắt buộc công bố lệnh giới hạn đến những thành viên khác. Một đặc điểm khác của hệ thống những nhà chuyên biệt là sự có mặt của những người giao dịch tài sản khác, họ tự giao dịch cho chính họ và cố gắng để thu được lợi nhuận từ việc mua hay bán quyền chọn. Một số sàn quyền chọn chính trên thế giới như là Amsterdam Options Exchange (AEX Options) and the Australian Stock Exchange, Derivatives (ASXD), cũng có hệ thống giao dịch và đấu giá như nhau. Tuy nhiên, những sàn giao dịch lớn khác như là Swiss Options & Financial Futures Exchange (SOFFEX), Deutsche Terminborse (DTB), OM Stockholm, và Marche des Options Negociables de Paris (MONEP), sử dụng hệ thống bảng điện tử. Hệ thống điện tử thay thế cho đấu giá công khai trong sàn giao dịch với hệ thống đặt lệnh, gởi lệnh từ xa, và khớp lệnh. Hệ thống giao dịch điện tử rẻ hơn so với đấu giá công khai bởi vì hệ thống này không cần có một toà nhà rộng để đặt sàn giao dịch và cần ít nhân viên hơn. Những sàn giao dịch phái sinh mới hầu như sử dụng hệ thống này vì chúng cung cấp hiệu quả và năng suất để bắt đầu hoạt động. Sàn giao dịch Mỹ được dự đoán trong tương lai có khả năng tiếp tục với phương thức đấu giá mở, và sẽ tiếp tục phát triển những sản phẩm phái sinh.  Thanh toán, trả tiền, và trung tâm thanh toán bù trừ (OCC) Trung tâm thanh toán bù trừ cung cấp yêu cầu khả năng thanh toán tiền mặt cho hoạt động trên thị trường thứ cấp bởi vì người mua hay người bán đều mong muốn quyền chọn của mình được giao dịch đầu tiên. Như là một thành viên đối lập trong mỗi giao dịch, trung tâm thanh toán bù trừ bảo đảm mối quan hệ của tất cả các hợp đồng và theo cách đó chuyển dịch rủi ro của người tham gia vào thị trường cho trung tâm thanh toán bù trừ. Trung tâm thanh toán bù trừ phục vụ riêng cho thị trường quyền chọn cổ phiếu của Mỹ là Option Clearing Corporation (OCC). OCC là một công ty được sở hữu như nhau bỡi 4 trung tâm giao dịch quyền chọn cổ phiếu lớn nhất: AMEX, CBOE, PHLX, và Pacific Stock Exchange (PCX). Sau một giao dịch được thực hiện trên sàn giao dịch, điều kiện thoả thuận của giao dịch phải được chuyển tới OCC, và giao dịch cần phải trả bằng tiền mặt. Người mua và người bán sẽ xác nhận trước nhất với công ty môi giới. Nếu công ty môi giới là công ty thanh toán thì sau đó báo cáo chi tiết giao dịch sẽ được chuyển trực tiếp đến OCC. Công ty thanh toán bù trừ quyền chọn là môi giới/điều phối hay công ty chứng khoán mà phải là thành viên của OCC. Để trở thành thành viên của OCC, công ty đó cần phải là thành viên của một sàn giao dịch nào đó thuộc quản lý của OCC. Thêm vào đó, công ty cần phải thỏa mãn những điều lệ về mức vốn thấp nhất và cần phải đặt cọc tại quỹ thanh toán để có thể đảm bảo khả năng tài chính của bất kỳ quyền chọn nào được phát hành bởi OCC. Chỉ có những công ty thanh toán mới có thể đệ trình những giao dịch đến trung tâm thanh toán cuối cùng OCC. Nhận được chi tiết của giao dịch, trung tâm OCC so sánh với dữ liệu từ cả hai bên giao dịch, và nếu thông tin khớp với nhau thì sau đó giao dịch trở thành chuyển giao. Trung tâm OCC trở thành cả người mua và người bán và bất kỳ liên kết trực tiếp giữa người mua và người bán đều bị huỷ bỏ Thành viên thanh toán bù trừ giải quyết những giao dịch tiền mặt trong những ngày tiếp theo, và quyền chọn được phát hành cùng một ngày. Thủ tục này cũng cho phép người mua hay người bán dễ dàng từ bỏ vị thế của mình vào bất kỳ lúc nào mà không cần phải giao dịch với đối tác. Một người sở hữu quyền chọn chỉ cần viết hợp đồng tương tự cho bất kỳ ai sẳn lòng mua và khi thanh toán giao dịch, số tiền bù trừ sẽ được nhập vào trong tài khoản của khách hàng ở OCC và ngay cả khi giao dịch bị huỷ bỏ.  Thực hiện và chuyển nhượng Tất cả các cổ phiếu niêm yết trên thị trường Mỹ thì thanh toán theo kiểu Mỹ, vì vậy quyền chọn có thể thực hiện bất kì ngày làm việc nào trước khi đến ngày đáo hạn. Chỉ có người sở hữu quyền chọn mới có quyền thực hiện hợp đồng. Theo đó, người bán quyền chọn phải xác định rõ nghĩa vụ trong tất cả những điều khoản hợp đồng. Chính quy định đó yêu cầu giao cổ phiếu trong trường hợp của mua quyền chọn và thanh toán tại mức giá thực hiện đối với bán quyền chọn. Người thực hiện sau đó trở thành bị ép buộc phải trả tiền tại mức giá thực hiện của những quyền chọn mua dài hạn cho lượng cổ phiếu giao, hoặc giao trả cổ phiếu cho quyền chọn bán dài hạn. Nhà đầu tư mong muốn thực hiện quyền chọn thì trước hết phải khai báo với người môi giới ý định của mình. Thành viên thanh toán sau đó sẽ chuyển một lưu ý giá thực hiện đến OCC trong khoảng thời gian từ 10giờ sáng đến 8 giờ tối. Khi trung tâm OCC chấp nhận thông báo thực hiện, quyền chọn chỉ định ngẫu nhiên một hoặc nhiều thành viên thanh toán có cùng vị thế quyền chọn. Thành viên được chỉ định sẽ nhận được thông báo vào ngày làm việc đầu tiên sau khi trung tâm OCC nhận được thông báo thực hiện. thành viên thanh toán ấn định một quyền chọn trong số những quyền chọn ngắn hạn.  Phí hoa hồng và phí giao dịch. Nhân viên môi giới quyền chọn sẽ tính phí hoa hồng cho những dịch vụ như là thực hiện lệnh của khách hàng, quản lý tài khoản của khách hàng, cung cấp báo cáo giao dịch và tư vấn. Khách hàng trả phí hoa hồng khi: o Quyền chọn được mua hay bán để xác minh vị thế của quyền chọn o Quyền chọn được mua hay bán để đóng vị thế hiện tại. o Quyền chọn đáo hạn. Một quyền chọn mua hay bán đáo hạn cần phải trả phí hoa hồng trên cổ phiếu được mua hay bán tại mức giá thực hiện. Tương tư vậy, người bán quyền chọn mua hay quyền chọn bán cần phải trả phí hoa hồng cho cổ phiếu mua hay bán vào mức giá thực hiện. Không cộng thêm phí hoa hồng vào số tiền phải trả nếu quyền chọn được thực hiện. Phí hoa hồng mà nhà đầu tư trả cho người môi giới cho giao dịch quyền chọn là khoảng từ $1 đến $3/hợp đồng, nhưng cũng có thể thương lượng và thay đổi tuỳ người môi giới. Điều này phụ thuộc vào mối quan hệ giữa khách hàng và người môi giới và phụ thuộc và kích cở của giao dịch, tỷ lệ phần trăm chi phí sẽ giảm khi giá trị của hợp đồng tăng. Những nhà đầu tư nhỏ, giao dịch thông qua tài khoản của người môi giới luôn trả phí hoa hồng thấp hơn khi tổng giá trị giao dịch tăng lên nhưng việc bán lẻ thường không thể thương lượng được. Điển hình là, phí trả cho 1 hợp đồng lẻ là $25, $8 cho 10 hợp đồng lẻ, $5 cho 20 hợp đồng lẻ hoặc hơn. Chi phí giao dịch khác là mức chênh lệch giá đặt mua bán. Nhà tạo lập thị trường và những chuyên gia trên sàn giao dịch quyền chọn được yêu cầu mua bán quyền chọn từ chính những nhà đầu tư của họ. Để bù đắp cho rủi ro mà họ nhận được khi thực hiện dịch vụ này, họ mua tại giá thấp hơn mức giá mà họ bán, điều này được gọi là mức chênh lệch giá đặt mua bán. Chênh lệch lớn nhất cho phép được thiết lập bởi sàn giao dịch và phụ thuộc vào giá quyền chọn theo biểu sau: Giá quyền chọn Chênh lệch lớn nhất Nhỏ hơn $0,05 4-Jan Từ $0,05 đến $10 2-Jan Từ $10 đến $20 4-Mar Từ $20 trở lên 1 Thực tế thì khoảng chênh lệch thật sự mà khách hàng trả thường thấp hơn giới hạn đó bởi vì sự cạnh tranh giữa những nhà tạo lập thị trường. Mức chênh lệch thường do cung cầu và việc tăng lên kích cở giao dịch khi nhu cầu thực hiện ngay tăng lên. Thông thường nhu cầu giảm và khoảng chênh lệch tăng lên khi thời gian đáo hạn tăng lên và khi quyền chọn trở nên có lời. Nhà đầu tư dùng quyền chọn như một cổ phiếu thay thế hay để cô đọng danh mục chứng khoán hiện thời để có thể gánh chịu cùng chi phi giao dịch như nhà đầu tư nắm giữ vị thế tương đương.  Ký quỹ Khi những cổ phiếu được mua bảo chứng, người mua phải đặt cọc ít nhất 50% giá trị mua vào tài khoản ký quỹ và vay của người môi giới. Khi cổ phiếu được bán thấp giá, người bán đặt cọc ít nhất 50% giá bán cộng toàn bộ số tiền thu được do bán cổ phiếu vào trong tài khoản. Ký quỹ cho giao dịch cổ phiếu là một khoảng tiền mặt ít hơn 50% giá trị của cổ phiếu cộng với khoản vay. Ký quỹ cho giao dịch quyền chọn bằng tiền mặt hoặc tương đương tiền, người bán quyền chọn phải trả trước cho người môi giới khi lượng ký quỹ đảm bảo rằng họ thực hiện nghĩa vụ cam kết giao cổ phiếu hay tiền mặt nếu quyền chọn được ấn định. Ký quỹ trong thị trường quyền chọn sau đó là một giao kèo thực hiện để bảo vệ các công ty môi giới và thành viên thanh toán chống lại thua lỗ những hợp đồng có giá không thoả mãn. Khoảng ký quỹ thấp nhất do Quỹ dự trữ liên bang Hoa Kỳ quy định và những tổ chức quyền chọn trung gian. Những công ty môi giới là thành viên môi giới của trung tâm OCC thông báo lỗ hoàn toàn nếu khách hàng không trả được nợ vì vậy khách hàng được yêu cầu ký quỹ nhiều hơn mức thấp nhất. Những điều luật quy định cho khoản yêu cầu ký quỹ thường phức tạp và dựa trên cơ sở tổng hợp các rủi ro của một vị thế quyền chọn hay vị thế kết hợp giữa quyền chọn, cổ phiếu và giao sau. Yêu cầu ký quỹ được xác định rõ trong việc sử dụng những mô hình thống kê và được thiết kế đủ lớn để đảm bảo rằng sự sụt giảm trong giá trị của vị thế trong cả 7 ngày kinh doanh vượt qua chỉ 5% lượng ký quỹ của các tác động có thể xảy ra. Yêu cầu ký quỹ thay đổi thường xuyên vì những biến số rủi ro dùng để tính toán cũng thay đổi. Bởi vậy, thật khó khăn để lập một danh sách những điều luật ký quỹ cho tất cả khách hàng và cho mỗi vị thế. Tuy nhiên, cũng phải ký quỹ một mức thấp nhất nào đó cho hầu hết các hợp đồng quyền chọn. 1.6.2 Thị trường Tokyo (TSE) Thị trường chứng khoán Tokyo ra đời 1878 thuộc sự quản lý của Sở chứng khoán Tokyo (Tokyo Stock Exchange). Năm 1943 – 1945 Sở giao dịch chứng khoán đóng cửa do thế chiến thứ II, cho đến năm 1949 luật chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán mới hoạt động trở lại, Tokyo Stock Exchange đứng thứ 2 trên thế giới về doanh số sau NYSE. Trên TSE, việc giao dịch, mua bán chứng khoán được quy định dựa trên các nguyên tắc cơ bản quan trọng nhất là:  Nguyên tắc công khai: công khai về hoạt động của người phát hành; các loại chứng khoán được chào bán, đặt mua, giá cả, số lượng chứng khoán được mua bán...
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan