Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cong cu cua chinh sach tien te...

Tài liệu Cong cu cua chinh sach tien te

.DOC
24
125
138

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ›¯› › BÀI TIỂU LUẬN: CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ SỰ ĐIỀU TIẾT LƯỢNG TIỀN TRONG NỀN KINH TẾ Môn: Tài chính tiền tệ Lớp: TCNH 33F Lớp tín chỉ: 11500481232F Giáo viên hướng dẫn: Naê Đặng Thị Thơi m học: 2012 - 2013 0 DANH SÁCH NHÓM: 1. Bùi Nữ Mai Trang 2. Tô Hồng Thủy 3. Phan Thị Thảo 4. Hồ My Thoa 5. Nguyễn Thị Thảo 6. Đào Thị Xuân Thùy 7. Nguyễn Thị Thu Thảo 8. Nguyễn Nhâm Thân 9. Võ Ngọc Thân 1 MỤC LỤC Lời mở đầu:................................................................................................................. 2 Chương I. Khái quát về chính sách tiền tệ:..............................................................3 1. Khái niệm:................................................................................................................3 2. Các công cụ của chính sách tiền tệ:...........................................................................3 3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ:................................................................................3 Chương II. Các công cụ chính sách tiền tệ quốc gia ở Việt Nam:...........................4 1. Nghiệp vụ thị trường mở:.........................................................................................4 2. Dự trữ bắt buộc:........................................................................................................4 3. Chính sách tái chiết khấu:.........................................................................................5 4. Quản lý hạn mức tín dụng của các Ngân hàng thương mại.......................................6 5. Quản lý lãi suất của các Ngân hàng thương mại ......................................................6 Chương III. Tác động của các công cụ chính sách tiền tệ đến việc điều tiết lượng tiền cung ứng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam...................................................7 1. Thực trạng:................................................................................................................ 7 2. Diễn biến về việc điều hành CSTT:..........................................................................8 3. Những thành công:..................................................................................................13 4. Những hạn chế:.......................................................................................................16 Chương IV: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH CSTT CỦA NHNN VIỆT NAM..........................................................................................19 1. Cung ứng tiền hợp lý:.............................................................................................19 2. Xây dựng hệ thống thanh toán điện tử:...................................................................19 3. Các giải pháp hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách tiền tệ:.....................................20 4. Công tác thanh tra kiểm soát nội bộ với hoạt động thanh tra nhà nước đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động ngân hàng:.........................................................20 Kết luận:................................................................................................................. 22 2 Lời mở đầu Kinh tế thị trường về thực chất là một nền kinh tế tiền tệ. Ở đó, bao giờ chính sách tiền tệ cũng là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của Nhà nước, bên cạnh chính sách tài khoá, chính sách phân phối thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại… Từ những năm 1980 trở lại đây, chính sách tiền tệ trở nên giữ vai trò rõ rệt hơn bởi vì: Thứ nhất, có quan điểm cho rằng chính sách tài khoá dựa trên cơ sở học thuyết lợi thế tương đối của D. Ricardo là không hiệu quả; Thứ hai, chính sách tiền tệ có thể duy trì khoảng cách ổn định và nhỏ nhất giữa mức sản lượng thực tế với mức sản lượng tiềm năng; Thứ ba, ở các nước phát triển, hình thành xu thế tiến tới ổn định và giảm dần khối lượng cho vay của Chính phủ, còn ở các nước đang phát triển thì sự hạn chế các khoản vay nợ nước ngoài đã làm giảm khả năng thực thi chính sách tài khoá chống khủng hoảng; Thứ tư, thời gian trong thực tiễn xây dựng và thực thi chính sách tài khoá trong điều kiện chu kỳ suy thoái kinh tế ngày càng trở nên ngắn hơn, đã làm cho những giải pháp của chính sách tài khoá không thể kịp thời phát huy được tác dụng; Cuối cùng là chính sách tài khoá ngày càng bị chi phối bởi lợi ích của các thế lực chính trị nhiều hơn so với chính sách tiền tệ. Hơn nữa, trong những thời kỳ kinh tế tăng trưởng, người ta vẫn hướng tới chính sách tài khoá thận trọng, ngay cả trong trung hạn, các nền kinh tế đang phát triển vẫn ưu tiên sử dụng hệ thống các công cụ tự điều chỉnh mà không chấp nhận những giải pháp bất thường. Không nằm ngoài xu hướng chung của thế giới, ở Việt Nam trong những năm qua, chính sách tiền tệ được sử dụng như là công cụ chủ yếu để điều chỉnh kinh tế vĩ mô. Điều này có thể thấy rõ trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ của NHNNVN. 3 Chương I. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 1. Khái niệm: Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế. Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng - chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng - chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền) 2. Các công cụ của chính sách tiền tệ: - Nghiệp vụ thị trường mở - Dự trữ bắt buộc - Chính sách tái chiết khấu - Quản lý hạn mức tín dụng của các Ngân hàng thương mại - Quản lý lãi suất của các Ngân hàng thương mại 3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ (CSTT) : - Ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền (chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước) và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng 0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được, để có một tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. - Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. - Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi Chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ. Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà. Mối quan hệ giữa các mục tiêu: Có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. 4 Chương II. CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA Ở VIỆT NAM 1. Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) : - Khái niệm: Nghiệp vụ thị trường mở là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó điều tiết lượng tiền cung ứng. - Cơ chế tác động: Khi NHTW mua (bán) chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi). Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM, nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông. - Đặc điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng động, hiệu quả, chính xác và quan trọng nhất của CSTT vì khối lượng chứng khoán mua (bán) tỷ lệ với quy mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế. Tuy vậy, vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn. - Ưu, nhược điểm: + Ưu điểm: Nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo chủ ý của NHNN nên NHNN kiểm soát được hoàn toàn khối lượng của nghiệp vụ này mà không chịu ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố nào khác. Là công cụ linh hoạt, chính xác, ít tốn kém về chi phí và thời gian. + Nhược điểm: Việc thực hiện công cụ này đòi hỏi sự phát triển của thị trường tài chính thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Ngoài ra ngân hàng phải có khả năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng. 2. Dự trữ bắt buộc: - Khái niệm: Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phải giữ lại, do NHTW qui định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng. - Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ (m) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM. 5 Mặt khác khi tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng). - Đặc điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp NHTW chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM. - Ưu, nhược điểm: + Ưu điểm: Đây là công cụ có quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng. Chỉ cần một thay đổi nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi đáng kể khối lượng tiền cung ứng. + Nhược điểm: Bất lợi chủ yếu của công cụ dự trữ bắt buộc là có thể khiến cho một số ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp rơi vào tình trạng mất "khả năng thanh toán ngay". Đồng thời, việc thay đổi thường xuyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc khiến cho các ngân hàng rơi vào tình trạng bất ổn trong việc quản lý thanh khoản, làm phát sinh tăng chi phí. 3. Chính sách tái chiết khấu: - Khái niệm: Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu (đối với thương phiếu) và hạn mức cho vay tái chiết khấu (cửa sổ chiết khấu). - Cơ chế tác động: Khi NHTW tăng (giảm) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế (khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng). Mặt khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại. Ngoài ra, ở các nước có thị trường chưa phát triển (thương phiếu chưa phổ biến để có thể làm công cụ tái chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện nghiệp vụ này thông qua việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM. - Đặc điểm: Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán, và có thế kiểm soát được hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có thể tác động tới việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể. Tuy vậy, hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó, sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường. 6 4. Quản lý hạn mức tín dụng của các Ngân hàng thương mại - Khái niệm: Quản lý hạn mức tín dụng của các Ngân hàng thương mại là quy định mức dư nợ tối đa mà các tổ chức tín dụng được phép cho vay. - Đặc điểm: Ngân hàng căn cứ vào nhu cầu vay vốn; năng lực tài chính; chu kỳ sản xuất, kinh doanh; vòng luân chuyển vốn vay, dòng tiền, khả năng quản lý sản xuất, kinh doanh; loại và trị giá tài sản bảo đảm tiền vay của Khách hàng và khả năng nguồn vốn của Ngân hàng để xác định nhu cầu vốn và Hạn mức tín dụng cho Khách hàng mà Ngân hàng có thể đáp ứng trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm). - Lãi suất cho vay: Trong Hợp đồng (hạn mức) tín dụng có thể ấn định lãi suất cụ thể hoặc quy định nguyên tắc xác định lãi suất phù hợp với quy định về lãi suất của Ngân hàng. Lãi suất cụ thể được ghi trong Khế ước nhận nợ từng lần phù hợp với thoả thuận của Khách hàng và Ngân hàng trong Hợp đồng (hạn mức) tín dụng. - Nhược điểm: Công cụ này thiếu linh hoạt và có thể làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng. 5. Quản lý lãi suất của các Ngân hàng thương mại - Khái niệm: NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới quy mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình. - Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo. - Đặc điểm: Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ, điều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp. Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế. Mặt khác việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình. Theo Luật Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp rưỡi lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản chỉ được công bố lần đầu vào ngày 30 tháng 5 năm 2000. Trong lần đầu được công bố, lãi suất cơ bản ở mức 7,2%/năm. Vào thời điểm tháng 6 năm 2008, lãi suất cơ bản là 14%/năm. Điều này có nghĩa là các tổ chức tín dụng có thể quyết định mức lãi suất cho vay của mình cao tới 21%/năm. 7 Chương III. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐẾN VIỆC ĐIỀU TIẾT LƯỢNG TIỀN CUNG ỨNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM: 1. Thực trạng: Bối cảnh chung: - Năm 2007, kinh tế Việt Nam phát triển trong điều kiện khó khăn nhiều hơn thuận lợi so với các năm trước. + Về khó khăn: Thị trường thế giới biến động lớn, phức tạp. Giá cả nhiên liệu, vật tư, nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu sợi, vải, vật liệu phục vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao. Thị trường xuất khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện... Điều đó đã làm cho giá cả tiêu dùng trong nước tăng cao liên tục chưa có điểm dừng. Các điểm yếu vốn tồn tại nhiều năm nay như kết cấu hạ tầng yếu kém, nhất là giao thông, thủy lợi, điện đã bộc lộ rõ nét qua thiên tai năm 2007... không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế bền vững với tốc độ cao. + Về thuận lợi: Thành quả nổi bật của những năm qua là duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/năm trong 5 năm 2001 - 2005 và 8,17% năm 2006, thế và lực của Việt Nam đã mạnh lên so với các năm trước. Đó là những tiền đề vật chất rất quan trọng, là yếu tố thuận lợi cơ bản để các ngành, các cấp thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch năm 2007. Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và thực hiện cam kết PNTR (Quy chế quan hệ Bình thường Vĩnh viễn) với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. - Sang đến năm 2008 tình hình kinh tế có nhiều biến động phức tạp. Cụ thể: Từ năm 2007 một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế đã có những biểu hiện xấu và tiếp tục tác động sang năm 2008 như: chỉ số giá trong năm 2007 tăng tới 12,6%; tổng kim ngạch nhập khẩu tăng tới 39% và nhập siêu lên tới 29% tổng kim ngạch xuất khẩu; cân đối tiền tệ, các chỉ số về tổng phương tiện thanh toán, tổng mức huy động vốn và tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế đều tăng rất cao. Các dự báo khi xây dựng kế hoạch năm 2008 biến động khá lớn so với tình hình thực tế (tỷ giá giữa đồng Việt nam với USD; lãi suất tiết kiệm; mức lãi suất cho vay). - Kinh tế thế giới bước sang 2009 với nhiều lo âu và thấp thỏm. Mỹ, đầu tầu kinh tế toàn cầu sau khi “lên dốc” không thành vào quý III năm 2008, đã trượt dốc không phanh. Các kế hoạch cứu trợ khẩn cấp liên tiếp được đưa ra nhưng chưa thể ngăn chặn được sự “bốc hơi” của lượng tài sản tài chính lên tới hơn 30.000 tỉ USD. Toàn thế giới đã chịu “chấn động” của “cơn sóng thần thế kỷ”. Lạm phát, giá hàng hóa, vật tư tăng cao. 8 Mặt bằng lãi suất đã được điều chỉnh giảm dần suốt 6 tháng cuối năm 2008 nhưng trên thị trường tín dụng, ngân hàng và doanh nghiệp vẫn chưa tìm được tiếng nói chung. Do tình trạng suy thoái kinh tế và thất nghiệp còn gia tăng, nhu cầu tiêu dùng trong năm 2009 sẽ giảm mạnh. Ngân hàng Thế giới ước tính mậu dịch thế giới sau khi tăng 6,2% trong năm 2008 sẽ suy giảm còn 2,1% trong năm tới. Từ đó, có thể xác định một năm khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam đang ở phía trước. Mặc dù giá nhập khẩu cũng có xu thế giảm, nhưng muốn bảo đảm nhập siêu ở mức an toàn, cần tiếp tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu và cổ vũ thực hành tiết kiệm trong tiêu dùng và đầu tư. - Trong năm 2009, NHNN đã thành công trong việc kích thích tăng trưởng ở mức 5,3%, trong khi kiềm chế lạm phát ở mức 6,5%. Nền kinh tế đã dần đi vào ổn định. Năm 2010, NHNN sẽ cố gắng đáp ứng cả hai mục tiêu, nhưng mục tiêu tăng trưởng sẽ chiếm ưu thế vì tình hình kinh tế thế giới sẽ biến chuyển thuận lợi hơn, tạo điều kiện cho VN tăng trưởng nhanh hơn so với năm ngoái. Để đạt mức tăng trưởng 6,5% cho 2010 chúng ta phải chấp nhận một mức độ lạm phát cao hơn 7%. Một mức lạm phát 79% có thể chấp nhận được Kinh tế trong nước có xu hướng tăng trưởng cao, thị trường tài chính, tiền tệ và kinh tế vĩ mô về cơ bản là ổn định. Mặc dù vậy, giá cả hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng ở mức khá cao. Chỉ số giá tiêu dùng 2 tháng đầu năm nay tăng 3,35%, hầu hết các nhóm mặt hàng đều tăng. Như vậy, giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng ở mức khá cao trong những tháng đầu năm nay, nhưng so với cùng kỳ các năm gần đây chưa phải là đột biến. Nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu làm cho giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng là do tác động của giá cả hàng hóa thế giới, nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán và việc điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng thiết yếu. 2. Diễn biến về việc điều hành CSTT: a) Giai đoạn 2007: Thực hiện ý kiến chỉ đạo nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2007, NHNN trong thực thi CSTT đã bám sát mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự ổn định tiền tệ, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế - nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít thách thức. Trên cơ sở đó, NHNN đã thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau: + Thực hiện can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế. + Điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện mở cửa thị trường tài chính + Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát. b) Giai đoạn 2008: 9 - 6 tháng đầu năm: Trong 6 tháng đầu năm, áp lực lạm phát gia tăng mang tính toàn cầu, CPI của Việt Nam trong 6 tháng tăng bình quân là 15,03%, mức thâm hụt cán cân thương mại ở mức kỷ lục (hơn 14% GDP). Trước tình hình đó thực hiện các công văn số 75/TTg-KTTH, ngày 15 tháng 1 năm 2008, và 319/TTg-KTTH, ngày 03 tháng 03 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường các biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008 cùng với nghị quyết 10/2008/NQ-CP về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững; NHNN đã thực hiện các giải pháp điều hành CSTT như sau: + Điều hành CSTT theo hướng thắt chặt để kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm đảm bảo mức tăng tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng không vượt quá 30%. + Nâng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và qui định các NH mua tín phiếu NHNN: + Bình ổn thị trường ngoại hối - 6 tháng cuối năm: Chính sách tiền tệ 6 tháng cuối năm 2008 để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, chính sách tiền tệ thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng. Theo ý kiến chỉ đạo của Công văn số 970/TTg-KTTH ban hành ngày 25/6/2008 về việc thực hiện biện pháp kiềm chế lạm phát và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô những tháng cuối năm 2008, NHNN đã thực hiện một loạt các giải pháp sau: + Điều chỉnh lãi suất : Đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14%/năm xuống 13%/năm, 12%/năm, 10%/năm và 8,5%/năm; lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm xuống 14%/năm 13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm; lãi suất chiết khấu từ 13%/năm xuồng 12%/năm và 11%/năm, 9%/năm và 7,5%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng thương mại từ 15%/năm xuống 14%/năm, 13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm. Bảng 1: Lãi suất CB Quyết định Ngày thực hiện 8,5%/năm 3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008 10%/năm 2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008 11%/năm 2808/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008 21/11/2008 12%/năm 2559/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008 05/11/2008 13.0%/năm 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008 14%/năm 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 11/06/2008 - Đã tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc (DTBB) bằng đồng Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng (TCTD) từ 5%/năm lên 10%/năm và giảm 1% tỷ lệ DTBB đối với tiền nội tệ và 2% tỷ lệ DTBB tiền gửi ngoại tệ áp dụng cho các TCTD. Tiếp đến tháng 10 11 giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc xuống 7% và hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống còn mức 5% đối với Việt Nam đồng. Bảng 2: Lãi suất DTBB 8,5%/năm 9%/năm 10%/năm 5,0%/năm 3,5%/năm Quyết định 3162/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 2950/QĐ-NHNN ngày 3/12/2008 2321/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 2133/QĐ-NHNN ngày 25/9/2008 1907/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008 Ngày thực hiện 22/12/2008 05/12/2008 21/10/2008 01/10/2008 01/09/2008 - Ban hành Quyết định 2811 ngày 20/11/2008 theo đó, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam từ 10%/năm xuống còn 8%/năm, rồi từ 8% xuống còn 6% (Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158). + Điều chỉnh tỷ giá: - Ngày 6/11/2008, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 2635/QĐ-NHNN, theo đó,cho phép Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối ấn định tỷ giá mua bán giao ngay giữa VND và USD trong biên độ ±3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tăng ±1% so với mức ±2% đã được áp dụng. Biên độ tỷ giá mới sẽ được áp dụng từ ngày 07/11/2008. Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 09/10/2008, theo đó yêu cầu các TCTD áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong đó chú trọng các biện pháp ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra do tác động của khủng hoảng tài chính và dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu, chấp hành đúng quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh; đáp ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế trên cơ sở khả năng huy động vốn trong và ngoài nước, đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn… 11 c) Giai đoạn 2009-nay: *Trong năm 2009: Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. NHNN đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường. + Dự trữ bắt buộc: Từ 1/3/2009, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND của các tổ chức tín dụng, đồng thời tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản VND. Cụ thể, lãi suất cơ bản được giữ nguyên ở mức 7%/năm và lãi suất cho vay tối đa là 10,5%/năm. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng được điều chỉnh đối với mọi loại hình tổ chức tín dụng Ngày 3/4/2009, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 790/QĐ-NHNN về lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với TCTD và lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước tại NHNN. Theo quyết định này, kể từ ngày 3/4/2009, NHNN áp dụng mức lãi suất đối với tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ gửi tại NHNN của các TCTD là 0,1%/năm, áp dụng kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 4/2009. Tiền gửi bằng ngoại tệ của Kho bạc Nhà nước tại NHNN cũng được áp dụng mức lãi suất 0,1%/năm. + Hỗ trợ tín dụng: Ngày 29/9, Thống đốc NHNN ban hành Thông tư số 20/2010/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện các biện pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ để hỗ trợ tổ chức tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn. + Lãi suất: Lãi suất tái cấp vốn: Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng 8,0%/năm 2664/QĐ-NHNN 25/11/2009 01/12/2009 7,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009 7,0%/năm 837/QĐ-NHNN 10/04/2009 10/04/2009 7,0%/năm 173/QĐ-NHNN 23/01/2009 01/02/2009 Ngày 23/01/2009 Thống đốc NHNNVN ra Quyết định số 173/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNNVN đối với các ngân hàng. Ngày 10/04/2009 Phó Thống đốc Trần Minh Tuấn ký ban hành Quyết định số 837/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNNVN đối với các Ngân hàng. Theo quy định các mức lãi suất của NHNNVN như sau: 1. Lãi suất tái cấp vốn: 7,0%/năm. 2. Lãi suất tái chiết khấu: 5,0%/năm. 12 3. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNNVN đối với các ngân hàng: 7,0%/năm. - Ngày 25/11/2009, Thống đốc NHNNVN đã ban hành các Quyết định điều chỉnh mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và tỷ giá. Quy định các mức lãi suất của NHNNVN như sau: 1. Lãi suất tái cấp vốn: 8,0%/năm 2. Lãi suất tái chiết khấu: 6,0%/năm. 3. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNNVN đối với các ngân hàng: 8,0%/năm. Lãi suất cơ bản: Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng 8,0%/năm 2665/QĐ-NHNN 25/11/2009 01/12/2009 7,0%/năm 2459/QĐ-NHNN 28/10/2009 01/11/2009 7,0%/năm 2232/QĐ-NHNN 01/10/2009 7,0%/năm 2024/QĐ-NHNN 26/08/2009 01/09/2009 7,0%/năm 1811/QĐ-NHNN 30/07/2009 01/08/2009 7,0%/năm 1539/QĐ-NHNN 30/06/2009 01/07/2009 7,0%/năm 1250/QĐ-NHNN 22/05/2009 01/06/2009 7,0%/năm 1015/QĐ-NHNN 29/04/2009 01/05/2009 7,0%/năm 626/QĐ-NHNN 24/03/2009 01/04/2009 7,0%/năm 378/QĐ-NHNN 24/02/2009 01/03/2009 7,0%/năm 172/QĐ-NHNN 23/01/2009 01/02/2009 - Trước khi nghỉ Tết 2009, NHNN đưa lãi suất cơ bản của VND từ mức 8,5% xuống còn 7% một năm. Mức cắt giảm 1,5% cũng được áp dụng với các loại lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. Theo đó, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9,5%/năm xuống 8%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm từ 7,5%/năm xuống 6%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNNVN đối với các ngân hàng giảm từ 9,5%/năm xuống 8%/năm. Với phần dự trữ bắt buộc bằng tiền đồng mà các ngân hàng thương mại gửi ở NHNN, lãi suất giảm mạnh hơn, từ 8,5% xuống còn 3,6% một năm. + Trên thị trường ngoại hối: - 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng. Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như: - Mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu 13 nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng. - Áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người dân; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009). - Đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 8/6/2009. - Ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980 đồng/USD, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá. - Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất. Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%. * 6 tháng đầu năm 2010: + Điều hành lượng tiền cung ứng thông qua điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn để đảm bảo an toàn thanh toán của hệ thống ngân hàng và hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế: + Điều hành linh hoạt công cụ lãi suất phù hợp với quy định của pháp luật, mục tiêu kinh tế vĩ mô và điều kiện của thị trường, kết hợp với các công cụ khác nhằm điều tiết lãi suất thị trường ở mức hợp lý, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng huy động vốn và cho vay đối với nền kinh tế: + Điều chỉnh tỷ giá, thực hiện các biện pháp chống găm giữ và đầu cơ, can thiệp bán ngoại tệ cho các nhu cầu nhập khẩu mặt hàng thiết yếu nhằm từng bước tạo sự chuyển biến tích cực của thị trường ngoại tệ + Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn thị trường vàng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ + Chỉ đạo các TCTD trong các hoạt động tín dụng, hỗ trợ lãi suất và kinh doanh ngoại hối 3. Những thành công: * Giai đoạn 2007: Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Điều này thể hiện ở những kết quả sau: - Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính quốc tế. 14 + Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. + Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND. - Diễn biến tổng phương tiện thanh mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi theo chiều hướng tích cực. + Tỷ lệ tiền mặt trên TPTTT giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống mức 17,8% năm 2007. + Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế. - Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế: + Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội. + Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi, giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững. + Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm. * Giai đoạn 2008: - Thành công bước đầu trong kiềm chế lạm phát: Trong hai tháng 3 và 4 chúng ta đã hạn chế được phần nào sự gia tăng của CPI so với mức 3,56% của tháng 2. Cụ thể, tháng 3 CPI đã giảm xuống còn 2,99%, đến tháng 4 tiếp tục giảm xuống còn 2,2%. Thế nhưng, như đã biết, đến tháng 5 thì CPI lại tiếp tục tăng vọt lên 3,91 % so với tháng 4, khiến cho CPI của cả 5 tháng đầu năm đã tăng đến mức 15,96% so với cuối năm 2007. Thế nhưng đến tháng 6 vừa qua, do những nỗ lực phấn đấu kiềm chế lạm phát, CPI đã giảm mạnh, chỉ còn khoảng 2,14%, thấp hơn nhiều so với chỉ số của tháng 5 là 3,91% và là con số thấp nhất từ đầu năm đến nay. 15 - Tăng niềm tin về sự đúng đắn trong chính sách tiền tệ: Mức lãi suất huy động tiền VND phổ biến từ 17-17,5%/năm (khối các ngân hàng thương mại nhà nước) và 17,5-18%/năm (khối các ngân hàng thương mại cổ phần). Và hầu hết các ngân hàng thương mại đã điều chỉnh lãi suất cho vay về sát mức tối đa 21%/năm và đã ngừng thu tất cả mọi loại phí. - Có sự cải thiện dần các chỉ số lạm phát và thâm hụt thương mại, và do đó mối lo về cuộc khủng hoảng tiền tệ đã dịu đi. Từ tháng 6, 7/2008 trở lại đây, tốc độ tăng CPI trên thị trường trong nước đã chững lại khá rõ rệt dù chưa thật vững chắc. Chỉ số CPI cả nước trong tháng 8/2008 còn 1,56%. Thanh toán quốc tế vẫn được duy trì ổn định, sự căng thẳng thâm hụt trong cán cân thanh toán trong tháng 4 và 5/2008 đang dần được cải thiện, nguy cơ về một sự suy giảm mạnh thị trường tiền tệ đã dịu đi, tuy rằng áp lực do tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, trong khi lãi suất huy động và cho vay không thể giảm sâu nhanh được. Thị trường nội tệ và ngoại tệ đã có sự ổn định trở lại sau cú sốc tỷ giá và thiếu tính thanh khoản trên thị trường trong quý II/2008... - Điều hành linh hoạt công cụ chính sách tiền tệ: NHNN đã áp dụng nhiều công cụ chính sách tiền tệ để chặn lạm phát bao gồm: Tăng tỷ lệ bắt buộc; phát hành tín phiếu; tăng lãi suất; nới lỏng biên độ tỷ giá để VNĐ tăng giá so với USD... Các công cụ này triển khai nhằm hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế và thị trường, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Đồng thời, NHNN đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các tổ chức tín dụng. Sau khi áp dụng chính sách thắt chặt, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ, mũi tên mang nhiều mục đích này nhằm kịp thời điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nâng lãi suất trả cho tiền gửi dự trữ bắt buộc để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho vay. - Cơ bản hoàn thành nhiệm vụ được giao, bảo đảm an toàn cho nền kinh tế. Qua một năm đầy sóng gió nhưng hoạt động của hệ thống Ngân hàng đã góp phần quan trọng kiềm chế lạm phát, hạn chế nhập siêu, duy trì tăng trưởng kinh tế. Thị trường tiền tệ giữ được bình ổn. Lãi suất, tỷ giá biến động ở mức hợp lý. Khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng được đảm bảo. Tin dụng tăng trưởng ở mức phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế. Hoạt động của các tổ chức tín dụng vẫn đảm bảo an toàn và có bước phát triển. * Giai đoạn 2009-nay: Đóng góp lớn nhất của chính sách tiền tệ vào sự ổn định và phát triển của đất nước là tiếp tục giữ ổn định thị trường tiền tệ, giảm các chi phí vốn cho doanh nghiệp và cung ứng kịp thời các nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển của đất nước trong phạm vi an toàn tín dụng cho phép; từng bước khắc phục khó khăn do ảnh 16 hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới; củng cố niềm tin của nhà đầu tư và của nhân dân đối với hệ thống ngân hàng và các giải pháp kích cầu của Chính phủ. Bên cạnh đó, các công cụ chính sách tiền tệ ngày càng đa dạng, đồng bộ được NHNN điều hành ngày càng linh hoạt, phù hợp cơ chế và bám sát các tín hiệu thị trường cũng như xu thế vận động chung của chính sách tiền tệ thế giới. NHNN điều hành chính sách tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và hộ sản xuất tiếp cận vốn vay với lãi suất thấp (4%-6,5%/năm sau khi được hỗ trợ lãi suất) để sản xuất-kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế suy giảm.Việc tăng vốn cho mở rộng đầu tư phát triển sản xuất-kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu là rất cần thiết nhưng đây cũng là nhân tố tác động làm cho tăng trưởng tín dụng ở mức cao (9 tháng qua là 29,3%). Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các TCTD ở thời điểm này sẽ giúp các TCTD tăng khả năng huy động vốn và thanh toán cũng như giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất có thêm nguồn cung từ nguồn vốn vay ngân hàng nhằm thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh phát triển. - Cho đến nay, một vài bất cập trong cơ chế huy động vốn đã được cơ quan quản lý điều chỉnh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có thêm nguồn vốn cho vay, giảm áp lực phải tăng huy động vốn của các ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại có cơ sở để giảm lãi suất huy động và cho vay. Để tiếp tục hỗ trợ các ngân hàng thương mại giảm mặt bằng lãi suất, từ nay đến cuối năm, NHNN sẽ tiếp tục chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ: mở rộng hoạt động của thị trường mở, bổ sung thêm kỳ hạn giao dịch, giảm nhẹ lãi suất giao dịch thị trường mở; lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu tiếp tục ổn định ở mức thấp. 4. Những hạn chế: * Giai đoạn 2007: Thách thức lớn nhất mà điều hành CSTT năm 2007 phải đối mặt, đó là dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều. Tình hình này đã có tác động làm tăng tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế (tăng M2); làm tăng cung ngoại tệ, gây sức ép làm VND lên giá; dự trữ vượt của hệ thống ngân hàng tăng mạnh - là một nhân tố thúc đẩy tín dụng tăng nhanh; dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển mạnh hơn, và một lượng vốn nhất định cuả dân cư cũng như từ hệ thống ngân hàng được đầu tư trên thị trường chứng khoán, qua đó đã làm tăng dư nợ cho vay nền kinh tế; cùng với việc gia tăng mạnh dòng vốn đầu tư nước ngoài là sự tăng giá khó lường mang tính toàn cầu của một một số mặt hàng, như giá dầu thô, giá lương thực, bên cạnh đó là hạn hán lũ lụt, dịch bệnh gia cầm trong nước đã có tác động mạnh đến mức mức giá tiêu dùng nói chung. Trong bối cảnh trên, CSTT phải cùng một lúc đạt hai mục tiêu là vừa phải hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%, vừa phải kiềm chế lạm phát dưới mức tăng trưởng là cực kỳ khó khăn. Giải pháp ổn định lãi suất và tỷ giá danh nghĩa hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ không để xảy ra sự dịch chuyển dòng vốn, nhưng lại rất khó khăn để 17 kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế và kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, NHNN đã gặp khó khăn trong việc kiểm soát tổng phương tiện thanh toán (TPTTT), tín dụng. Bên cạnh đó, việc Việt Nam gia nhập WTO tạo cơ hội thuận lợi cho hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển, qui mô các NHTM được mở rộng, các doanh nghiệp cũng có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh đã gây sức ép mở rộng tín dụng tăng quá nhanh của các NHTM, gây tiềm ẩn rủi ro. * Giai đoạn 2008: - Thị trường tiền tệ còn diễn biến phức tạp, thị trường chứng khoán chưa ổn định; giá cả tiếp tục tăng ở mức cao. - Bên cạnh kết quả đạt được, điểm hạn chế của chính sách tiền tệ trong năm 2008 là ở thị trường ngoại hối. Theo hệ thống tỷ giá hối đoái ít biến động hiện nay, nhiều lúc khoảng cách giữ tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái trên thị trường phi chính thức đã dao động và bị nới rộng ra. - Giới hạn về chủng loại và khối lượng các giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường tiền tệ, thiếu hệ thống môi giới minh bạch, thiếu luật điều chỉnh, trong khi sự thống trị của đồng tiền quốc gia bị giới hạn vì đồng USD chiếm phần lớn trong lưu lượng tiền tệ trên thị trường... là những căng thẳng mà NHNN đang gặp phải trong việc điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả. - Thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản sụt giảm thị trường chứng khoán Việt Nam có kết quả tồi tệ nhất tại châu Á. Chỉ số VN-Index tính tới giữa tháng 12 đã giảm gần 68% so với đầu năm Tóm lại: Cuối năm 2008, kinh tế thế giới vẫn trên đà suy thoái gây ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Đó cũng chính là thách thức cho chính sách tiền tệ năm 2009. * Giai đoạn 2009: Cơ chế hỗ trợ lãi suất có một số quy định chưa phù hợp với thực tế và trong những tháng cuối năm 2009, một số biểu hiện mặt chưa tích cực của hỗ trợ lãi suất đã bộc lộ. Cụ thể như cơ chế cho vay hỗ trợ lãi suất đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn kết quả đạt thấp là do có sự trùng lắp về đối tượng hỗ trợ lãi suất, thủ tục cho vay chặt chẽ và việc xử lý các vướng mắc của các bộ, ngành còn chậm. Bên cạnh đó, việc triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất trong ngắn hạn, trên phạm vi cả nước, đối tượng thụ hưởng rộng, gây khó khăn cho công tác thanh tra, giám sát của các bộ, ngành. Không những thế, việc làm này cũng phát sinh khối lượng lớn công việc và chi phí đối với ngân hàng thương mại. Lãi suất cho vay hỗ trợ lãi suất ở mức tương đương lãi suất cho vay bằng USD và thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn hiện nay đã tác động làm tăng trưởng tín dụng ở mức cao, gây sức ép tăng lãi suất và tỷ giá, có thể phát sinh các hiện tượng lợi dụng cơ chế để trục lợi. Mặt khác, đối tượng thụ hưởng là doanh nghiệp, hộ sản xuất thuộc nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, nếu kéo dài sẽ phát sinh tâm lý ỷ lại, giá cả và lợi nhuận sản phẩm 18 không phản ánh đúng năng suất, hiệu quả của hoạt động sản xuất-kinh doanh và sẽ ảnh hưởng lớn đến tính cạnh tranh và phát triển bền vững. Mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát là hai mục tiêu phải được thực hiện song hành về lâu dài. Tuy nhiên, trong ngắn hạn và đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế còn bị đe doạ bởi những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính, hai mục tiêu này có khả năng xung đột nhau vì kích thích tăng trưởng là phải tăng cung tiền và dễ đưa đến tỉ lệ lạm phát cao. Và ngược lại, để kiềm chế lạm phát, cung tiền phải được kiểm soát chặt chẽ đưa đến sự suy giảm mức tăng trưởng kinh tế. Hiện nay thanh khoản của hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế, lãi suất có vấn đề trong khi các biện pháp chưa đạt hiệu quả cao. Do hệ thống NHTM nước ta chưa đồng đều, chỉ có vài ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán, có chênh lệch lớn về quy mô, có ngân hàng tổng tài sản gần 500.000 tỷ đồng, một số ngân hàng quy mô nhỏ, tổng tài sản chỉ vài ngàn tỷ đồng, nhưng chịu sự chi phối và điều chỉnh chung bởi một hệ thống văn bản pháp luật. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan