Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng mô hình bộ luật xử lý vi phạm chính ở việt n...

Tài liệu Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng mô hình bộ luật xử lý vi phạm chính ở việt nam

.PDF
413
264
96

Mô tả:

BỘ TƯ PHÁP UNE MAY, VAO DAY COI CO CON NHO NAY VIỆN KHOA HỌC PHÁP LÝ NGON LAM HTTP://WWW.FREEWEBTOWN.COM/G AIGOISAIGON/ E MAY, VAO DAY COI CO CON NHO NAY NGON LAM HTTP://WWW.FREEWEBTOWN.COM/G BÁOAIGOISAIGON/ CÁO PHÚC TRÌNH Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG MÔ HÌNH BỘ LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM" BAN CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI - Thạc sĩ Đặng Thanh Sơn- Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự- Hành chính, Bộ Tư pháp - Chủ nhiệm Đề tài. - Thạc sĩ Đỗ Hoàng Yến- Phó Vụ trưởng Vụ Phổ biến Giáo dục Pháp luật, Bộ Tư pháp. DANH SÁCH THAM GIA THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 7537 22/10/2009 Hà Nội, tháng 5 năm 2008 DANH SÁCH THAM GIA ĐỀ TÀI DANH SÁCH THAM GIA THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cn. Nguyễn Quốc Việt- Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự-Hành chính, Bộ Tư pháp. 2. ThS. Đặng Thanh Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự-Hành chính, Bộ Tư pháp. 3. PGS.TS Bùi Xuân Đức, Trưởng phòng nghiên cứu lý luận về Nhà nước và Quản lý hành chính, Viện Nhà nước Pháp luật, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. 4. TS. Hoàng Văn Tú, Phó Vụ trưởng Vụ Công tác Lập pháp, Văn phòng Quốc hội. 5. Cn. Trương Khánh Hoàn, Chuyên viên chính, Vụ Pháp luật Hình sựHành chính, Bộ Tư pháp. 6. TS. Trần Minh Hương, Chủ nhiệm Khoa Luật Hành chính, Trường Đại học Luật Hà Nội. 7. ThS. Đặng Đình Luyến, Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Quốc hội. 8. TS. Phạm Tuấn Khải, Phó Trưởng ban Ban Xây dựng Pháp luật, Văn phòng Chính phủ. 9. ThS. Đỗ Hoàng Yến, Phó Vụ trưởng Vụ Phổ biến Giáo dục Pháp luật, Bộ Tư pháp. 10. Cn. Đoàn Minh Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Kiểm lâm Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 11. TS. Đặng Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Công an. 12. TS. Đặng Văn Khanh, Giám đốc Sở Tư pháp thành phố Hà Nội. 13. ThS. Hoàng Minh Sơn, Chuyên viên chính Cục Bảo vệ Môi trưởng, Bộ Tài nguyên và Môi trường. 14. Cn. Nguyễn Văn Hoàn, Chuyên viên chính Vụ Pháp luật Hình sựHành chính, Bộ Tư pháp. 15. Cn. Đào Thị Thu An, Chuyên viên Vụ Pháp luật Hình sự-Hành chính, Bộ Tư pháp. 16. Cn. Nguyễn Thị The, Đại tá, Trưởng phòng Pháp luật Hành chính Vụ Pháp chế, Bộ Công an. 2 MỤC LỤC BÁO CÁO PHÚC TRÌNH CƠ CẤU TIÊU ĐỀ TRANG Danh sách tham gia đề tài 02 Bảng từ viết tắt 03 Phần thứ nhất Một số vấn đề chung, trực tiếp liên quan đến đề tài 06 I. Tính cấp thiết của đề tài 06 II. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu của đề tài 08 III. Phương pháp nghiên cứu đề tài 11 IV. Quá trình nghiên cứu đề tài 12 V. Đóng góp của đề tài 15 Một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn liên quan đến việc nghiên cứu mô hình BLXLVPHC 16 I. Một số vấn đề về lý luận 16 II. Cơ sở thực tiễn xây dựng mô hình BLXLVPHC ở Việt Nam 31 Phần thứ ba Một số định hướng cơ bản xây dựng mô hình BLXLVPHC ở Việt nam 53 I. Sự cần thiết xây dựng BLXLVPHC ở Việt Nam 53 II. Các yếu tố cơ bản cấu thành mô hình BLXLVPHC ở Việt Nam 57 III. Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng cơ cấu, bố cục của BLXLVPHC và định hướng những nội dung cơ bản của BLXLVPHC 60 1. Về phạm vi điều chỉnh của Dự án BLXLVPHC 61 Phương án I. Xây dựng Dự án BLXPVPHC (chỉ quy định về xử phạt VPHC) 61 Phương án II. Xây dựng Dự án BLXLVPHC (quy định XPVPHC và các biện pháp xử lý hành chính khác) 65 2. Về đối tượng áp dụng của BLXLVPHC hay BLXPVPHC 66 3. Về cơ cấu, bố cục của BLXLVPHC hay BLXPVPHC 70 Phần thứ hai 3 4 Mối quan hệ giữa BLXLVPHC với các đạo luật chuyên ngành khác 74 Kết luận và khuyến nghị 79 I. Kết luận 79 II. Một số khuyến nghị của Đề tài 81 Phần thứ tư 4 Bảng từ viết tắt: 1. VPHC: Vi phạm hành chính 2. XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính 3. XPVPHC: Xử phạt vi phạm hành chính 4. PLXLVPHC: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 5. BLXLVPHC: Bộ luật xử lý vi phạm hành chính 6. BLXPVPHC: Bộ luật xử phạt vi phạm hành chính 7. VNDCCH: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 8. VBQPPL: Văn bản quy phạm pháp luật 9. XHCN: Xã hội chủ nghĩa 5 PHẦN THỨ NHẤT MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG, TRỰC TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1. Trong những năm qua Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang tích cực tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam thực hiện đổi mới và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đời sống xã hội, Việt Nam thực hiện từng bước cải cách, dân chủ hoá đời sống xã hội, thực hiện chính sách công bằng xã hội1. Để đáp ứng yêu quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì việc khẩn trương xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam phù hợp và đáp ứng yêu cầu của tiến trình cải cách nói trên đang đặt ra hết sức cấp thiết. Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính là một bộ phận cấu thành của Luật Hành chính Việt Nam, có vai trò và ý nghĩa to lớn trong việc đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính - một loại vi phạm pháp luật đang diễn ra tương đối phổ biến và phức tạp hiện nay. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật XLVPHC theo hướng toàn diện, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm thống nhất, đồng bộ với các hệ thống pháp luật khác trong tổng thể hệ thống pháp luật của Việt nam nói chung chính là một trong những yêu cầu của thực tiễn phát triển pháp luật hiện nay ở Việt Nam, đồng thời cũng là yêu cầu đặt ra của “ Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 ” theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 1 “ ...Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001-2005) tăng bình quân 7,51%/năm...thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên trên 10 triệu đồng năm 2005, tăng 12,1%/năm và chỉ số phát triển con người FDI được nâng lên(năm 2003 xếp thứ 108/177 nước với chỉ số 0,704 theo báo cáo Phát triển con người của Liên Hợp quốc năm 2005)... cải cách hành chính có bước tiến mới, hiệu lực, hiệu quả được tăng cường một bước; dân chủ trong xã hội tiếp tục được phát huy; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững...” - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng CSVN- NXB Chính trị Quốc gia, trang 142-160. 6 2. Một trong những yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam là bảo đảm tính tương thích, từng bước hội nhập với luật pháp quốc tế, tạo những thuận lợi cơ bản, giảm thiểu những rào cản về pháp lý trong quá trình Việt Nam tham gia và trở thành quốc gia thành viên của các tổ chức quốc tế chủ yếu và quan trọng trong cộng đồng quốc tế. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật XLVPHC cũng vậy. Yêu cầu bảo đảm tính tương thích và đáp ứng yêu cầu hội nhập cũng cần phải đặt ra như là một trong những điều kiện tiên quyết đối với việc phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật XLVPHC. 3. Thực trạng của pháp luật XLVPHC hiện hành, bên cạnh những ưu điểm về vai trò to lớn trong đấu tranh ngăn chặn tình trạng VPHC đang diễn ra phổ biến hiện nay thì hệ thống pháp luật này đã và đang bộc lộ nhiều tồn tại, bất cập mà chủ yếu là tình trạng chồng chéo, trùng lắp, mâu thuẫn giữa các quy định trong hệ thống pháp luật về XLVPHC hiện hành; tình trạng lạc hậu, thiếu tính khả thi của nhiều quy định về XLVPHC, tình trạng trống vắng nhiều quy định về một số vấn đề lớn trong XLVPHC...tất cả đang tạo nên những thách thức về tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về XLVPHC trong việc đấu tranh phòng, chống các vi phạm pháp luật trong đời sống xã hội.2 Bên cạnh đó, thực trạng này cũng đang tạo ra sự không đồng bộ, mất cân đối trong sự phát triển của cả hệ thống pháp luật tổng thể của Việt Nam nói chung. Đó cũng là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng sự mâu thuẫn, chồng chéo của cả hệ thống pháp luật, điển hình là quy định trong một số văn bản luật ban hành gần đây3. Yêu cầu về nâng cấp và pháp điển hoá hệ thống pháp luật XLVPHC hiện hành đã trở thành yêu cầu có tính bức xúc nhằm trực tiếp phục vụ cho việc khẩn trương xây dựng một Bộ luật (hay luật) về XLVPHC để đáp ứng cơ 2 Xem thêm“ Báo cáo tổng kết tình tình thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính” số 3225/BTP/PLHSHC ngày 01/11/2005 của Ban soạn thảo Dự án Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính và “Báo cáo tổng kết tình tình thực hiện Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh” số 31/BTP/PLHSHC ngày 15/4/2007 của Ban soạn thảo Dự án Pháp l ệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. 3 Điển hình là Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11ngày 3/12/2004; Luật Sở hữu trí tuệ số 50/ 2005/QH11 ngày 29/11/2005; Luật người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ngày 29/11/ 2006 (có hiệu lực từ 1/7/2007) , Luật Quản lý thuế ngày 29/11/ 2006 (có hiệu lực từ 1/7/2007)... các luật này đều có quy định về xử phạt vi phạm hành chính không thống nhất, đồng bộ với quy định của PL XLVPHC 2002. 7 bản thực tế phòng, ngừa và đấu tranh với các VPHC và cải thiện tình trạng thiếu đồng bộ của tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. 4. Thực tế qua nghiên cứu hệ thống pháp luật của đại đa số các nước khu vực Châu Á và trên thế giới hiện nay cho thấy tuyệt đại đa số các nước đều áp dụng nguyên tắc tư pháp hoá việc xử lý đối với các vi phạm pháp luật mà pháp luật Việt Nam coi đó là vi phạm hành chính. Điều đó có nghĩa, việc xem xét, phán quyết, xử lý đối với cá nhân, tổ chức vi phạm được thực hiện qua việc xét xử của cơ quan toà án. Xuất phát từ quan điểm cho rằng việc áp dụng các chế tài xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính đều trực tiếp liên quan đến quyền cơ bản của công dân, đến lợi ích hợp pháp của đối tượng vi phạm nên cần có sự xem xét công bằng và khách quan của cơ quan tư pháp mà không phải do cơ quan hành chính thực hiện. Luật pháp nhiều quốc gia còn quan niệm các hành vi VPHC (theo quy định của pháp luật Việt Nam) đối với họ là những tội phạm hình sự nhỏ và việc xét xử được cơ quan toà án tiến hành theo thủ tục rút gọn, hết sức nhanh chóng và hiệu quả4. Đây là một thực tế pháp luật đặt ra có tính bức thiết cho việc nghiên cứu để phát triển và hoàn thiện pháp luật XLVPHC ở Việt Nam theo hướng hội nhập. Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc tiến hành triển khai nghiên cứu Đề tài “ Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng mô hình Bộ luật xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam” với quy mô một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ là có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc nhằm đáp ứng và thiết thực phục vụ yêu cầu thực tế của hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật bởi vấn đề mà Đề tài đặt ra nghiên cứu cũng là một trong nhưng dự án luật mà Nghị quyết của Quốc hội khoá XI đã chính thức đưa vào Chương trình xây dựng pháp luật các năm 2005, 2006, 2007 và 2008. II. MỤC TIÊU, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu của Đề tài Xuất phát từ hoạt động thực tiễn xây dựng và thực thi pháp luật XLVPHC, việc nghiên cứu Đề tài nhằm hướng đến phân tích toàn diện thực trạng pháp luật XLVPHC ở Việt Nam, xác định rõ những nguyên 4 Ví dụ, thực tế hiện nay ở Singapore, một buổi tối cơ quan Toà án có thể xét xử từ 150-170 vụ án hình sự nhỏ mà theo quy định của pháp luật Việt Nam thì đó là những vụ vi phạm hành chính. (Tư liệu khảo sát về xử phạt vi phạm hành chính do Thanh tra Bộ Kế hoạch Đầu tư tổ chức năm 2006). 8 nhân làm nảy sinh những khó khăn, bất cập trong các hoạt động xây dựng và thực thi luật pháp XLVPHC với mục tiêu cải cách một bước cơ bản hệ thống pháp luật XLVPHC trên cơ sở những giải pháp hữu hiệu được đề xuất để khắc phục những khó khăn bất cập nói trên, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính hiện nay ở nước ta, góp phần tiếp tục hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam. Việc nghiên cứu Đề tài nhằm đề xuất mô hình Bộ luật XLVPHC trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn xây dựng, thi hành PLXLVPHC trong mấy chục năm qua và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật một số nước trên thế giới, từ đó đề xuất nhằm tạo dựng một mô hình Bộ luật XLVPHC dựa trên kết quả của hoạt động pháp điển hoá hệ thống pháp luật XLVPHC hiện hành, đồng thời bổ sung nhiều nội dung mới có tính chất quan trọng, thiết yếu liên quan trực tiếp cả đến nội dung và thủ tục XLVPHC. Bộ luật XLVPHC sẽ là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất quy định về XLVPHC, là cơ sở pháp lý cơ bản, toàn diện và đầy đủ để tiến hành hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật XLVPHC một cách thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật XLVPHC và trong tổng thể hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Việc nghiên cứu Đề tài này còn nhằm hướng đến làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn đối với một số vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động XLVPHC, đó là tính chất và phạm vi của XLVPHC đến đâu; nội dung cải cách và định hướng phát triển của pháp luật XLVPHC trong tương lai sẽ như thế nào để bảo đảm đáp ứng yêu cầu đấu tranh hữu hiệu đối với loại vi phạm pháp luật này, đồng thời bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong mối liên hệ hữu cơ với phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của các chế định pháp luật khác, nhất là các quy định pháp luật quy định về các loại trách nhiệm pháp lý khác (hình sự, dân sự, kỷ luật…); lộ trình cải cách và hoàn thiện pháp luật XLVPHC ở Việt Nam sẽ như thế nào để bảo đảm đáp ứng yêu cầu khách quan của tiến trình phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, tính khoa học, tính khả thi của pháp luật XLVPHC qua từng giai đoạn. Tóm lại, có thể nói rằng, thông qua việc đánh giá thực tiễn tình hình thi hành pháp luật về XLVPHC những năm qua, những khó khăn, tồn tại trong thực tế thi hành pháp luật về XLVPHC; yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật; kinh nghiệm và mô hình pháp luật về XLVPHC của nước ngoài, Đề tài hướng đến mục tiêu cụ thể là 9 nhằm làm rõ một số vấn đề về nội dung mô hình Bộ luật XLVPHC và những vấn đề trực tiếp liên quan đến mô hình Bộ luật nhằm phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây dựng Bộ luật XLVPHC (hay Luật) đã được đưa vào Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội. 2. Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở xác định rõ mục tiêu nghiên cứu của Đề tài phù hợp với các căn cứ về lý luận và thực tiễn nêu trên, việc xác định phạm vi nghiên cứu của Đề tài cần được thực hiện nhằm bảo đảm đạt được mục tiêu đã đặt ra. Như tên của Đề tài đã thể hiện rõ nội hàm của Đề tài nghiên cứu: đó là việc nghiên cứu đề tài nhằm xác định mô hình Bộ luật XLVPHC dựa trên những căn cứ có tính chất khoa học và thực tiễn. Vậy thì phạm vi của Đề tài là phải tập trung nghiên cứu, phân tích, xử lý các nguồn thông tin, tư liệu, số liệu qua thực tiễn thi hành pháp luật, tổng kết kinh nghiệm trong và ngoài nước, phải vận dụng các quan điểm, luận cứ có tính khoa học… để xác định mô hình Bộ luật XLVPHC cần phải xây dựng sẽ như thế nào trên cơ sở các căn cứ có tính thực tiễn và tính lý luận bảo đảm tính logic, toàn diện, chính xác và có tính thuyết phục cao. Xuất phát từ cách đặt vấn đề như vậy, phạm vi nghiên cứu của Đề tài được xác định tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau đây: - Một số vấn đề có tính chất lý luận trực tiếp liên quan đến việc xác định mô hình Bộ luật XLVPHC như: một số khái niệm cơ bản về XLVPHC; cơ sở pháp lý xác định cơ cấu, bố cục bắt buộc của bộ luật (luật); kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về pháp luật XLVPHC, về xử phạt VPHC… - Một số vấn đề thực tiễn trực tiếp liên quan đến xây dựng mô hình BLXLVPHC, chẳng hạn như: sơ lược quá trình phát triển của pháp luật XLVPHC và sự cần thiết phải tiến hành pháp điển hoá để xây dựng Bộ luật (Luật) về XLVPHC; những đặc điểm cơ bản của hệ thống pháp luật XLVPHC hiện hành và những tồn tại, bất cập nảy sinh cần khẩn trương khắc phục để bảo đảm hiệu lực hiệu quả của XLVPHC, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội, yâu cầu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. - Những yếu tố cơ bản cấu thành mô hình BLXLVPHC, một số định hướng cơ bản cho việc xây dựng BLXLVPHC và những khuyến nghị nhằm 10 tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật XLVPHC trong bối cảnh hiện nay. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân. Những cơ sở lý luận này được vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam hiện nay trong điều kiện nước ta đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Toàn bộ cơ sở hạ tầng xã hội đã và đang có những thay đổi lớn lao. Nền kinh tế đất nước đã và đang trên đà phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống kinh tế xã hội đạt những tiến bộ đáng kể.5 Dân chủ xã hội ngày càng được mở rộng. Đời sống văn hóa tinh thần ngày càng được chú trọng và nâng cao. Tất cả những nhân tố đó tác động sâu sắc đến sự nhìn nhận và đánh giá về mặt lý luận đối với những vấn đề liên quan đến xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 ” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “ Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là những văn kiện quan trọng trong việc định hướng về mặt lý luận đối với việc cải cách toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung và PLXLVPHC nói riêng trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới. Đề tài sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp lịch sử; - Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh; quy nạp, diễn giải - Phương pháp lôgic, phương pháp thống kê… 5 Theo công bố mới đây của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) năm 2006 thu nhập bình quân đầu người đạt 715 USD/năm. Đánh giá về chỉ số phát triển HDI, Việt Nam đứng thứ 129 trong số các quốc gia xếp hạng. Vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dung đã công bố năm 2007 thu nhập bình quân đầu người đạt 980USD/năm. 11 IV. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1. Tình hình nghiên cứu Đề tài Tại Việt nam cho đến nay, hầu như chưa có một công trình nghiên cứu khoa học hay luận án tiến sĩ, thạc sĩ nào tiến hành nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về vấn đề này. Các nguồn thông tin khoa học quốc tế cũng chưa tìm thấy công trình nghiên cứu khoa học nào đề cập trực tiếp đến vấn đề này. Ngoại trừ một số giáo trình giảng dạy của một số trường đại học như Đại học Quốc gia (Khoa Luật học), Đại học Luật Hà Nội, Đại học Huế...hoặc một số tài liệu biên soạn phục vụ bồi dưỡng chuyên viên thi chuyển ngạch lên chuyên viên chính của Học viện Hành chính quốc gia...có đề cập đến pháp luật về XLVPHC nói chung, đến vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLVPHC ở những mức độ nông sâu khác nhau, nhưng tựu chung lại chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp là cơ quan chủ trì một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ hoặc cấp cơ sở trực tiếp liên quan đến PLXLVPHC6. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên Viện chủ trì việc nghiên cứu Đề tài trực tiếp liên quan đến vấn đề xây dựng Bộ luật XLVPHC. Một số tạp chí về nghiên cứu về nhà nước và pháp luật như tạp chí Dân chủ và Pháp luật của Bộ Tư pháp7, tạp chí Nghề Luật của Học viện Tư pháp8, tạp chí Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp của Văn phòng Quốc hội…cũng có một số bài viết của một số nhà 6 Đề tài nghiên cứu trong khuôn khổ Dự án về Tư pháp người chưa thành niên thuộc Chương trình hợp tác tổng thể của Dự án Bảo vệ Trẻ em năm 2003, Viện Khoa học Pháp lý- Bộ Tư pháp là cơ quan đối tác của UNICEF triển khai nghiên cứu Đề tài “ Nghiên cứu, đánh giá và phân tích tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật và hệ thống xử lý tại Việt Nam”(trong đó có một phần nội dung nghiên cứu, phân tích, đánh giá về hệ thống xử lý bằng PLXLVPHC); Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2005 “ Bình luận khoa học Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ” hoặc Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2006 “ Hoàn thiện thủ tục hành chính và hình sự đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở Việt Nam”. 7 Ví dụ, bài viết “ Quyền công dân, quyền con người và chỗ đứng của “ các biện pháp xử lý hành chính khác” trong pháp luật về vi phạm hành chính” – của tác giả Trần Thanh Hương đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2005. Chuyên đề “ Hoàn thiện các biện pháp xử lý hành chính khác theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Th.S Lê Ngọc Thạnh(tỉnh Đăc Lăk) đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 1/2006. 8 Bài viết “ Đổi mới tổ chức xét xử khiếu kiện hành chính theo tinh thần cải cách tư pháp”-của tác giả TS. Nguyễn Thanh Bình(Học viện Tư pháp) và bài viết “ Nhằm nâng cao hiệu quả xét xử hành chính của Toà án nhân dân “ của tác giả ThS.Hoàng Quốc Hồng (Trường đại học Luật Hà Nội) –đăng trên Tạp chí Nghề Luật số 1/2006. 12 khoa học, chuyên gia pháp lý hoặc cán bộ làm công tác thực tiễn đề cập đến vấn đề xây dựng và áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nhưng chủ yếu dưới giác độ bàn luận về từng vấn đề đơn lẻ hoặc đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn trực tiếp liên quan đến việc thi hành và áp dụng pháp luật XLVPHC. Chẳng hạn như, bàn về vấn đề cưỡng chế hành chính, về các biện pháp xử lý hành chính khác, về việc thi hành quyết định XPVPHC… Những thông tin, tài liệu này ít nhiều mang tính chất tham khảo trong quá trình triển khai nghiên cứu Đề tài này. Tuy nhiên, do nguồn thông tin tư liệu trực tiếp liên quan đến phạm vi nghiên cứu của Đề tài hạn hẹp như vậy nên đây cũng là một trong những trở ngại về nguồn tài liệu tham khảo (nhất là nguồn tham khảo nước ngoài) đối với việc nghiên cứu Đề tài này bên cạnh một số trở ngại khác về nguồn lực, thời gian, kinh nghiệm nghiên cứu. 2. Quá trình thực hiện Đề tài Đề tài nghiên cứu về “ Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng mô hình Bộ luật xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam” được triển khai thực hiện căn cứ Quyết định số 71/QĐ-BTP ngày 1/2/2005 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về Kế hoạch nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp năm 2005. Trong quá trình tiến hành đấu thầu để lựa chọn chủ thể thực hiện Đề tài, Vụ Pháp luật Hình sự-hành chính, Bộ Tư pháp là đơn vị được chỉ định thực hiện Đề tài này. Vụ đồng thời cũng là đơn vị được phân công chủ trì việc xây dựng Dự án Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của PLXLVPHC năm 2002 và nghiên cứu để xúc tiến xây dựng Dự án Bộ luật (hoặc Luật) Xử lý vi phạm hành chính. Vụ Pháp luật Hình sự-Hành chính đã chủ động xây dựng Đề cương sơ bộ, Đề cương chi tiết, bảo vệ thành công trước Hội đồng khoa học cấp Bộ vào tháng 2/2005. Sau khi hoàn thành thủ tục tiếp nhận bước đầu của việc thực hiện Đề tài, Ban Chủ nhiệm Đề tài và Thư ký Đề tài đã được thành lập do Thạc sĩ luật Đặng Thanh Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự-Hành chính, Bộ Tư pháp làm Chủ nhiệm và Thạc sĩ luật Đỗ Hoàng Yến, chuyên viên chính (hiện là Phó Vụ trưởng Vụ Phổ biến Giáo dục pháp luật) làm Thư ký của Đề tài. Ban Chủ nhiệm và Thư ký Đề tài đã mời các Cộng tác viên là các chuyên gia pháp lý, các nhà khoa học từ các cơ quan, tổ chức như Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, Viện Nhà nước và Pháp luật thuộc 13 Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Bộ Công an, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn... tham gia Đề tài. Đề cương chi tiết của Đề tài đã được bảo vệ trước Hội đồng Tư vấn xét duyệt Đề cương nghiên cứu của Đề tài do Hội đồng khoa học Bộ Tư pháp tổ chức. Đề cương nghiên cứu bước đầu được đánh giá tốt. Ban Chủ nhiệm Đề tài đã tổ chức nghiên cứu, tiếp thu kiến nghị của Hội đồng về những nội dung cần bổ sung, sửa đổi trong cuộc họp thuyết minh Đề cương của Đề tài. Việc hoàn thiện Đề cương nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở ý kiến khuyến nghị của Hội đồng khoa học Bộ nêu trên và ý kiến tham gia của tất cả các cộng tác viên của Đề tài trên tinh thần công khai, dân chủ. Ban Chủ nhiệm Đề tài đã chính thức ký kết hợp đồng khoa học về việc thực hiện Đề tài này với Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp vào tháng 4/2005. Ban Chủ nhiệm Đề tài đã tổ chức cuộc họp Cộng tác viên vào ngày 23/5 2005 để phân công nghiên cứu, chuẩn bị các chuyên đề nghiên cứu khoa học phục vụ Đề tài. Tiếp đó, lần lượt vào các ngày 25/1/2006; 4/4/2006 và 12/2006 Ban Chủ nhiệm và Thư ký Đề tài đã tổ chức các Tọa đàm khoa học theo các chuyên đề nhằm trực tiếp phục vụ cho việc thảo luận, trao đổi sâu rộng về các vấn đề đẩt trong quá trình các Cộng tác viên nghiên cứu, chuẩn bị các chuyên đề của mình. Trên cơ sở kết quả các tọa đàm khoa học, Ban Chủ nhiệm yêu cầu Cộng tác viên tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa để hoàn thiện nội dung các chuyên đề và sau đó tổ chức nghiệm thu chuyên đề. Báo cáo phúc trình Đề tài đã được Ban Chủ nhiệm đề tài và Thư ký chủ động chuẩn bị trong quá trình thực hiện Đề tài. Công việc này được bắt đầu từ khâu xây dựng Đề cương sơ bộ, Đề cương chi tiết với việc chỉnh lý hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu ý kiến xây dựng của các Cộng tác viên Đề tài. Trên cơ sở nội dung của Đề cương chi tiết báo cáo phúc trình Đề tài, việc thể hiện thành văn bản trọn vẹn do Ban Chủ nhiệm và Thư ký đề tài trực tiếp thực hiện. Báo cáo phúc trình Đề tài đã được lấy ý kiến một số chuyên gia, nhà khoa học để từng bước hoàn thiện. Hội nghị Cộng tác viên đóng góp xây dựng và hoàn thiện Báo cáo phúc trình đã được tổ chức nhằm phát huy tinh thần dân chủ và trí tuệ tập thể trong việc giải trình và thể hiện các quan điểm khoa học cả về lý luận 14 và thực tiễn đối với các vấn đề trực tiếp liên quan đến phạm vi nghiên cứu của Đề tài. Đây là kết quả tổng hợp của quá trình nghiên cứu của cả tập thể các Cộng tác viên Đề tài, đòi hỏi chúng phải được thể hiện và chuyển tải vào trong Báo cáo phúc trình đầy đủ, toàn diện và thấu đáo. Việc tham khảo thêm ý kiến của các chuyên gia có kinh nghiệm lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật hành chính nói riêng và trong công tác nghiên cứu khoa học pháp lý nói chung cũng được thực hiện nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa Báo cáo phúc trình của Đề tài. Sau Hội nghị Cộng tác viên, Báo cáo Phúc trình Đề tài tiếp tục được nghiên cứu, chỉnh sửa, hoàn thiện để trình Hội đồng nghiệm thu Đề tài. V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI 1. Về mặt lý luận Yêu cầu đầu tiên và trực tiếp về kết quả của Đề tài nghiên cứu là Đề tài có giá trị áp dụng thiết thực trong việc nghiên cứu, xây dựng Bộ luật xử lý vi phạm hành chính ở nước ta. Đồng thời, dưới giác độ lý luận chung thì kết quả nghiên cứu của Đề tài còn là nguồn tham khảo thật sự hữu ích cho việc nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLVPHC nói chung. Kết quả nghiên cứu của Đề tài còn góp phần khởi xướng và là nguồn động viên, cổ vũ cho các hoạt động nghiên cứu có tính định hướng phát triển và hoàn thiện hệ thống PLXLVPHC ở Việt Nam hiện tại và trong tương lai. Kết quả nghiên cứu của Đề tài còn là nguồn tài liệu hữu ích phục vụ cho việc đào tạo, giảng dạy và tham khảo về chuyên môn sâu trong việc nghiên cứu lý luận pháp luật về XLVPHC ở Việt Nam. 2. Về mặt thực tiễn Dự kiến kết quả nghiên cứu của Đề tài sẽ góp phần hữu ích thật sự và là nguồn tham khảo quí báu cho việc xúc tiến xây dựng Dự án BLXLVPHC theo Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, đồng thời cũng thiết thực hữu ích cho việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 đang được tiến hành và dự kiến ban hành trong thời gian gần nhất. 15 PHẦN THỨ HAI MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH MÔ HÌNH BỘ LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN 1. Khái niệm vi phạm hành chính (VPHC) Khi đề cập đến vấn đề xử phạt hành chính thì một trong những nội dung cần được quan tâm hàng đầu đó chính là cơ sở của việc xử phạt hành chính. Cơ sở của việc xử phạt hành chính là có hành vi VPHC được pháp luật quy định. Việc nghiên cứu về khái niệm hành vi VPHC vừa có ý nghĩa lý luận quan trọng vừa mang tính thực tiễn sâu sắc, bởi lẽ, chỉ khi định nghĩa được đúng về hành vi VPHC mới có thể xác định được các VPHC cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Xác định được đúng hành vi VPHC (tức là xác định đúng cơ sở xử phạt) thì việc thực hiện xử phạt hành chính mới đúng đắn, mới bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân, phát huy được hiệu quả và mục đích của việc xử phạt hành chính là nhằm lập lại trật tự quản lý nhà nước bị xâm hại, góp phần giáo dục, người vi phạm và cảnh báo, phòng ngừa vi phạm trong tương lai và tránh được sự tuỳ tiện trong xử phạt hành chính. Trong thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật hiện nay, VPHC thường được hiểu một cách chung nhất là hành vi vi phạm các quy tắc quản lý của nhà nước nhưng không phải là tội phạm và bị xử lý theo thủ tục hành chính mà không viện đến Tòa án và các thủ tục tư pháp. Trước đây, khi Nhà nước ta chưa ban hành Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 thì các văn bản pháp luật chỉ đề cập đến khái niệm “vi cảnh”9. 9 Khái niệm này chính thức được sử dụng trong “ Điều lệ xử phạt vi cảnh” ban hành kèm theo Nghị định số 143/CP ngµy 27/05/1977. Theo quy định của Điều lệ xử phạt vi cảnh thì tất cả những hành vi xâm phạm đến TTATXH mà có tính chất đơn giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc áp dụng các biện pháp hành chính khác là phạm pháp vi cảnh. Hình thức xử phạt vi cảnh, theo quy định của Nghị định 143/CP được chia thành 04 loại, đó là: cảnh cáo; phạt tiền từ 01 đến 10 đồng; phạt lao động công ích từ 01 đến 03 ngày; phạt giam từ 01 đến 03 ngày. Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định tịch thu phương tiện dùng vào việc vi phạm tuỳ theo tính chất, mức độ của vi phạm; quy định thẩm quyền xử phạt với hình 16 Khái niệm “vi cảnh” theo Từ điển tiếng Việt10 được định nghĩa là việc “ vi phạm luật lệ sinh hoạt ở nơi công cộng” như vi phạm quy định về giữ gìn vệ sinh công cộng, trật tự công cộng, trật tự an toàn giao thông…v.v. Đây là cách hiểu thông dụng nhất về khái niệm “vi cảnh”. Về sau, trong các văn bản pháp luật do Nhà nước ta ban hành, khái niệm “vi cảnh” được hiểu rộng hơn, không chỉ là những vi phạm luật lệ sinh hoạt nơi công cộng mà được hiểu là những vi phạm nhỏ chưa đến mức hình sự. Theo Điều 2 của Điều lệ về phạt vi cảnh ban hành kèm theo Nghị định số 143/CP ngày 27/5/1977 của Hội đồng Chính phủ, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 200-HĐBT ngày 6/7/1985 của Hội đồng Bộ trưởng thì “vi cảnh” được định nghĩa là “những hành vi xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội mà có tính chất đơn giản, rõ ràng và hậu quả không nghiêm trọng, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa đến mức xử phạt bằng các biện pháp hành chính khác là phạm pháp vi cảnh”. Về cụ thể, hành vi vi phạm vi cảnh được các văn bản pháp luật trước đây quy định rất đa dạng, có những hành vi mang tính chất đặc trưng của thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thời kỳ Nhà nước ta đang phải đấu tranh với “giặc đói”, “giặc dốt” và giữ gìn chính quyền cách mạnh non trẻ mới được thành lập như: người trên 8 tuổi mà không biết đọc, viết chữ quốc ngữ, hạn sau một năm thì bị phạt tiền (Sắc lệnh số 20 ngày 8-9-1945 của Chính phủ lâm thời); vi phạm về sử dụng điện thoại như bị bắt quả tang đã sửa đổi hoặc đặt thêm những đường dây hay máy móc điện thoại thuê bao mà không được Chính phủ cho phép (Sắc lệnh số 174 ngày 6-9-1946 của Bộ Nội vụ); thành lập, hoạt động hội trái pháp luật; không chịu nộp thuế; không chịu đi dân công (Nghị định số 273/TTg ngày 25-5-1953 của Thủ tướng Chính phủ); những hành vi đã phạm tội nhưng chưa đáng phạt tù như làm tay sai cho địch, chưa thực sự hối cải, lưu manh chuyên nghiệp v.v...Cũng có những hành vi vi cảnh được quy định trong các văn bản pháp luật thời đó rất giống với các vi phạm hành chính thời nay như “vi phạm quy tắc sử dụng ánh sáng trên đường giao thông và trên phương tiện vận tải” (Nghị định số 273/TTg ngày 25-5-1953 của Thủ tướng Chính phủ); “phơi rơm rạ, thóc lúa và các thức phạt cảnh cáo, phạt tiền cho cán bộ có thẩm quyền của các ngành Kiểm lâm, Thuỷ sản, Thương nghiệp Y tế, Giao thông vận tải... trong khi thừa hành công vụ ngoài lực lượng cán bộ, chiến sĩ Công an là lực lượng có thẩm quyền áp dụng tất cả các hình thức xử phạt mà Nghị định quy định. 10 Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Nhà Xuất bản Đà nẵng 1997, tr. 1073. 17 thứ khác trên đường phố, đường ô-tô; thả rông súc vật, chăn dắt súc vật trên đường ô-tô, đường xe lửa; buộc súc vật vào cây cối, vào cọc tiêu, cột báo hiệu ở hai bên đường” (Nghị định số 200-HĐBT ngày 6/7/1985 của Hội đồng Bộ trưởng)…v.v. Tại các nước trên thế giới, vi phạm hành chính (administrative offense/violation) thường được hiểu chung là các hành vi vi phạm pháp luật không phải là tội phạm, bị xử phạt bằng các chế tài hành chính. Ví dụ Pháp lệnh của Hội đồng bang Milaca, Minnesota định nghĩa VPHC là hành vi vi phạm quy định của Pháp lệnh này và phải chịu các hình thức xử phạt hành chính theo quy định…”. Luật về xử phạt hành chính của Cộng hòa nhân dân Trung hoa năm 1996 (Điều 3) định nghĩa VPHC là “hành vi vi phạm trật tự hành chính của công dân và pháp nhân hoặc các tổ chức khác, bị áp dụng các hình thức phạt hành chính được quy định bởi pháp luật theo quy định của Luật này và các hình thức xử phạt này được giao cho các cơ quan hành chính áp dụng theo thủ tục do Luật này quy định”. Theo Bộ luật về XPVPHC của Cộng hòa liên bang Nga11 thì VPHC được định nghĩa là “hành động (không hành động) của thể nhân hoặc pháp nhân, trái pháp luật, có lỗi và bị Bộ luật này hoặc các luật của Cộng hòa liên bang Nga quy định phải chịu trách nhiệm hành chính”. Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu tiên được định nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989, Điều 1 Pháp lệnh này quy định “vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. Định nghĩa này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành pháp luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật. Đến PLXLVPHC năm 1995 và sau đó là PLXLVPHC năm 2002 thì khái niệm VPHC không được định nghĩa riêng biệt nữa mà được đưa “lẩn” vào trong khái niệm “xử lý vi phạm hành chính”, nếu trích dẫn từ định nghĩa về “xử lý vi phạm hành chính” được quy định tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh XLVPHC 200212 thì 11 Xem Điều 2.1. Bộ luật Xử phạt hành chính của Cộng hòa liên bang Nga. Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh XLVPHC quy định “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”. 18 12 VPHC được hiểu là hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Về ngôn ngữ thể hiện, chúng ta có thể thấy có đôi chút khác nhau giữa định nghĩa về VPHC được quy định trong các Pháp lệnh về xử phạt/xử lý vi phạm hành chính 1989, 1995 và 2002, tuy nhiên về bản chất hành vi VPHC thì các định nghĩa trong các văn bản pháp luật này, về cơ bản, không có gì khác nhau. Trong BLXLVPHC, khái niệm “vi phạm hành chính” cần thiết phải được xác định rõ ràng vì đây chính là điểm xuất phát quan trọng cho việc xác định các hành vi vi phạm trong từng lĩnh vực cụ thể và các chế tài áp dụng đối với các hành vi VPHC một cách đúng đắn, chính xác và hiệu quả. Theo chúng tôi, để xác định đúng bản chất và đưa ra định nghĩa chính xác về “vi phạm hành chính”, trước tiên cần thiết phải khẳng định rằng thực chất vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật nói chung, nó mang đầy đủ những dấu hiệu đặc trưng của vi phạm pháp luật: đó là hành vi khách quan được thể hiện thông qua hành động (hoặc không hành động) của con người không đúng với quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra bằng các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành; hành vi đó thể hiện ý chí của chủ thể thực hiện bằng sự cố ý hoặc vô ý đối với việc thực hiện và nó xâm hại đến lợi ích của cộng đồng, trật tự xã hội và lợi ích của nhà nước và bị áp dụng chế tài pháp lý mang tính cưỡng chế nhà nước. Các loại vi phạm pháp luật có thể là vi phạm hành chính, vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm pháp luật về công chức, công vụ và vi phạm pháp luật hình sự. Tương ưng với các loại vi phạm pháp luật nói trên có bốn loại trách nhiệm pháp lý được áp dụng, tuỳ theo tính chát, mức độ vi phạm, đó là trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm ký luật và trách nhiệm hình sự. Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật có 04 dấu hiệu đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất, VPHC là hành vi trái pháp luật, vi phạm các quy định của pháp luật về trật tự quản lý hành chính nhà nước; tác hại (tính nguy hiểm) do hành vi gây ra ở mức độ thấp, chưa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự. và hành vi đó được quy định trong các văn bản pháp luật về XPVPHC. Đây chính là dấu hiệu “pháp định” của vi phạm. Thứ hai, hành vi đó phải là một hành vi đã được thực hiện, phải là một việc thực (fait), chứ không phải là trong ý thức hoặc dự định, đây có thể coi là dấu hiệu “vật chất” (material) của vi phạm. 19 Thứ ba, hành vi đó do một cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện, đây là dấu hiệu xác định“chủ thể” của vi phạm. Thứ tư, hành vi đó là một hành vi có lỗi, tức là người vi phạm nhận thức được vi phạm của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm nhận thức được tính chất trái pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu quả của vi phạm và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả và để mặc cho hậu quả xảy ra; hình thức lỗi là vô ý trong trường hợp người vi phạm thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan cho rằng mình có thể ngăn chặn được hậu quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ xảy ra dù phải thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả của vi phạm. Đây có thể coi là dấu hiệu “tinh thần” của vi phạm. 2. Phân biệt hành vi VPHC với tội phạm hình sự - sự chuyển hóa VPHC thành tội phạm hình sự trong một số điều kiện cụ thể Nhìn chung, VPHC hay tội phạm hình sự đều là hành vi vi phạm, xâm hại trật tự pháp luật được đặt ra bởi Nhà nước. Vi phạm hay phạm pháp (offence/violation) là những hành vi vi phạm pháp luật nói chung và phải bị xử lý theo quy định của hệ thống chế tài tương ứng. VPHC (administrative offence/ violation) bị xử lý bằng các chế tài hành chính, còn tội phạm (criminal offence/crime) bị xử lý bằng các chế tài hình sự. Căn cứ vào các dấu hiệu nhận biết VPHC nêu trên, về mặt lý thuyết, chúng ta có thể phân biệt VPHC với tội phạm hình sự. Trong khi khái niệm “vi phạm hành chính” thường gây nhiều tranh cãi, đặc biệt là trong những trường hợp cụ thể thì khái niệm “tội phạm hình sự” dường như được hiểu và định nghĩa khá thống nhất. Nói một cách đơn giản, tội phạm là hành vi phạm pháp luật gây nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện. Tuy nhiên, từ lý luận đến thực tiễn luôn luôn là một khoảng cách, và ở đây cũng vậy, trong thực tiễn có những trường hợp rất khó phân biệt hành vi VPHC và tội phạm. Rất nhiều trường hợp cụ thể cần phải có sự phân tích rõ ràng, tỷ mỉ hành vi vi phạm đó một cách toàn diện, thận trọng và khách quan, phân tích cụ thể điều kiện xảy ra vi phạm, nhân thân người vi phạm, xác định hình thức và mức độ của lỗi để có thể tìm ra điểm khác biệt trong hành vi VPHC và tội phạm. Chỉ khi đó, đối chiếu với các quy định tương ứng của pháp luật mới có thể giải quyết được vấn đề tính chất của vi phạm pháp luật và áp dụng hình thức trách nhiệm pháp lý phù hợp. Mặc dù vậy, căn cứ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan