Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Cổ phần hóa doanh nghiệp việt nam...

Tài liệu Cổ phần hóa doanh nghiệp việt nam

.DOC
69
88
131

Mô tả:

Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Lời cảm ơn Bước ra một môi trường hoàn toàn khác xa với môi trường đại học để đến với kì thực tập, được tiếp xúc với môi trường thực tế, bước đầu đã tạo cho em nhiều bỡ ngỡ nhưng với sự giúp đỡ tận tình của cô giáo- Ths Nguyễn Thị Thuỳ Dương về mặt nhận thức lí luận cũng như sự giúp đỡ của các cô chú, anh chị cán bộ Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành về mặt hiểu biết nghiệp vụ ngân hàng, đã tạo cho em nhiều nhận thức, sự hiểu biết quan trọng, tự tin bước vào tương lai phía trước của mình. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo cũng như các cô chú, anh chị đã chỉ bảo, đóng góp cho em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. 1 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Lời mở đầu: Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, chuyển từ mô hình kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Do vậy, sự ra đời của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) như một tất yếu. Từ khi ra đời đến nay, DNNQD đã đóng góp những thành tựu cho nền kinh tế nước nhà và đang ngày càng khẳng định vai trò của mình trong việc khai thác hợp lí và có hiệu quả các nguồn lực trong nước. Tuy vậy, nền kinh tế nước ta còn ở mức kém phát triển, chất lượng đội ngũ lao động thấp, thị trường tiêu thu và thị trường vốn chưa lớn đã gây khó khăn lớn cho các DNNQD trong quá trình huy động vốn, cũng như sử dụng hiệu quả vốn vay, khả năng tiếp cận với nguồn vốn Ngân hàng của các DNNQD còn gặp nhiều hạn chế. Do vậy, việc nâng cao chất lượng cho vay các DNNQD là vấn đề được Đảng, Nhà nước cũng như Ngành Ngân hàng hết sức quan tâm. Qua thực trạng đó và tìm hiểu thực tế hoạt động cho vay tại Chi nhánh Hà Thành, em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với các DNNQD tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Chuyên đề có kết cấu gồm 3 phần: Chương 1:Lí luận chung về hoạt động cho vay đối với DNNQD của Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng cho vay đối với DNNQD tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành. 2 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNQD CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh: 1.1.1 Khái niệm về DNNQD: Đối với bất kì một quốc gia nào, nền kinh tế cũng không thể thiếu các doanh nghiệp. Đây là lực lượng tạo ra khối lượng sản phẩm và của cải lớn cho xã hội. Vậy thế nào là một Doanh nghiệp? Có thể hiểu Doanh nghiệp là thuật ngữ chỉ các tổ chức kinh tế, được thừa nhận về mặt pháp lí trên một số tiêu chuẩn nào đó. mỗi doanh nghiệp hoạt động ở một nghành nghề nhất định nhằm mục đích thu lợi nhuận (gọi là các doanh nghiệp vị lợi nhuận) hoặc để thu được lợi ích xã hội nào đó (gọi là các Doanh nghiệp phi lợi nhuận). Hiện nay, có nhiều loại Doanh nghiệp cùng tồn tại trong một nền kinh tế. Theo cách phân loại dựa vào hình thức sở hữu của luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH10 vào ngày 12-6-1999, các doanh nghiệp gồm có: Doanh nghiệp Quốc Doanh và Doanh nghiệp ngoài Quốc Doanh. Trong đó DNNQD là những cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập đã được đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành trong đó vốn góp của nhà nước không được vượt quá 49% tổng số vốn góp của doanh nghiệp. Tức DNNQD là những doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của một cá nhân hoặc của một nhóm người có vốn và tài sản đầu tư vào doanh nghiệp, tự tổ chức hoạt động, tự chịu trách nhiệm kết quả kinh doanh và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Theo quy định trên, nền kinh tế nước ta gồm các loại hình DNNQD như sau: 1.1.1.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn: Gồm có hai loại công ty trách nhiệm hữu hạn như sau: 3 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 + Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp mà chủ sở hữu là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Tổ chức này phải tự chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ đã được quy định. Các công ty này không được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn + Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên: Là các doanh nghiệp có ít nhất 2 thành viên, nhiều nhất là 50 thành viên tham gia góp vốn. Các thành viên phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp của mình. Các thành viên khi được chia lợi nhuận cũng dựa vào tỉ lê vốn góp. Cũng giống công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên không được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn. 1.1.1.2. Doanh nghiệp tư nhân: Là Doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động của DN cũng như chịu trách nhiệm trước pháp luật. 1.1.1.3. Công ty hợp danh: Là những doanh nghiệp được thành lập dựa trên vốn góp của ít nhất hai thành viên có trình độ chuyên môn và uy tín. Các thành viên hợp danh này phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với mọi hoạt động của công ty. 1.1.1.4. Hợp tác xã: Là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã. 1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh: 4 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Nền kinh tế nước ta trải qua thời kì bao cấp kéo dài, các doanh nghiệp quốc doanh chỉ mới được ra đời và phát triển hơn 20 năm nay nhưng với sự đa dạng, linh hoạt trong kinh doanh, tham gia vào nhiều ngành nghề kinh tế đã khẳng định vai trò của DNNQD đối với sự phát triển của nền kinh tế: - DNNQD với việc mở rộng, đa dạng ngành nghề kinh doanh đã tạo ra lượng công ăn việc làm lớn trong xã hội, khai thác mọi nguồn lực của đất nước nhất là nguồn lực con người để cùng nhà nước giảm gánh nặng thất nghiệp cũng như để phân bố lại lực lượng lao động ngày càng hợp lí hơn. - Trước đây, với sự độc chiếm của DNQD thuộc sở hữu nhà nước đã gây ra sự trì trệ, kém phát triển của nền kinh tế nước ta. Sự ra đời của các doanh nghiệp ngoài quốc là giải pháp để bù đắp những thiếu hụt, hạn chế của các DNNN để lại. DNNQD ra đời sẽ tạo ra lượng hàng hoá, dịch vụ dồi dào cho xã hội, cung sẽ vượt cầu từ đó người tiêu dùng sẽ lựa chọn sản phẩm theo nhu cầu của mình, tạo ra sự cạnh tranh lớn giữa DNNQD với DNNN, cũng như trong nội bộ các DNNQD từ đó chất lượng sản phẩm sẽ tăng lên,sức cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài cũng tăng lên, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Mặt khác, các DN sẽ cố gắng huy động hết mọi nguồn lực của đất nước để tạo nên lợi thế của riêng mình, tăng sức cạnh tranh để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Thuế TNDN chính là một nguồn thu rất lớn cho ngân sách nhà nước và các DNNQD hàng năm tạo ra lợi nhuận rất lớn là đối tượng đánh thuế TNDN quan trọng của nhà nước. Mỗi năm DNNQD đóng khoảng 45% NSNN, nhà nước sử dụng nguồn thu này để phục vụ cho hoạt động của các DNNQD nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung: Thông qua việc nâng cao cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình công cộng, các công trình 5 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 trọng điểm. Từ đó tạo điều kiện cho mọi ngành, mọi thành phần kinh tế cùng phát triển. - Với sự ra đời của các DNNQD thì sự canh tranh giữa các DN ngày càng lớn bắt buộc các DN phải không ngừng đổi mới công nghệ, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Do vậy các DNNQD là lực lượng đi đầu trong công cuộc dịch chuyển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.1.3. Đặc điểm của DNNQD: - Tốc độ gia tăng của DNNQD ngày càng nhanh: kể từ sau hội nghị TW Đảng khoá VI (1986), đất nước ta chuyển từ mô hình kinh tế nhà nước tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì các DNNQD cũng phát triển ngày càng rầm rộ. Điều này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Số lượng các DNNQD ở một số năm.: n ăm Số lượng Tốc độ tăng trưởng 1991 1999 2000 2002 2004 414 30.500 44.943 54.642 82.000 21 30 21.8 22 25.5 2006 105.000 25.5 (%/năm) ( Nguồn: Niên giám thống kê năm 2006) Rõ ràng các DNNQD ngày càng được tăng lên về số lượng đặc biệt là giai đoạn sau năm 2000, khi nhà nước đã ban hành luật DN để thay thế cho luật công ty đã bị lỗi thời. Không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng các DNNQD cũng ngày càng được nâng cao lên. Ban đầu DNNQD chỉ được thành lập một cách tự phát, chủ yếu là các DN nhỏ lẻ, ít lao động, máy 6 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 móc thiết bị hết sức thô sơ nhưng hiện nay trước yêu cầu phát triển mới của đất nước thì chất lượng của DN cũng không ngừng được cải thiện. Các DN có quy mô ngày càng lớn, làm ăn có chiều sâu, tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn. Chính sự làm ăn có hiệu quả của các DNNQD đã làm thay đổi tư duy của những con người chèo lái con thuyền kinh tế nước ta, giúp họ nhận thức nhiệm vụ cấp bách để phát triển nền kinh tế nói riêng và toàn bộ đất nước nói chung là phải tiến hành cổ phần hoá (CPH) các DNNN, trở thành các DN, các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả hơn. Hiện nay, chúng ta đã CPH được 4000 DNNN. Số lượng DNNN được CPH chưa nhiều song là tiền đề để chúng ta hoàn thành tốt công cuộc CPH. - Các DNNQD tuy đã được nhà nước khuyến khích thành lập và phát triển nhưng trong quá trình phát triển của mình vẫn chịu nhiều khó khăn, thiệt thòi. Nhà nước đặc bịêt ưu ái đối với các DNNN, các ngành nghề kinh tế quan trọng đều bị các DNNN độc quyền, các DNNQD không thể chen chân với những ngành nghề nhiều lợi nhuận như ngành điện, ngành dầu khí, ngành viễn thông... Mặt khác, các chính sách của nhà nước cũng thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ để các DNNQD yên tâm đầu tư phát triển, giảm thiểu rủi ro. Đặc biệt tệ quan liêu, hạch sách của các cơ quan quản lí kinh tế đã gây ra nhiều khó khăn trong việc đăng kí thành lập, trong hoạt động kinh tế làm cho các DNNQD bỏ lỡ rất nhiều cơ hội đầu tư.Chính những điều đó đã làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến tăng giá bán sản phẩm, khả năng cạnh tranh của các DNNQD giảm xuống. Thực tế đã có nhiều DNNQD chỉ vì những văn bản pháp lí rắc rối, thiếu hợp lí làm quá trình kinh doanh trì trệ, làm ăn kém hiệu quả và dẫn đến phá sản. - Các DNNQD có điểm khác biệt đối với các DNNN đó là có số lượng lao động ít hơn nhiều. Do các DNNQD chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Nên các DNNQD có số lượng lao động là không 7 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 nhiều. Theo thống kê chỉ có khoảng 1020 DN có số lượng lao động trên 100 người, số lao động bình quân của DNNQD năm 2005 chỉ là 28 lao động. Đây là vấn đề mà nhà nước cần quan tâm vì các DNNQD là bộ phận quan trọng để giảm bớt gánh nặng về thất nghiệp cho nhà nước. Do đó cần thiết phải mở rộng quy mô cho các DNNQD để thu hút được nhiều lao động hơn nữa. Một điểm cần chú ý nữa là chất lượng lao động của các DNNQD. Thực tế cho thấy đa số sinh viên có trình độ ra trường muốn vào các DNNN để có một việc làm ổn định, được hưởng các chế độ bảo hiểm... Do vậy chất lượng lao động tại các DNNQD vẫn còn thấp, đòi hỏi phải có các giải pháp cho vấn đề thu hút nguồn nhân lực có chất lượng vào các DN này. - Các DNNQD ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, nhưng quy mô tài chính của các DN còn rất nhỏ. Cụ thể chỉ có khoảng 30% DN có số vốn trên 10 tỷ đồng, còn lại là DN có số vốn dưới 10 tỷ đồng, bình quân một DNNQD có số vốn 7 tỷ/ DN, chiếm 26% về vốn và hơn 20% TSCĐ trong các DN. Điều này cho thấy DNNQD ở nước ta chủ yếu là các DN vừa và nhỏ, lượng vốn tự có của các DN chỉ đáp ứng được khoảng 35% yêu cầu đặt ra. Với quy mô tài chính nhỏ bé sẽ giúp các DNNQD dễ dàng thích nghi với sự biến động của thị trường, giúp dễ dàng thay đổi ngành nghề kinh doanh để đáp ứng thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng, tăng được khả năng cạnh tranh trong mọi diễn biến của nền kinh tế trong nước và trên thế giới. Song quy mô nhỏ đã làm cho DNNQD gặp rất nhiều khó khăn. Thứ nhất là, khả năng đổi mới công nghệ, đào tạo nhân công, mở rộng sản xuất là rất khó do công nghệ chủ yếu là công nghệ cũ, lạc hậu, máy sử dụng có tuổi đời cao (trên 20 năm). Theo thống kê của viện quản lí kinh doanh trung ương năm 2003 chỉ có 25% DN sử dụng công nghệ tương đối hiện đại, 36.5% DN sử dụng kết hợp công nghệ cổ truyền và 8 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 hiện đại, còn lại sử dụng công nghệ cổ truyền. Qua đây cho thấy năng suất lao động và chất lượng sản phẩm của các DNNQD là chưa cao, đòi hỏi trong tương lai gần phải cải tổ lại một cách toàn diện, sâu sắc. Thứ hai là, khả năng huy động được nguồn vốn tín dụng từ các NHTM là rất nhỏ, chỉ nhận được khoảng 32% tổng mức tín dụng của các NHTM. Từ đó sẽ khó cạnh tranh được với DNNN có quy mô tài chính lớn hơn nhiều. - Một khó khăn của DNNQD đó là thị trường tiêu thụ còn hết sức nhỏ bé, một mặt là do chất lượng sản phẩm sản xuất ra còn thấp trong khi giá bán lại cao để bù đắp chi phí cao, mặt khác là do hàng nhập lậu, hàng ngoại nhập tràn lan với giá rẻ và DNNQD chưa có điều kiện để mở rộng thị trường trong nước và quốc tế do vậy khả năng hiểu luật kinh doanh và luật kinh doanh quốc tế còn nhiều hạn chế, dễ bị nuốt chửng và bị thâu tóm bởi các DN mạnh, DN nước ngoài. Thực tế cho thấy, các DNNQD khó bán sản phẩm của mình, hàng tồn kho, hàng ế là rất nhiều làm khả năng quay vòng vốn sản xuất là rất chậm, thu không đủ bù chi dẫn đến khả năng phá sản là rất lớn đặc biệt là các DNNQD mới được thành lập, DN kinh doanh trong những lĩnh vực không được coi là truyền thống. 1.2. Khái quát về hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNNQD: 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động cho vay của NHTM: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới nhu cầu về các dịch vụ thanh toán, nhu cầu về vốn càng lớn cần thiết phải có một trung gian tài chính vừa làm nhiệm vụ nhận tiền của khách hàng này cho khách hàng khác vay và cung cấp các dịch vụ tiện ích cho hoạt động thanh toán. Ngân hàng thương mại đã được ra đời để đáp ững những nhu cầu đó. Như vậy, NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động chủ yếu thường xuyên là huy động tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi 9 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 sau đó sử dụng số tiền huy động được để cho vay, thanh toán ... nhằm mục đích sinh lời. Qua đây ta thấy hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho các NHTM. Trong đó theo hình thức tín dụng thì tín dụng được chia thành các loại như: cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính... mà hoạt động cho vay là chủ yếu. 1.2.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay của NHTM: Cho vay là giao dịch bằng tiền giữa NHTM với bên đi vay (cá nhân , doanh nghiệp...) thông qua một bản hợp đồng cho vay. Theo đó, NHTM phải chuyển số tiền nhất định trong một khoảng thời gian nhất định cho bên đi vay. Bên đi vay khi đã đến hạn kí kết thì phải trả cả gốc và lãi cho NHTM. 1.2.1.2. Đặc điểm hoạt động cho vay của NHTM: - Cho vay dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau: Bên đi vay tin tưởng NHTM sẽ cho vay đúng thời hạn, kịp thời để dễ dàng tìm kiếm cơ hội đầu tư. Bên NH hy vọng bên đi vay sẽ trả đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn để dảm bảo việc quay vòng vốn, trả các nguồn huy động đến hạn. - Cho vay dựa trên ngyên tắc hoàn trả: NH và khách hàng kí cam kết đến thời hạn nhất định nào đó sẽ thanh toán đầy đủ cho nhau. Có nguyên tắc này vì vốn để cho vay của NH chủ yếu là vốn huy động từ các nguồn khác nhau ( tiền gửi của những người thừa vốn, đi vay...) nên trong một thời gian nhất định NH sẽ phải trả các nguồn huy động này. NH phải xem xét rất kĩ kì hạn huy động vốn vá kì hạn cho vay thì mới đảm bảo an toàn cho hoạt động cho vay của mình. - Hoạt động cho vay tạo ra lợi nhuận lớn nhất cho NH nhưng cũng gặp nhiều rủi ro nhất. Khi tiến hành cho vay thì bao giờ NH cũng xác định một chế độ lãi suất cho vay phù hợp, đảm bảo lãi suất cho vay bao giờ cũng 10 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 phải lớn hơn lãi suất huy động vốn từ đó mới tạo ra lợi nhuận cho NH. Đây chính là nguồn thu quan trọng nhất để NH bù đắp chi phí các hoạt động như: khấu hao TSCĐ, trả lương cho công nhân viên, trả lãi tiền huy động vốn... Mặt khác do hoạt động cho vay dựa vào cơ sở lòng tin nên gặp nhiều rủi ro khi khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc không muốn trả nợ hoặc rủi ro kì hạn, rủi ro lãi suất. Khi tổn thất xảy ra thì làm giảm thu nhập dự tính, có thể gây thua lỗ hoặc dẫn đến phá sản NH. Nên trước khi cho vay, NH luôn tiến hành thẩm định, đánh giá khách hàng để hạn chế tối đa rủi ro xảy ra. Qua đây ta thấy, NH phải có sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro: kì hạn ngắn. món vay nhỏ thì ít rủi ro song lợi nhuận lại không cao và ngược lại. 1.2.2. Các phương thức cho vay của NHTM đối với các DNNQD: NH dựa vào nhiều tiêu chí để phân loại ra các phương thức cho vay. Cụ thể có một số cách phân loại sau: 1.2.2.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay: Có ý nghĩa quan trọng với NH vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. - Cho vay ngắn hạn: Là hoạt động tài trợ có thời hạn dưới 12 tháng nhằm để tài trợ, bù đắp sự thiếu hụt về vốn lưu động và để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, DN, hộ gia đình... Áp dụng cho vay theo hạn mức, món hoặc cho vay trực tiếp, gián tiếp... - Cho vay trung hạn: Là hoạt động cho vay từ trên 1 năm đến 5 năm, tài trợ cho các TSCĐ như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị nhanh hao mòn. - Cho vay dài hạn: Là hoạt động cho vay trên 5 năm, dùng để tài trợ cho các công trình xây dựng lớn như: nhà xưởng, sân bay, cầu đường,máy móc thiét bị có giá trị lớn thường có thời gian sử dụng lâu dài... 11 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 1.2.2.2. Theo mức độ tín nhiệm: Là dựa vào uy tín, năng lực của khách hàng đi vay mà NH chia làm 2 loại : - Cho vay có TSĐB: Là phương thức cho vay chủ yếu của NH. khi cá nhân hay DN muốn vay vốn thì phai bảo đảm sẽ có nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản, vật chất. TSBĐ gồm 2 loại: + Loại 1 là các TS thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng, hoặc bảo lãnh của bên thứ ba cho khách hàng của NH. Những đảm bảo loại này không được hình thành từ khoản tín dụng của chính NH. Đảm bảo loại 1 có thể có giá trị lớn, nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của khoản tín dụng tuỳ thuộc vào đánh giá dự đoán của NH về rủi ro. Các khoản tín dụng dựa trên TSĐB loại 1 thường đảm bảo an toàn cho NH, song gây khó khăn cho cả NH lẫn khách hàng trong việc định giá, bảo quản, làm cho thời gian phân tích tín dụng thường bị kéo dài. + Loại 2 Là những tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của NH. Đây là biện pháp cuối cùng để NH có thể hạn chế được người vay bán tài sản được hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên khi người vay không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó bán. Do đó tài sản loại 2 không đảm bảo cho NH thu đủ gốc và lãi. Tài sản loại 2 thường áp dụng cho khách hàng mà tài sản loại 1 có ít, hoặc không thể trở thành tài sản đảm bảo cho NH. - Cho vay không cần TSĐB: áp dụng cho các khách hàng truyền thống, có uy tín. NH phải phân tích kĩ tình hình làm ăn, khả năng phát triển của người đi vay để đặt quan hệ làm ăn lâu dài. Khi khách hàng cần vốn thì NH sẽ chắc chắn sẽ thu đủ cả gốc và lãi khi đến hạn mà không cần phải đảm bảo bằng tài sản, vật chất gì. Lượng khách hàng được ưu tiên này của các NHTM là rất ít. 12 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 1.2.2.3. Theo mục đích vay vốn: Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng NH chia thành 2 loại: - Cho vay để kinh doanh: là hoạt động NH tài trợ cho các chủ thể kinh tế để đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá. Theo hình thức phân chia này thì cho vay để kinh doanh là hoạt động tạo ra lợi nhuận lớn nhất cho NH. Khách hàng thuộc loại này chủ yếu là các DN. - Cho vay để tiêu dùng: là hoạt động cho vay đối với các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm, nhà cửa, phương tiện đi lại, hàng hoá tiêu dùng ... Cho vay tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc bán chịu hàng hoá. 1.2.2.4. Theo nghiệp vụ cho vay: NH chia thành các nghiệp vụ chính sau: - Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó NH cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn đó gọi là hạn mức thấu chi. Đây là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có TSĐB... nên NH chỉ áp dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn, kì thu nhập ngắn... - Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của NH đối với các khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, không đủ điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Nghiệp vụ này chỉ xuất hiện khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt, tức vốn NH chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh. - Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ cho vay theo đó NH thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng này được cấp trên cơ 13 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn chủa khách hàng đầu kì hay cuối kì kinh doanh. - Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. NH sẽ cho DN đang thiếu vốn vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi DN bán hàng. NH và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau về hình thức vay, hạn mức tín dụng, nguồn cung cấp hàng hoá cũng như khả năng tiêu thụ. trong đó hạn mức tín dụng có thể thoả thuận trong một hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn NH xem xét mối quan hệ với khách hàngvà quyết định cho vay nữa không tuỳ mối quan hệ giữa NH và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng. - Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay trong đó NH cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần, trong thời hạn tín dụng thoả thuận. Cho vay trả góp áp dụng cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho TSCĐ, hàng hoá lâu bền và cũng có thể cho vay trả góp đối với người tiêu dùng. Đây là loại hình cho vay rủi ro cao vì khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của khách hàng. Do vậy nếu người vay mất việc làm, thu nhập giảm thì khả năng thu nợ của NH bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đây là nghiệp vụ đòi hỏi NH phải đánh giá khách hàng kĩ lưỡng. Một đặc điểm khác là khách hàng khi vay trả góp không mấy nhạy cảm với lãi suất mà thường chỉ quan tâm đến khoản tiền phải trả mỗi lần và tài sản sinh ra từ khoản vay. Vì vậy lãi suất cho vay trả góp là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của NH. - Cho vay gián tiếp: Ít được áp dụng: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. NH cho vay qua các tổ, hội, đội, nhóm như nhóm sản xuất, hội nông dân... để đưa vốn vay đến tận các thành viên của các tổ chức này. 1.2.2.5. Phân loại khác: 14 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 - Theo rủi ro tín dụng: gồm tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề. - Theo ngành kinh tế: cho vay ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. - Theo đối tượng tín dụng: TSCĐ, TSLĐ. Qua đây ta thấy có rất nhiều hình thức cho vay, đảm bảo được sự đa dạng trong việc cung cấp vốn cho các ngành, khu vực kinh tế. 1.2.3. Vai trò của vốn vay NH đối với các DNNQD: Bất kì một DN nào muốn tồn tại và phát triển cũng phải vay vốn để tiến hành sản xuất, tiêu thụ hàng hoá. Đặc biệt đối với DNNQD là những DN vừa và nhỏ có quy mô tài chính nhỏ bé thì vốn vay là một yếu tố có tác động sống còn của các DN này. Ở nước ta có rất nhiều hình thức để DN vay song chung quy lại có 2 hình thức cơ bản sau: + Tín dụng thương mại: Là hợp đồng vay vốn từ bạn hàng tức là vay của nhà cung cấp hàng hoá. Nguồn vốn này được khai thác tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu hay mua bán trả góp. Đây là một hình thức cho vay rất tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh, tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh lâu dài. Hình thức này phát sinh chủ yếu dựa vào mối quan hệ tin cậy giữa các bạn hàng. Tuy nhiên hình thức này cũng gặp nhiều rủi ro khi mối quan hệ bị rạn nứt, khả năng xù nợ là rất cao, lãi suất cho vay có thể biến động dẫn đến những lãi suất cắt cổ và bị giới hạn về số lượng tín dụng cũng như giới hạn về số bạn hàng, khả năng mở rộng ngành nghề là không cao, ít tự chủ về tài chính. - Loại hình thứ 2 là tín dụng NH: Là hoạt động cho vay khắc phục được những hạn chế của tín dụng thương mại. Các chủ thể kinh tế khi cho vay vốn NH sẽ giúp họ san sẻ rủi ro được với NH mà không bị chia sẻ quyền lực. Mặt khác, NH xây dựng chính sách lãi suất hợp lí, ổn định đảm bảo cho các chủ thể kinh tế yên tâm kinh doanh, mở rộng sản suất kinh doanh, đầu tư vào các lĩnh vực có nhiều lợi nhuận đòi hỏi vốn bỏ ra phải lớn. Do 15 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 vậy tín dụng NH mà trong đó hoạt động cho vay là chủ yếu có vai trò quan trọng đối với các DNNQD cụ thể như sau: 1.2.3.1. Giải quyết nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNQD: - DNNQD chủ yếu là các DN vừa và nhỏ do vậy có chu kì sản suất và quay vong vốn nhanh, đòi hỏi phải thường xuyên bổ sung vốn lưư động vượt khả năng vốn tự có của DN. Vì vậy hoạt động cho vay ngắn hạn của NHTM là nguồn vốn bổ sung vốn lưu động rất cần thiết đối với các DNNQD. Từ khâu sản xuất đến lúc tiêu thụ, thu được lợi nhuận thì DN phải bỏ ra rất nhiều chi phí, lượng vốn tự có không thể đáp ứng được do đó sử dụng vốn vay của NH cho phù hợp với từng giai đoạn, chu kì kinh doanh là hết sức quan trọng. Vốn vay NHTM đảm bảo ổn định sản xuất, lưu thông hàng hoá, đảm bảo tính đầy đủ, kịp thời cho từng giai đoạn, chu kì sản xuất kinh doanh của DN.Giúp các DN thu được lợi nhuận ngày càng cao nghĩa là khả năng thu cả gốc và lãi khoản cho vay của NH càng lớn. 1.2.3.2. Giúp các DN có tình hình tài chính lành mạnh, sổ sách kế toán chính xác theo quy định, đánh giá đúng thực lực các DNNQD: - Hoạt động cho vay của NHTM là hoạt động tạo ra lợi nhuận lớn nhất cho NH song NH cũng gặp rất nhiều rủi ro từ hoạt động này. Bởi vậy trước khi cho vay thì NH phải thực hiện việc xếp loại, đánh giá tình hình hoạt động, tình hình tài chính... của các DN. Nhiều DN gặp khó khăn trong hạch toán kế toán đã dựa vào các bản báo cáo thẩm định để thấy rõ hoạt đông của mình, tìm ra những ưu thế cũng như những khó khăn mà mình gặp phải từ đó có kế hoạch phát triển thế mạnh về sản phẩm, có khả năng cạnh tranh hơn. Đồng thời qua đó giúp họ có khả năng tự hạch toán được sổ sách kế toán của DN mình, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước. Qua đây, ta thấy có sự gắn chặt giữa hoạt động của DN và của NH, thấy được 16 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 sự giám sát chặt chẽ của NH đối với DN, buộc các DN phải hoạt động theo những điều đã cam kết trong hợp đồng vay vốn với NH. 1.2.3.3. Tăng sức cạnh tranh của các DN thông qua đẩy mạnh cải tiến công nghệ, mua sắm trang thiết bị, thu hút nhân lực có trình độ: - Trước đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng, các DN muốn tồn tại được thì phải tạo ra được những sản phẩm mới, chất lượng cao và giá thành thấp nhất, muốn vậy các DN phải không ngừng đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị tiên tiến, hiện đại. Đặc biệt các DNNQD ở Việt Nam chủ yếu phục vụ trong các ngành sản xuất và dịch vụ, không có tính độc quyền thì sự thay đổi này càng phải lớn mới có khả năng cạnh tranh với nhau được. Và vốn vay các NHTM chính là điều kiện tiên quyết quá trình đổi mới kể cả chiều rộng (mở rộng quy mô) mà cả chiều sâu ( mua sắm máy móc hiện đại, năng cấp máy móc cũ) cho các DN để các DN đủ sức cạnh tranh trong nước và có thể cạnh tranh với cả DN nước ngoài. Mặt khác, khi có vốn thì các DN mới đảm bảo được các phúc lợi cho người lao động từ đó có thể thu hút được các nhân công có trình độ cũng như đào tạo được đội ngũ lao động có chất lượng, tận tụy với sự phát triển của DN. 1.2.3.4. Giảm chi phí cho các DNNQD: Các DNNQD không được nhà nước tài trợ về vốn do vậy họ đi vay là chủ yếu. Khi vay của các tổ chức tài chính, DN khác thì họ gặp rất nhiều khó khăn, chịu sự chèn ép về lãi suất và thời hạn. Do vậy NHTM chính là giải pháp để họ giảm chi phí cho các DNNQD tạo thuận lớn và làm ăn có hiệu quả hơn. 1.2.4. Chất lượng cho vay của các NHTM đối với các DNNQD: 1.2.4.1. Khái niệm về chất lượng cho vay: 17 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Cho vay là hoạt động quan trọng bậc nhất của NH do vậy hoạt động này phải đạt chất lượng cao thì mới thúc đẩy sự phát triển của NH. Vậy như thế nào là cho vay có hiệu quả ? Trước đây, các NH dựa vào tiêu chí an toàn cho vay để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay đạt chất lượng cao chỉ khi các khoản vay không có hoặc ít tổn thất và ngược lại. Theo đó nâng cao chất lượng đồng nghĩa với giảm tổn thất. Song với đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, đòi hỏi của sự cạnh tranh và nhu cầu của người tiêu dùng thì chất lượng cho vay không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo an toàn cho NH mà với mỗi chủ thể khác nhau trong nền kinh tế đều đạt một ích lợi riêng. Cụ thể như sau: - Xét dưới góc độ NH: Chất lượng cho vay được thể hiện ở mức độ, phạm vi và sự phù hợp của tín dụng với quy định, khả năng của mỗi khách hàng, đảm bảo sức cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo được tính an toàn trong hoạt động cho vay đồng thời phải tạo ra lợi nhuận lớn nhất cho NH. Như vậy chất lượng cho vay đối với NH đó là tổng dư nợ ngày càng cao để lợi nhuận đạt được ngày càng lớn hơn, trong đó tỉ lệ nợ quá hạn phải đảm bảo đúng quy định, hợp lí. Mặt khác, cũng phải đảm bảo sự hợp lí cơ cấu của các khoản vay như các khoản trung, dài, ngắn hạn. Tuy vậy, chất lượng tín dụng theo quan niệm của mỗi NH là khác nhau, có NH đặt tiêu chí tăng dư nợ lên hàng đầu còn các NH nhỏ để đảm bảo tính an toàn thì chỉ nên cho vay trong mức độ và phạm vi nhất định. - Xét dưới góc độ khách hàng (là DNNQD): Chất lượng cho vay xét dưới giác độ khách hàng được thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng đối với hoạt động cho vay của NH. Sự thoả mãn ấy được thể hiện ở khối lượng cho vay được NH cung cấp, tính kịp thời, hợp lí của khoản vay về cả thời gian và chi phí để có được nguồn vốn NH. Như vậy, đối với khách hàng, chất lượng cho vay cao khi 18 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 thời hạn vay là đơn giản, nhanh gọn nhất trong khi hiệu quả sử dụng vốn vay là cao nhất, tạo cho họ nhiều lợi ích nhất. Qua đấy ta thấy, có sự xung đột về lợi ích về quan niệm chất lượng cho vay giữa NH và khách hàng, đòi hỏi phải có sự hợp lí để dung hoà cả lợi ích của NH và khách hàng. Đặc biệt DNNQD có nguồn vốn chủ yếu là đi vay các NHTM nên chất lượng cho vay của NHTM có tính chất quan trọng quyết định đến sự “thành - bại” trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. - Xét dưới góc độ nền kinh tế: Chất lượng cho vay xét dưới giác độ của nền kinh tế thể hiện ở sự đóng góp của hoạt động cho vay đối với sự phát triển kinh tế xã hội mà biểu hiện của nó là đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Ở nước ta, nguồn ngân sách nhà nước còn hết sức hạn hẹp do đó NHTM chính là trung gian tài chính cung cấp hầu hết vốn cho mọi hoạt động kinh tế, có tính chất quyết định đến sự phát triển kinh tế. Nền kinh tế coi hoạt động cho vay của NHTM đạt chất lượng cao khi cung cấp được nhiều vốn nhất phục vụ mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế để từ đó tạo được nhiều việc làm cho người lao động, tạo khối lượng sản phẩm ngày càng tăng cho xã hội, khai thác hết mọi nguồn lực của đất nước. Muốn vậy, NHTM không ngừng thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, mở rộng hợp tác với nước ngoài để tranh thủ vay vốn nước ngoài làm lợi cho đất nước. Như vậy chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng. Có thể được cụ thể bằng chỉ tiêu định lượng vừa trừu tượng bằng các chỉ tiêu định tính. Song tóm lại chất lượng cho vay đạt cao nhất khi thoả mãn, điều hoà được tất cả các lợi ích xã hội, thúc đẩy được mọi ngành nghề, vùng kinh tế cùng phát triển. 1.2.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay đối với DNNQD: 19 Website: http://www.docs.vn Email : [email protected] Tel (: 0918.775.368 Hoạt động cho vay của NHTM gặp rất nhiều rủi ro đặc biệt khi khách hàng là các DNNQD có quy mô vừa và nhỏ, đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động thì khả năng mất vốn của NHTM là rất lớn. Do vậy muốn xây dựng được hệ thống chỉ tiêu định lượng đánh giá chất lượng cho vay thì cần dựa vào các chỉ tiêu định tính sau đây. - Dựa vào cơ sở pháp lí: Hoạt động cho vay của NH đạt được chất lượng khi chấp hành đúng các quy định của pháp luật, cụ thể là quy chế cho vay, các văn bản chỉ đạo của chính phủ cũng như các quyết định của NHNN. Chẳng hạn như quyết định 493 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của thống đốc NHNN. - Dựa vào quy chế cho vay của NHTM: Hoạt động cho vay của các NHTM đều phải tuân thủ theo quy chế, quy trình nghiệp vụ này được áp dụng cho từng trường hợp xin vay ở mỗi NHTM là nhằm thực hiện cho vay có chất lượng. Vì vậy việc tuân thủ các quy chế, trình độ nghiệp vụ cho vay là tiền đề để đánh giá chất lượng tín dụng. Muốn tất cả các NHTM thực hiện tốt quy chế cho vay thì các NHTMNN phải là lực lượng đi đầu thực hiện nghiêm túc các quy chế này. - Dựa vào hợp đồng cho vay: Khi tiến hành hoạt động cho vay giữa NH và khách hàng phải thoả thuận và cam kết bằng văn bản các nghĩa vụ mà mỗi bên phải thực hiện gọi là hợp đồng cho vay. Hoạt động cho vay có chất lượng nếu nó thực hiện theo đúng cam kết đã thoả thuận trong hợp đồng. Các cam kkết này bao gồm: mục đích sử dụng vốn vay, cam kết thời hạn giải ngân và trả nợ của NH, khách hàng, phương thức trả nợ, trả lãi và các điều khoản ràng buộc về lợi ích, nghĩa vụ khác. Đây là một căn cứ rất quan trọng để NH xem xét việc cho vay của mình có hiệu quả hay không, đánh giá rõ nhất về tình hình các khách hàng của mình. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan