LUẬN VĂN:
Cơ cấu tổ chức quản lý trong các doanh
nghiệp ở Việt Nam theo hướng đổi mới
Lời mở đầu
"Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, chúng tôi sẽ đảo lộn cả
nước Nga". Câu nói bất hủ ấy của V.I. Lênin cho chúng ta hiểu rõ tổ chức và vai trò của
tổ chức. Người còn nói: "Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vô sản không
có vũ khí nào khác hơn là tổ chức". Khi giai cấp đã nắm chính quyền rồi, người còn nói:
"Lĩnh vực trọng yếu nhất và khó khăn nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ tổ chức". Thực hiện di huấn của Lênin, những người cộng sản Việt Nam hết
sức coi trọng công tác tổ chức. Khi Đảng đã có đường lối chính trị đúng đắn thì công tác
tổ chức và cán bộ là một nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của nhiệm vụ cách
mạng. Thực hiện nhiệm vụ của một ngành hay một cơ quan bất kỳ nào trong hệ thống
chính trị của chúng ta cũng đòi hỏi có một hình thức tổ chức thích hợp. Thắng lợi của
cách mạng nước ta là minh chứng cho vai trò của tổ chức.
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của hệ thống các doanh nghiệp là
vấn đề rất hệ trọng trong đường lối phát triển kinh tế, đồng thời, rất nhạy cảm về chính
trị, liên quan tới sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vì vậy, quản lý
các doanh nghiệp có hiệu quả là một công việc hết sức quan trọng, mà trong phạm vi
nghiên cứu các Doanh nghiệp công tác tổ chức đóng một vai trò quyết định đối với sự
thành bại của Doanh nghiệp. Căn cứ vào mục tiêu của Doanh nghiệp và sự biến động của
môi trường trong mỗi thời kỳ, các nhà quản trị cấp cao thường đưa ra những quyết định
về tổ chức nhằm tạo ra một cơ cấu tổ chức phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ.
Tổ chức là nguyên nhân của những nguyên nhân. Tổ chức là một vấn đề hết sức phức
tạp và quan trọng đối với việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước nói
chung và của các Doanh nghiệp nói riêng, đòi hỏi phải được đối xử như một ngành khoa
học, nghĩa là phải được nghiên cứu và học tập.
Trong đề tài này em chú tâm nghiên cứu một số vấn đề về Cơ cấu tổ chức quản lý
trong cỏc doanh nghiệp ở Việt Nam theo hướng đổi mới. Với kết cấu nội dung đề tài
như sau:
Chương I: Tổng quan về công tác tổ chức
Chương II: Cơ cấu tổ chức quản lý
Chương III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp theo
hướng đổi mới
chương I:
Tổng quan về công tác tổ chức
1. Khái niệm về tổ chức
1.1 Định nghĩa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về "Tổ chức", một định nghĩa có ý nghĩa triết học sâu
sắc: "Tổ chức, nói rộng, là cơ cấu tồn tại của sự vật. Sự vật không thể tồn tại mà không
có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc
tính của bản thân các sự vật". Định nghĩa này bao quát cả phần tự nhiên và xã hội loài
người. Thái dương hệ là một tổ chức, tổ chức này liên kết mặt trời và các thiên thể có
quan hệ với nó, trong đó có trái đất. Bản thân trái đất cũng là một tổ chức, cơ cấu phù
hợp với vị trí của nó trong thái dương hệ. Giới sinh vật cũng có một tổ chức chặt chẽ bảo
đảm sự sinh tồn và thích nghi với môi trường để không ngừng phát triển. Từ khi xuất
hiện loài người, tổ chức xã hội loài người cũng đồng thời xuất hiện. Tổ chức ấy không
ngừng hoàn thiện và phát triển cùng với sự phát triển của nhân loại. Theo nghĩa hẹp đó,
tổ chức là một tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung
hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó.
Mặt khác, theo Chester I. Barnard thì tổ chức là một hệ thống những hoạt động hay
nỗ lực của hai hay nhiều người được kết hợp với nhau một cách có ý thức. Nói cách khác,
khi người ta cùng nhau hợp tác và thoả thuận một cách chính thức để phối hợp những nỗ
lực của họ nhằm hoàn thành những mục tiêu chung thì một tổ chức sẽ được hình thành.
1.2 Những đặc điểm chung của tổ chức :
Theo các nhà tâm lý học tổ chức thì có 4 đặc điểm chung đối với tất cả các tổ chức
là:
Thứ nhất, kết hợp các nỗ lực của các thành viên : Như chúng ta thường thấy, khi
các cá nhân cùng nhau tham gia và phối hợp những nỗ lực vật chất hay trí tuệ của họ thì
nhiều công việc phức tạp và vĩ đại có thể được hoàn thành. Chẳng hạn , việc xây dựng
các Kim tự tháp, việc đưa con người lên mặt trăng...là những công việc vượt xa trí thông
minh và khả năng của bất cứ cá nhân nào. Sự kết hợp nỗ lực nhân lên đóng góp của mỗi
cá nhân.
Thứ hai, có mục đích chung : Sự kết hợp các nỗ lực không thể thực hiện được nếu
những người tham gia không nhất trí cùng nhau phấn đấu cho những quyền lợi chung nào
đó. Một mục tiêu chung đem lại cho các thành viên của tổ chức một tiêu điểm để tập hợp
nhau lại.
Thứ ba, phân công lao động : Bằng cách phân chia một cách hệ thống các nhiệm vụ
phức tạp thành những công việc cụ thể, một tổ chức có thể sử dụng nguồn nhân lực của
nó một cách có hiệu quả. Phân công lao động tạo điều kiện cho các thành viên của tổ
chức trở nên tài giỏi hơn do chuyên sâu vào một công việc cụ thể.
Thứ tư, hệ thống thứ bậc quyền lực : Các nhà lý thuyết về tổ chức định nghĩa quyền
lực là quyền ra quyết định và điều khiển hành động của những người khác. Nếu không có
một hệ thống thứ bậc quyền lực rõ ràng thì sự phối hợp những cố gắng của các thành viên
sẽ rất khó khăn. Một trong những biểu hiện của hệ thống thứ bậc là hệ thống ra mệnh
lệnh và sự phục tùng.
Những đặc điểm trên đây là rất cần thiết để xác định sự hiện diện của một tổ chức.
1.3 Phân loại tổ chức
Các tổ chức được thành lập nhằm theo đuổi những mục tiêu nào đó và có thể phân
loại các tổ chức theo mục đích của chúng. Cách phân loại này cho phép giải thích vai trò
của mỗi loại tổ chức mà chúng đảm nhiệm trong xã hội.
Các tổ chức kinh doanh mưu lợi : Là các tổ chức hoạt động với mục đích tạo ra lợi
nhuận trong điều kiện pháp luật cho phép và xã hội có thể chấp nhận được. Loại tổ chức
này không thể tồn tại được nếu không tạo ra được lợi nhuận thông qua con đường sản
xuất ra sản phẩm hay dịch vụ thoả mãn nhu cầu của xã hội.
Các tổ chức cung cấp dịch vụ phi lợi nhuận : Các tổ chức này thường cung cấp một
số loại dịch vụ nào đó, cho một khu vực nào đó của xã hội không vì mục đích tìm lợi
nhuận. Các nguồn ngân quỹ phục vụ cho hoạt động của loại tổ chức này chủ yếu dựa vào
sự hiến tặng, trợ cấp, tài trợ mang tính từ thiện hay nhân đạo...
Các tổ chức hoạt động vì quyền lợi chung của tập thể : Những tổ chức này được
thành lập nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các thành viên của nó. Những tổ chức loại
này bao gồm các nghiệp đoàn, các hiệp hội, các tổ chức chính trị...
Các tổ chức cung ứng các dịch vụ công cộng : Những tổ chức loại này được thành
lập nhằm cung cấp cho xã hội những dịch vụ công cộng, mục tiêu của chúng là đảm bảo
cho sự an toàn hay các lợi ích chung của toàn xã hội.
2. Một số quy luật cơ bản của tổ chức
2.1 Quy luật mục tiêu rõ ràng và tính hiệu quả của tổ chức.
Trong quá trình hoạt động, từng con người hay từng tập thể lớn, nhỏ đều xác định
cho mình một mục tiêu tiến tới. Từ mục tiêu ấy, định hình tổ chức phù hợp để thực hiện
có hiệu quả nhất mục tiêu đó. Vì vậy, tổ chức là công cụ thực hiện mục tiêu. Mục tiêu
càng rõ ràng thì thiết kế tổ chức càng thuận lợi và việc vận hành tổ chức đạt đến mục tiêu
sẽ thuận buồm xuôi gió và đạt hiệu quả cao nhất. Quy luật này được xem là quan trọng
nhất.Tuy nhiên, việc xác định mục tiêu lại chính là vấn đề nan giải nhất của bất kỳ tổ
chức nào. Mục tiêu là cái đích phải đạt tới của tổ chức, mục tiêu quy định quy mô và cấu
trúc của tổ chức. Khi xác định mục tiêu, người ta thường dùng "cây mục tiêu" để xác
định và phân loại thành mục tiêu trước mắt hay lâu dài, mục tiêu của quốc gia, của ngành
hay địa phương…
Trong các doanh nghiệp phải xác định mục tiêu chiến lược của mình, và để đạt được
mục tiêu chiến lược người ta thường phân chia thành từng giai đoạn dài, ngắn khác nhau
và xác định mục tiêu cụ thể. Nếu mục tiêu của hệ thống là mục tiêu chiến lược thì cũng
có thể coi mục tiêu của các đơn vị cấu thành là mục tiêu cụ thể. Và trong trường hợp này,
mục tiêu chiến lược của hệ thống còn là mục tiêu cụ thể của hệ thống lớn hơn. Hiệu quả
của tổ chức bắt đầu từ việc xác định mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể cũng như
mục tiêu của hệ thống và mục tiêu của tổ chức hợp thành.
Xác định mục tiêu là công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi người lãnh đạo hệ thống
tổ chức phải tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm lịch sử và dự báo chính xác tương lai thì
mới có thể xác định mục tiêu được đúng đắn. Người lãnh đạo tổ chức hợp thành phải
hiểu sâu sắc mục tiêu của hệ thống để xác định mục tiêu của tổ chức mình phù hợp với
mục tiêu của hệ thống, góp phần bảo đảm đạt được mục tiêu của hệ thống một cách hiệu
quả nhất. Số lượng mục tiêu càng ít càng tốt và càng ít càng khó đối với người xác định
mục tiêu, hoạch định đường lối. Tổ chức có nhiều mục tiêu thường đạt hiệu quả kém. Khi
xác định mục tiêu, người ta xây dựng "cây mục tiêu" và phải lựa chọn mục tiêu ưu tiên
trong số nhiều mục tiêu và tốt hơn nữa là xếp hạng mục tiêu ưu tiên. Việc lựa chọn mục
tiêu ưu tiên là khắc phục tình trạng đa mục tiêu của tổ chức. Bằng kinh nghiệm thực tiễn
người ta thấy rằng tổ chức cơ sở chỉ nên có không quá ba mục tiêu.
Khi xác định mục tiêu, người ta rất chú ý tới tính khả thi của việc xác định đó. Những
công trình nghiên cứu của David Meclelland đã phát hiện rằng những cá nhân có thành
tích cao thường do đặt ra những mục tiêu vừa mức khó nhưng có thể nắm bắt và điều
khiển được. Vừa mức khó khăn có nghĩa là đòi hỏi cá nhân hoặc tổ chức phải hoạt động
rất căng thẳng mới đạt được mục tiêu. Theo người phương Tây thường nói mục tiêu tốt là
mục tiêu SMART, SMART là từ viết tắt năm chữ đầu của năm từ chỉ nhân tố quan trọng
nhất trong xác định mục tiêu: S (Specific) đặc thù, M (Measurable) đo đạc được, A
(Attainable) khả thi, R (Relevant) thích hợp và T(Trackable) theo dõi được.
Khi đã xác định được mục tiêu, phải hình thành tổ chức để thực hiện mục tiêu. Quy
luật này của tổ chức đòi hỏi tổ chức được thiết kế thành công, nhưng khi vận hành thực
hiện mục tiêu đòi hỏi có hiệu quả. Để xác định hiệu quả của tổ chức phải xác định được
ba yếu tố: Yếu tố đầu vào, yếu tố quản lý vận hành và yếu tố kết quả của tổ chức. Sự
chênh lệch giữa yếu tố kết quả và yếu tố đầu vào là hiệu quả của tổ chức, hiệu quả đó
được đảm bảo bằng yếu tố quản lý, vận hành của người lãnh đạo tổ chức.
2.2 Quy luật hệ thống
Nói đến tổ chức là nói đến hệ thống của tổ chức, vì tổ chức bao giờ cũng được đặt
vào hệ thống của nó. Sức mạnh của tổ chức là hệ thống của tổ chức. Khi thiết kế một tổ
chức bao giờ ta cũng thiết kế cấu trúc của nó, tức là xây dựng nó thành hệ thống và lại đặt
nó vào hệ thống lớn hơn bao trùm lên nó. Bản thân tổ chức mang tính hệ thống. Sức
mạnh của hệ thống tuỳ thuộc ở sự liên kết giữa các tổ chức thành viên trật tự hay hỗn
loạn, điều khiển được hay không điều khiển được.
Hệ thống là một tập hợp gồm các phần tử liên kết với nhau trong những mối liên hệ
nhất định với những tính chất nhất định. Cốt lõi của quan điểm hệ thống khi xem xét một
tổ chức là phát hiện và phân tích các mối quan hệ và tính chất của các mối quan hệ đó
giữa các yếu tố hay các chức năng của đối tượng. Các mối quan hệ này buộc các yếu tố,
các bộ phận lại với nhau trong một cấu trúc, chúng tạo nên sự thống nhất giữa bộ phận và
toàn thể của tổ chức hay của hệ thống. Quan điểm hệ thống này được các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mac - Lênin nêu lên thành luận điểm khoa học trong học thuyết duy vật
biện chứng về sự thống nhất vật chất của thế giới và mối quan hệ giữa chúng. Lý thuyết
hệ thống đã tạo ra khả năng cho con người mô tả, phân tích, xử lý các mối quan hệ đa
dạng giữa các đối tượng phức tạp của thực tiễn, của hệ thống tổ chức.
Quan hệ cơ bản nhất xác định hoạt động của hệ thống tổ chức là quan hệ vào - ra của
hệ thống tổ chức. Xem xét quan hệ vào ra là xem xét chức năng hoạt động của hệ thống
tổ chức, đồng thời cũng là xét hệ thống trong trạng thái mở, trong sự tương tác của môi
trường, chứ không phải là một hệ thống khép kín. Về mặt thực tiễn, quan hệ vào ra là căn
cứ chủ yếu để xem xét khả năng hoạt động và hiệu quả của tổ chức và của hệ thống. Quy
luật hệ thống không chỉ cho ta thấy cấu trúc của tổ chức, mà còn chỉ cho ta cách quản lý
hay điều khiển tổ chức hoặc hệ thống tổ chức. Qúa trình điều khiển là quá trình tác động
lên hệ thống để biến cái vào thành cái ra theo mục tiêu thiết kế của hệ thống.
Trong hệ thống tổ chức cần quy định rõ quyền hạn trách nhiệm và mối quan hệ của
các tổ chức cùng cấp và các cấp trong hệ thống, Trong hệ thống tổ chức thường bắt đầu
từ tổ chức cơ sở, dù nhỏ thì tổ chức cơ sở cũng mang đầy đủ tính chất của một tổ chức.
Khi tính điều khiển được của tổ chức vượt quá khả năng quản lý thì phải phân cấp và
thành lập bộ phận trung gian. Do nhu cầu phát triển mà các bậc trong tổ chức thay đổi.
Sự thay đổi sẽ bớt khó khăn khi ta quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, quyền
hạn, trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo và quản từng cấp. Các tổ chức cùng cấp tạo nên cơ
cấu hệ thống ngang, các tổ chức trong hệ thống ngang cần có chức năng nhiệm vụ rõ ràng
thì mới không trùng lặp gây lãng phí và làm giảm sức mạnh của tổ chức. Ngoài ra, cần
quy định quan hệ giữa các tổ chức đồng cấp với nhau để phát huy sức mạnh tổng thể của
tổ chức, hệ thống này ví như dây truyền sản xuất trong công nghiệp. Trong hệ thống quản
lý, phân công trong hệ thống đồng cấp càng rõ ràng thì hiệu quả quản lý càng cao.
Phân công và quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cấp trong hệ thống còn
quan trọng hơn, điều này sẽ quyết định hệ thống hoạt động nhịp nhàng hay rối loạn. Nếu
không quy định rõ thì sẽ xảy ra hiện tượng cấp dưới lạm quyền hoặc cấp trên bao biện.
trong hệ thống, khi xảy ra hiện tượng rối loạn chức năng thì phần lớn là do hiện tượng
"vừa đá bóng, vừa thổi còi", người ra quyết định đồng thời lại là người thực hiện quyết
định. Để khắc phục tình trạng trên, không cho phép người lãnh đạo hệ thống lại kiêm
lãnh đạo tổ chức cấu thành hoặc điều khiển bộ phận cấu thành hay nhân viên trong tổ
chức.
2.3 Quy luật cấu trúc đồng nhất và đặc thù của tổ chức
Tổ chức là hệ thống của các tổ chức hợp thành và lại là tổ chức của hệ thống lớn hơn.
Để có thể tập hợp lại trong hệ thống, yêu cầu các tổ chức hợp thành phải có cấu trúc đồng
nhất, sự đồng nhất đó là điều kiện hình thành một hệ thống. Một hệ thống đa chức năng
có thể có nhiều tổ chức có chức năng khác nhau, nhưng cần mang tính đồng nhất, ít nhất
là đồng nhất về cơ chế quản lý. ở thời kỳ thay đổi cơ chế quản lý thường thấy sự hợp nhất
các tổ chức không hợp nhất hoặc chia tách các tổ chức đặc thù. Tính đặc thù cũng tạo nên
sắc thái của tổ chức, truyền thống của tổ chức. Việc tách, nhập quá nhiều và thường
xuyên đổi tên làm cho các tổ chức mất cả truyền thống của mình, một tổ chức khoa học
nằm ở vùng giao thoa của nhiều môn khoa học khác nhau không thể ghép vào một tổ
chức khoa học nào mà phải lập ra một tổ chức riêng mang tính đặc thù của ngành khoa
học giao thoa đó. Đây là quy luật hết sức khắc nghiệt. Tuy nhiên, xác định tính đồng nhất
không phải lúc nào cũng làm được, nhất là khi hệ thống còn chịu sự tác động của các tổ
chức khác.
2.4 Quy luật vân động không ngừng và vận động theo quy trình của tổ chức
Bất kỳ một tổ chức nào sau khi ký quyết định thành lập hoặc giấy phép hành nghề, nó
bắt đầu hoạt động, hoạt động liên tục, hoạt động không ngừng. Khi tổ chức ngừng hoạt
động là tổ chức bị phá sản hay giải thể. Hoạt động là điều kiện tồn tại của tổ chức, tổ
chức cũng như cơ thể sống, sự vận động là lẽ sống của nó. Vận động của hệ thống tổ
chức không chỉ liên tục mà còn vận động toàn thể từ những tổ chức hợp thành đến hệ
thống. Tổ chức được thiết kế để thực hiện mục tiêu, quá trình thực hiện mục tiêu là quá
trình vận động của tổ chức, nếu tổ chức không vận động thì không có cách gì để thực
hiện mục tiêu. Nói quy luật động không ngừng là mới chỉ nói một vế, còn vế thứ hai là
vận động theo quy trình của tổ chức, quy trình được quy định cụ thể trong điều lệ hoạt
động của tổ chức. Tuy vận động không ngừng nhưng bộ máy tổ chức không phải là động
cơ vĩnh cửu, mà nó cũng cần năng lượng để hoạt động. Nguồn năng lượng đó chính là
các quyết định của cơ quan quản lý, sản phẩm của bộ máy lãnh đạo và quản lý là các
quyết định, việc tổ chức và thực hiện các quyết định là nhiệm vụ chính của nó. Đó chính
là năng lượng mà lãnh đạo cấp cho bộ máy tổ chức. Do đó, cần ban hành và thực hiện chế
độ chuẩn bị và thông qua các quyết định. Tuân thủ quy luật khách quan này, khi thiết kế
tổ chức, ngoài thiết kế hệ thống, còn phải xác định cơ chế vận hành của bộ máy tổ chức,
bảo đảm cho tổ chức vận động không ngừng và đúng theo quy trình đã xác định. Tuy
nhiên, trong quá trình vận hành cần có điều chỉnh, bằng các quyết định của cấp trên hay
của lãnh đạo tổ chức, bảo đảm cho tổ chức vận động không ngừng và đúng quy trình,
đồng thời bảo đảm cho tổ chức tự điều chỉnh.
2.5 Quy luật tự điều chỉnh của tổ chức
Quá trình vận động thực hiên mục tiêu, mỗi tổ chức tiến hành trong môi trường riêng
của mình. Môi trường ấy luôn thay đổi, nên bản thân tổ chức phải tự điều chỉnh để tạo ra
những cân bằng mới phù hợp với sự biến động của môi trường, nhằm đạt mục tiêu một
cách có hiệu quả nhất. Vì vậy, tổ chức nào biết tự điêu chỉnh là tổ chức linh hoạt và có
sức sống. Để cho tổ chức tự điều chỉnh được, khi thiết kế đã phải lưu ý tạo hành lang cho
tổ chức tự điều chỉnh ngay trong quá trình thực hiện mục tiêu. Những cơ chế quản lý, chế
độ, chính sách của Đảng và Nhà nước, của hệ thống tạo điều kiện và cho phép tổ chức tự
điều chỉnh. Tuy nhiên, không điều chỉnh hộ tổ chức, mà trước hết và cần thiết là tổ chức
tự điều chỉnh. Quy luật tự điều chỉnh thích hợp mọi loại hình, mọi cấp tổ chức khác nhau.
Điều cần lưu ý là cần làm rõ quyền hạn của mỗi cấp trong giới hạn cho phép tự điều
chỉnh mà ta quen gọi là "hành lang" hợp lý của tổ chức trong quá trình điều chỉnh.
3. Tổ chức là một khâu quyết định đối với việc thực hiện thắng lợi đường lối,
chính sách của Đảng
V.I. Lênin, người thầy của cách mạng vô sản, đã từng nói: Trong cuộc chiến tranh
giành chính quyền, giai cầp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là tổ chức. Và khi đã có
chính quyền, lĩnh vực trọng yếu nhất và khó khăn nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ tổ chức. Có lúc trong quá trình lãnh đạo cách mạng Nga, Người đã nêu
vấn đề một cách gay gắt: Toàn bộ nhiệm vụ của Đảng cầm quyền là …tổ chức, tổ chức
và tổ chức.
Trước đó nhiều thập kỷ, Các Mác đã chỉ rõ: Tư tưởng căn bản không thể thực hiện
được cái gì hết. Muốn thực hiện được tư tưởng cần có những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn. "Những con người thực hiện lực lượng thực tiễn" ở đây chính là tổ chức
và tổ chức việc thực hiện. Rút kinh nghiệm không thành công của các nhà yêu nước tiền
bối và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bắt đầu sự nghiệp lãnh
đạo cách mạng Việt Nam bằng việc để rất nhiều tâm chí và tiến hành một cách rất cụ thể,
công phu việc xây dựng tổ chức Đảng cách mạng và các tổ chức quần chúng xung quanh
Đảng. Khi Đảng đã cầm quyền, Người lại đầu tư nhiều công sức chỉ đạo xây dựng chính
quyền cách mạng thực sự là công bộc của dân, xây dựng lực lượng vũ trang thực sự từ
nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ. Trong di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân
Người đã nhấn mạnh: Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu
tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Sau hơn nửa thế kỷ lãnh đạo thành công cách mạng Việt Nam, năm 1982, Đại hội
toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Tổ chức là một khâu
quyết định đối với việc thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng. Đảng ta
không những đã thể hiện bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đề ra đường lối
cách mạng, mà còn cả trong tổ chức thực hiện, nên đã nhân sức mạnh của dân tộc ta lên
gấp nhiều lần, chiến thắng các kẻ thù hùng mạnh và tàn bạo nhất thời đại.
Muốn cho tư tưởng, đường lối, chính sách được thực hiện, phải có tổ chức, phải tổ
chức con người lại với những phương tiện nhất định, chỉ đạo mọi người hành động theo
đúng những mục tiêu, phương hướng do tư tưởng đó xác định. Chính trên ý nghĩa ấy,
chúng ta nói: Khi Đảng đã có đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng đắn thì công tác tổ
chức, cán bộ và công tác quản lý bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ chính
trị. Đường lối nhiệm vụ chính trị và công tác tổ chức, quản lý có mối liên hệ hữu cơ,
không thể tách rời nhau.
Bên cạnh những thành công, thắng lợi vĩ đại đó, chúng ta cũng còn nhiều yếu kém:
Đất nước còn nghèo nàn, kém phát triển; chưa cần kiệm trong sản xuất, tiêu dùng và dồn
công sức cho đầu tư phát triển; quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn bộc lộ nhiều non
yếu; hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm; tổ chức bộ máy còn cồng kềnh…
1. Khái niệm cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức là tổng hợp các bộ phận có mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, được
chuyên môn hoá, có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm nhất định, được bố trí
theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm thực hiện những hoạt động của tổ chức và
tiến tới những mục tiêu đã xác định.
Cơ cấu tổ chức là một hệ thống các mối liên hệ hoạt động chính thức bao gồm nhiều
công việc riêng lẻ, cũng như những công việc tập thể. Sự phân chia công việc thành
những phần việc cụ thể nhằm xác định ai sẽ làm công việc gì và sự kết hợp nhiều công
việc cụ thể nhằm chỉ rõ cho mọi người thấy họ cũng phải cùng nhau làm việc như thế
nào. Cơ cấu của tổ chức giúp cho nhân viên cùng làm việc với nhau một cách có hiệu quả
bởi:
- Phân bổ nguồn nhân lực và các nguồn lực khác cho từng công việc cụ thể
- Xác định rõ trách nhiệm và cách thức thể hiện vai trò của mỗi thành viên theo quy
chế của bản mô tả công việc, sơ đồ tổ chức và hệ thồng phân cấp quyền hạn trong tổ
chức.
- Làm cho nhân viên hiểu những kỳ vọng của tổ chức đối với họ thông qua các quy
tắc, quy trình làm việc và những tiêu chuẩn về thành tích mỗi công việc.
-
Xác định quy chế thu thập, xử lý thông tin để ra quyết định và quyết các vấn đề
của tổ chức.
2. Những yêu cầu đối với cơ cấu tổ chức quản lý
2.1 Tính tối ưu: cơ cấu chức năng quản lý phải bảo đảm mối quan hệ tốt nhất giữa
các khâu và các cấp quản lý phải được thiết lập nên những mối quan hệ hợp lý với số
lượng cấp quản lý ít nhất trong hệ thống nhờ đó cơ cấu tổ chức quản lý sẽ mang tính năng
động cao, luôn luôn đi sát và phục vụ mục đích đề ra của hệ thống.
2.2 Tính linh hoạt: cơ cấu tổ chức quản lý phải có khả năng thích ứng linh hoạt với
bất kỳ tình huống nào xảy ra trong hệ thống cũng như ngoài môi trường.
2.3 Tính tin cậy: cơ cấu tổ chức quản lý phải đảm bảo tính chính xác của tất cả các
thông tin được sử dụng trong hệ thống nhờ đó đảm bảo sự phối hợp với các hoạt động và
nhiệm vụ của tất cả các bộ phận hệ thống.
2.4 Tính kinh tế: cơ cấu tổ chức quản lý phải sử dụng chi phí quản lý đạt hiệu quả
cao nhất. tiêu chuẩn xem xét yêu cầu này là mối tương quan giữa chi phí dự định bỏ ra và
kết quả sẽ thu về.
2.5 Tính bí mật: đòi hỏi giữ gìn nội dung hoạt động của mỗi phân hệ và của cả hệ
thống, chống sự rò rỉ thông tin cho các hệ thống ngoài, sự thường xuyên theo dõi của các
hệ thống khác.
3. Những nguyên tắc tổ chức
3.1 Nguyên tắc xác định theo chức năng
Một vị trí công tác hay một bộ phận được định nghĩa càng rõ ràng theo các kết quả
mong đợi, các hoạt động cần tiến hành, các quyền hạn được giao và các mối liên hệ thông
tin với các vị trí công tác hay bộ phận khác, thì những người chịu trách nhiệm càng có thể
đóng góp xứng đáng hơn cho việc hoàn thành mục tiêu của tổ chức.
Đây là nguyên tắc cơ bản chi phối quá trình chuyên môn hoá và hợp nhóm các hoạt
động để hình thành nên các bộ phận và phân hệ của cơ cấu. Việc coi nhẹ nguyên tắc này
dễ dẫn đến nguy cơ về sự lẫn lộn không biết ai sẽ phải làm việc gì. Đây là nguyên tắc đơn
giản về mặt nhận thức nhưng thường rất phức tạp khi vận dụng. Để xác định một vị trí
công tác hay một bộ phận cùng tất cả những yếu tố liên quan đến nó, trong hầu hết các
trường hợp đều cần đến tính nhẫn nại, trí thông minh của những nhà tổ chức, và tính rõ
ràng của các kế hoạch.
3.2 Nguyên tắc giao quyền theo kết quả mong muốn
Việc giao quyền là để trang bị cho người quản lý một công cụ thực hiện mục tiêu, và
do đó quyền được giao cho từng người cần phải tương xứng với nhiệm vụ, đảm bảo cho
họ khả năng thực hiện các kết quả mong muốn.
3.3 Nguyên tắc bậc thang
Tuyến quyền hạn từ người quản lý cao nhất trong tổ chức đến mỗi vị trí bên dưới
càng rõ ràng, thì các vị trí chịu trách nhiệm ra quyết định sẽ càng rõ ràng và các quá trình
thông tin trong tổ chức sẽ càng có hiệu quả.
Việc nhận thức đầy đủ nguyên tắc bậc thang là rất cần thiết cho việc phân định quyền
hạn một cách đúng đắn, bởi vì cấp dưới phải biết ai giao quyền cho họ và những vấn đề
vượt quá phạm vi quyền hạn của họ phải trình cho ai.
3.4 Nguyên tắc tương xứng giữa quyền hạn và trách nhiệm
Do quyền hạn là một quyền cụ thể để tiến hành những công việc được giao và trách
nhiệm là nghĩa vụ phải hoàn thành chúng, về mặt logic điều đó dẫn đến yêu cầu quyền
hạn phải tương xứng với trách nhiệm. Trách nhiệm về các hành động không thể lớn hơn
trách nhiệm nằm trong quyền hạn được giao phó, cũng không thể nhỏ hơn.
Trong thực tế người quản lý thường cố bắt cấp dưới phải có trách nhiệm về các công
việc mà họ không có đủ quyền hạn cần thiết. Điều này có thể làm cho việc thực hiện các
công việc mất đi tính khả thi. Ngược lại, đôi khi quyền hạn được giao đủ, nhưng người
được uỷ quyền lại không có trách nhiệm phải sử dụng đúng đắn quyền hạn đó. Trong
trường hợp này hậu quả thật là tai hại, quyền hạn sẽ bị lạm dụng để mưu cầu những lợi
ích riêng.
3.5 Nguyên tắc về tính tuyệt đối trong trách nhiệm
Cấp dưới phải chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ trước cấp trên trực tiếp
của mình, một khi họ đã chấp nhận sự phân công và quyền hạn thực thi công việc, còn
cấp trên không thể lẩn tránh trách nhiệm về các hoạt động được thực hiện bởi cấp dưới
của mình trước tổ chức.
3.6 Nguyên tắc thống nhất mệnh lệnh
Mối quan hệ trình báo của từng cấp dưới lên một cấp trên duy nhất càng hoàn hảo,
thị mâu thuẫn trong các chỉ thị sẽ càng ít và ý thức trách nhiệm cá nhân trước các kết quả
cuối cùng càng lớn.
Mặc dù có khả năng một cấp dưới nhận được sự uỷ quyền của nhiều cấp trên, những
khó khăn thực tiễn trong việc phải phục vụ nhiều "ông chủ" là điều không tránh khỏi.
Nghĩa vụ cơ bản mang tính cá nhân, và quyền hạn được giao bởi nhiều người cho một
người rất có thể sẽ dẫn tới những mâu thuẫn cả về quyền hạn lẫn trách nhiệm.
3.7 Nguyên tắc quyền hạn theo cấp bậc
Việc duy trì sự phân quyền đã định đòi hỏi các quyết định trong phạm vi quyền hạn
của ai phải được chính người đó đưa ra chứ không được đẩy lên cấp trên.
Từ nguyên tắc này có thể thấy rằng nếu người quản lý mong muốn giao phó quyền
hạn một cách có hiệu quả, họ phải đảm bảo rằng việc uỷ quyền là rõ ràng đối với cấp
dưới. Họ cũng nên tránh lòng ham muốn ra các quyết định thay cho cấp dưới.
Đây là một nguyên tắc rất khó vận dụng trong thực tế. Sẽ dễ dàng hơn nếu những nhà
quản lý nhận thức được quy luật lợi thế tương đối của quản lý tương đồng với quy luật lợi
thế so sánh về kinh tế trong mối quan hệ giữa các quốc gia. Của cải của một nước sẽ
được tăng thêm nếu họ xuất khẩu những sản phẩm sản xuất có hiệu quả thấp và nhập
khẩu những sản phẩm sản xuất kém hiệu quả nhất, ngay cả khi họ có thể sản xuất những
hàng nhập khẩu rẻ hơn nhiều so với các nước khác. Tương tự người quản lý tăng thêm sự
đóng góp của mình cho tổ chức nếu họ chỉ tập trung vào những công việc góp ích nhiều
nhất cho các mục tiêu của tổ chức và giao cho cấp dưới những nhiệm vụ còn lại, ngay cả
khi họ có khả năng làm tốt các nhiệm vụ đó hơn nhiều so với cấp dưới.
3.8 Nguyên tắc quản lý sự thay đổi
Đảm bảo tính linh hoạt của tổ chức cần đưa vào trong cơ cấu các biện pháp và kỹ
thuật dự đoán và phản ứng trước những sự thay đổi. Tổ chức nào được xây dựng cứng
nhắc, với các thủ tục quá phức tạp hay với các tuyến phân chia bộ phận quá vững chắc,
đều có nguy cơ không có khả năng đáp ứng được trước thách thức của những thay đổi về
kinh tế, chính trị, xã hội, công nghệ và sinh thái.
3.9 Nguyên tắc cân bằng
Đây là nguyên tắc cho mọi lĩnh vực khoa học cũng như cho mọi chức năng của nhà
quản lý. Việc vận dụng các nguyên tắc hay biện pháp phải cân đối, căn cứ vào toàn bộ
kết quả của cơ cấu trong việc đáp ứng các mục tiêu của tổ chức. Chẳng hạn, tính phi hiệu
do tầm quản lý quá rộng phải đối trọng với tính phi hiệu quả của các kênh thông tin quá
dài. Những thiệt hại do có quá nhiều nguồn mệnh lệnh phải đối trọng với những lợi ích
của việc sử dụng các chuyên và tính thống nhất trong việc giao quyền hạn chức năng cho
các bộ phận tham mưu và phục vụ. Việc hạn chế chuyên môn hoá theo chức năng trong
khi phân chia bộ phận phải đối trọng với những ưu điểm của việc lập ra các bộ phận chịu
trách nhiệm về lợi nhuận theo sản phẩm, khách hàng hay địa dư.
4 Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức
Khi xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý ta cần quan tâm tới những nhân tố ảnh hưởng
trực tiếp và gián tiếp của việc hình thành, phát triển và hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý
Có thể quy thành hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp:
4.1 Nhóm các nhân tố thuộc đối tượng quản lý
Tình trạng và trình độ phát triển của công nghệ sản xuất của doanh nghiệp.
Tính chất và đặc điểm sản xuất: Chủng loại sản phẩm, quy mô sản xuất, loại hình
sản xuất.
4.2 Nhóm nhân tố thuộc lĩnh vực quản lý
Quan hệ sở hữu tồn tại trong doanh nghiệp.
Mức độ chuyên môn hoá và tập trung hoá các hoạt động quản trị.
Trình độ cơ giới hoá và tự động hoá các hoạt động quản lý, trình độ kiến thức tay
nghề của cán bộ quản lý, hiệu suất lao động của họ.
Quan hệ phụ thuộc giữa số lượng người bị lãnh đạo, khả năng kiểm tra của người
lãnh đạo đối với hoạt động của những người cấp dưới.
Chính sách đãi ngộ của doanh nghiệp với đội ngũ cán bộ quản lý …
5 Những thành phần cơ bản của cơ cấu tổ chức
5.1 Chuyên môn hoá
Chuyên môn hoá là quá trình nhận diện những công việc cụ thể và phân công các
cá nhân hay nhóm làm việc đã được huấn luyện thích hợp đảm nhiệm chúng. Do đó trong
tổ chức, một cá hay một nhóm làm việc có thể chuyên sâu vào một công việc hay công
đoạn nào đó trong quá trình sản xuất. Ta nghiên cứu sự chuyên môn hoá theo chiều dọc
và chuyên môn hoá theo chiều ngang của tổ chức:
5.1.1 Chuyên môn hoá chiều dọc
Đối với các tổ chức lớn, người ta tách biệt rõ ràng về khía cạnh quyền hạn và nhiệm
vụ của các cấp bậc từ trên xuống dưới. Việc tách biệt này chính là chuyên môn hoá chiều
dọc. Hơn thế nữa phân khoa lao động có thứ bậc là để phân bổ quyền hạn chính thức và
thiết lập bộ phận để ra các quyết định quan trọng.
Sự phân bổ quyền hạn chính thức là căn cứ để xác định trách nhiệm đặc trưng cho
các nhà quản lý. Những nhà quản lý chóp bu hoặc các chuyên viên điều hành cấp cao lập
kế hoạch chiến lược tổng thể cho tổ chức và lên kế hoạch dài hạn. Họ cũng là người đưa
ra quyết định cuối cùng cho các tranh chấp bên trong tổ chức và cố gắng súc tiến, cải tiến
tổ chức và làm các công việc khác tương tự. Các nhà quản lý cấp trung gian hướng dẫn
hoạt động hàng ngày của tổ chức, hình thành chính sách và cụ thể hoá các quyết định
quản lý cấp cao thành các công việc cụ thể. Các nhà quản lý cấp thấp giám sát hoạt động
của nhân viên cấp dưới để đảm bảo thực hiện chiến lược đã được đưa ra bởi bộ phận
quản lý chóp bu và bảo đảm sự ăn khớp với các chính sách của bộ phận quản lý trung
gian.
Trong hệ thống quản lý, các cá nhân tuân theo các chỉ dẫn của người giám sát trên
lĩnh vực trách nhiệm đã được vạch rõ trong sơ đồ tổ chức. Lý thuyết quản lý truyền thống
cho rằng mỗi cá nhân chỉ có một thủ trưởng, mỗi đơn vị có một người lãnh đạo. Đây là
tính trực tuyến của cơ cấu, điều này có nghĩa là thống nhất mệnh lệnh. Thống nhất mệnh
lệnh là cần thiết để tránh sự rối loạn, để gắn trách nhiệm với những người cụ thể, và để
cung cấp những kênh thông tin rõ ràng trong tổ chức. Nếu không như vậy, khi có sự cố
xảy ra, các nhà quản lý sẽ cố gắng trốn tránh trách nhiệm và đổ lỗi cho người khác.
Số lượng các cá nhân mà một nhà quản lý có thể giám sát trực tiếp rõ ràng là có giới
hạn. Do vậy, chuyên môn hoá chiều dọc cần phải lưu ý khía cạnh này. Các tổ chức có xu
hướng mở rộng quy mô kiểm soát, đơn giản vì họ muốn giảm chi phí cho nhân sự làm
quản lý. Cho đến nay các nghiên cứu cũng không đưa ra một con số tối đa hoặc tối thiểu
nào về quy mô kiểm soát của một người mà chỉ gợi ý một vài mức trung bình. Tuy nhiên,
mức kiểm soát có thể rộng nếu:
Nhiệm vụ tương đối đơn giản
Nhân viên có kinh nghiệm và được đào tạo tốt
Nhiệm vụ có thể hoàn thành được mà không cần cố gắng tập thể.
5.1.2 Chuyên môn hoá theo chiều ngang
Chuyên môn hoá theo chiều ngang chính là sự tách biệt rõ ràng về quyền hạn, trách
nhiệm và mối quan hệ của các phòng ban, các phân hệ cùng cấp trong một tổ chức. Sự
tách biệt rõ ràng để tránh sự trùng lặp gây lãng phí và làm giảm sức manh của tổ chức.
Nếu có sự trùng lặp chức năng, nhiệm vụ thì đó chính là nguồn gốc của mâu thuẫn, làm
ảnh hưởng tới tính hệ thống của tổ chức và có nguy cơ làm suy yếu, thậm chí tan rã tổ
chức. Ngoài việc quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các phân hệ đồng cấp, cần quy
định quan hệ giữa các phân hệ để phát huy sức mạnh tổng thể của tổ chức. Tóm lại, trong
hệ thống quản lý, phân công trong hệ thống đồng cấp càng rõ ràng thì hiệu quả quản lý
càng cao.
Chuyên môn hoá theo chiều ngang sẽ thiết lập ra hệ thống các phòng ban trong tổ
chức, đối với các mô hình cơ cấu tổ chức khác nhau thì có các hệ thông phòng ban khác
nhau. Ví dụ, trong mô hình cơ cấu theo chức năng thì sẽ tạo ra một hệ thống các phòng
ban có các chức năng đặc thù; trong mô hình cơ cấu theo quá trình sản xuất thì nó tạo ra
một hệ thống các phòng ban có các nhiệm vụ khác nhau mà nó tạo thành một quá trình
sản xuất;…
5.2 Tiêu chuẩn hoá
Tiêu chuẩn hoá là quá trình phát triển các thủ tục của tổ chức mà theo các nhân viên
có thể hoàn thành công việc của họ theo một cách thức thống nhất và thích hợp. Quy
trình này tác động vào mỗi nhân viên như một cơ
mà các công việc không được tiêu
chuẩn hóa thì tổ chức không thể đạt được các mục tiêu của nó
Các tiêu chuẩn cho phép các nhà quản lý đo lường thành tích của nhân viên. Đồng
thời, cùng với bản mô tả công việc, các tiêu chuẩn công việc là cơ sở để tuyển chọn nhân
viên của tổ chức.
5.3 Sự phối hợp
Phối hợp là những thủ tục chính thức và phi chính thức để liên kết những hoạt động
do các nhóm riêng rẽ trong tổ chức đảm nhiệm. Trong các tổ chức quan liêu, các quy
định, quy chế của nó đã đủ để liên kết các hoạt động này. Còn trong những tổ chức có
cấu trúc lỏng lẻo đòi hỏi có sự phối hợp một cách linh hoạt trong việc giải quyết những
vấn đề của toàn công ty, đòi hỏi sự sẵn lòng chia xẻ trách nhiệm và sự truyền thông một
cách hiệu quả giữa các thành viên của tổ chức.
Phối hợp nhằm mục đích sau:
Xây dựng những luồng thông tin hàng ngang và hàng dọc sao cho không bị tắc
nghẽn (thông tin giữa các bộ phận, phòng ban, thông tin giữa các cấp quản lý,
thông tin chỉ đạo và thông tin phản hồi).
Thống nhất mọi hoạt động của các bộ phận.
Xây dựng các mối liên hệ công tác giữa các bộ phận của doanh nghiệp và trong
mỗi bộ phận riêng lẻ.
Duy trì mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với các cơ sở bên ngoài có liên
hệ trực tiếp hay gián tiếp.
Liên lạc với các cơ quan quản lý vĩ mô, với các cơ quan lập pháp lập quy.
5.4 Quyền lực
Quyền lực là quyền ra quyết định và điều khiển hoạt động của những người khác.
Mỗi tổ chức thường có những cách thức phân bổ quyền lực khác nhau. Trong những tổ
chức phi tập trung, một số quyền ra quyết định được uỷ quyền cho cấp dưới và ngược lại,
trong những tổ chức tập quyền thì quyền ra quyết định được tập trung vào các nhà quản
lý cao cấp.
Ngày nay, các doanh nghiệp thường kết hợp hai khuynh hướng này bằng cách tập
trung một số chức năng nào đó, đông thời cũng tiến hành phân tán một số chức năng
khác.
6. Các mô hình cơ cấu tổ chức mà các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thường
sử dụng
6.1 Cơ cấu đơn giản kiểu doanh nghiệp cá nhân
Đây là cấu trúc đơn giản nhất. Mọi việc nói chung phụ thuộc vào người chủ doanh
nghiệp. Người chủ doanh nghiệp quyết định và làm mọi công việc quản lý. Những người
nhân công được tuyển để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể. Không có hoặc rất ít cấu trúc
các phòng ban rõ ràng. Đó là những tổ chức linh hoạt. Các công ty buôn bán thường có
cấu trúc linh hoạt này.
6.2 Mô hình tổ chức theo chức năng
Tổ chức theo chức năng là hình thức phân chia bộ phận trong đó các cá nhân chuyên
trách về những lĩnh vực chức năng khác nhau như marketing, nghiên cứu và phát triển,
sản xuất, tài chính, quản lý nguồn nhân lực…, được hợp nhóm trong cùng một đơn vị cơ
cấu.
Tổng giám
đốc
Phó
tổng
giám
đốc
Phó
tổng
giám
đốc
Phó
tổng
giám
đốc
Phó
tổng
giám
đốc
Sơ đồ 1: Sơ đồ cơ cấu chức năng cho một hãng sản xuất
Ưu điểm:
Hiệu quả tác nghiệp cao nếu nhiêm vụ có tính lặp đi lặp lại hàng ngày.
Phát huy đầy đủ hơn những ưu thế của chuyên môn hoá ngành nghề.
Giữ được sức mạnh và uy tín của các chức năng chủ yếu.
Đơn giản hóa việc đào tạo.
Chú trọng hơn đến tiêu chuẩn nghề nghiệp và tư cách nhân viên.
Tạo điều kiện cho kiểm tra chặt chẽ của cấp cao nhất.
Nhược điểm:
Thường dẫn đền mâu thuẫn giữa các đơn vị chức năng khi đề ra các chỉ tiêu và
chiến lược.
Thiếu sự phối hợp hành động giưa các phòng ban chức năng.
Chuyên môn hoá quá mức và tạo ra cách nhìn quá hạn hẹp ở các cán bộ quản lý.
Hạn chế việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý chung.
Đổ trách nhiệm về vấn đề thực hiện mục tiêu chung của tổ chức cho cấp lãnh
đạo cao nhất.
Mô hình tổ chức theo chức năng tương đối dễ hiểu và được hầu hết các tổ chức
sử dụng trong một giai đoạn phát triển nào đó, khi tổ chức tổ chức có quy mô
vừa và nhỏ, hoạt động trong một lĩnh vực, đơn sản phẩm, đơn thị trường.
6.3 Mô hình tổ chức theo sản phẩm
Việc hợp nhóm các hoạt động và đội ngũ nhân sự theo sản phẩm hoặc tuyến sản
phẩm đã từ lâu có vai trò ngày càng gia tăng trong các tổ chức quy mô lớn với nhiều dây
chuyền công nghệ. Ví dụ, hãng Procter và Gamble đã từng sử dụng mô hình này một
cách có hiệu quả trong nhiều năm.
Ưu điểm:
Việc quy định trách nhiệm đối với các mục tiêu cuối cùng tương đối dễ dàng.
Việc phối hợp hành động giưa các phòng ban chức năng vì mục tiêu cuối cùng
có hiệu quả hơn.
Tạo khả năng tốt hơn cho việc phát triển đội ngũ cán bộ quản lý chung.
Các đề xuất đổi mới công nghệ dễ được quan tâm.
Có khả năng lớn hơn là khách hàng sẽ được tính tới khi đề ra quyết định.
Tổng giám
đốc
Phó
tổng
giám
đốc
Giám đốc
khu vực
phương
tiện vận
tải
Phó
tổng
giám
đốc
Giám
đốc khu
vực đèn
chỉ thị
Phó
tổng
giám
đốc
Giám đốc
khu vực
dụng cụ
công
nghiệp
Phó
tổng
giám
đốc
Giám
đốc khu
vực đo
lường
điện tử
Kỹ
thuật
Kế
toán
Kỹ
thuật
Kế
toán
Sản
xuất
Bán
hàng
Sản
xuất
Bán
hàng
Sơ đồ 2: Sơ đồ cơ cấu theo sản phẩm
Nhược điểm
Sự tranh giành nguồn lực giữa các tuyến sản phẩm có thể dẫn đến phản hiệu quả.
Cần nhiều người có năng lực quản lý chung.
Có xu thế làm cho việc thực hiện các dịch vụ hỗ trợ tập chung trở nên khó khăn.
Làm nảy sinh khó khăn đối với việc kiểm soát của cấp quản cao nhất.
6.4 Mô hình tổ chức theo đia dư
Việc phân chia bộ phận dựa vào lãnh thổ là một phương thức khá phổ biến ở các tổ
chức hoạt động trên phạm vi địa lý rộng. Trong trường hợp này, điều quan trọng là các
hoạt động trong một khu vực hay địa dư nhất định được hợp nhóm và giao cho một người
quản lý. Các doanh nghiệp thường sử dụng mô hình phân chia theo đia dư khi cần tiến
hành các hoạt động giống nhau ở các khu vực địa lý khác nhau.
- Xem thêm -