Sinhviennganhang.com
Lời mở đầu
Mỹ là một thị trường rộng lớn và dễ tính, có tiềm năng khoa học kỹ
thuật và công nghệ vào loại bậc nhất trên thế giới, hơn nữa, hiện nay những
thị trường truyền thống của Việt Nam như châu á, châu Âu, Nga... đã có xu
hướng bão hoà với các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, nên đây là
một thị trường mới mẻ, tiềm năng và tương đối ổn định ở châu Mỹ mà các
doanh nghiệp Việt Nam muốn được hướng tới để làm ăn, đồng thời cũng là
đối tác quan trọng có khả năng giúp Việt Nam đạt được mục tiêu hội nhập
kinh tế thế giới của mình. Đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại song
phương được ký kết đã mở ra một viễn cảnh tươi sáng cho nền thương mại
của hai nước.
Trong vài năm gần đây, cá basa và cá tra Việt Nam được nhập khẩu
vào thị trường Mỹ dưới dạng philê đông lạnh đã góp phần đáp ứng nhu cầu
tiêu thụ cá của người dân Mỹ đồng thời thúc đẩy được nghề nuôi loại cá này ở
Việt Nam, tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động ngư trại và nhà máy
chế biến thuỷ sản. Phát triển buôn bán cá basa, cá tra giữa Việt Nam và Mỹ là
nhằm mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Nhưng thật đáng tiếc, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ đã sớm lo
lắng cho sự xâm nhập của cá basa và cá tra vào thị trường của họ đến mức
đâm đơn kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá các sản phẩm này vào
thị trường Mỹ.
Như chúng ta đã biết, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang
dần xoá bỏ những rào cản thuế quan giữa các thị trường nhưng lại tạo điều
kiện thuận lợi cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch phát triển đặc biệt là ở các nước
giầu mạnh. Thương trường Mỹ mở ra những cơ hội đầy triển vọng nhưng nó
lại được điều chỉnh bằng một hệ thống luật pháp và các rào cản thương mại
cực kỳ chặt chẽ. Luật thuế Chống bán phá giá hiện nay đang là một công cụ
hữu hiệu được sử dụng phổ biến trên thị trường này nhằm bảo hộ nền công
nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam.
Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa Việt Nam vào thị trường Mỹ đã cho
thấy những rào cản đầu tiên mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải khi
tiếp cận thị trường Mỹ. Nhưng không vì thế mà các doanh nghiệp Việt Nam
tỏ ra bi quan và e ngại. Chúng ta đã tích cực hầu kiện và đã rút ra được những
bài học kinh nghiệm quý báu.
Chính vì tầm quan trọng và tính thời sự của vấn đề, em xin mạnh dạn
chọn đề tài “Luật chống bán phá giá của Mỹ và những Bài học rút ra từ vụ
kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa Việt Nam vào thị trường Mỹ” với mong
muốn tìm hiểu một cách sâu sắc hơn diễn biến vụ kiện cũng như đề xuất
những giải pháp nhằm góp phần hạn chế ảnh hưởng của Luật thuế Chống bán
phá giá của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị
trường này trong thời gian tới. Đề tài này được viết dựa trên các phương pháp
thu thập, tổng hợp, phân tích tài liệu có liên quan và được chia làm 3 chương :
Chương I : Khái quát chung về Luật chống bán phá giá của Mỹ;
Chương II : Vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt Nam và
Mỹ;
Chương III : Những bài học kinh nghiệm rút ra từ vụ kiện chống bán
phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với Ban Giám
hiệu Trường Đại học Ngoại Thương, đến các thầy cô giáo đã dạy dỗ em trong
suốt 5 năm năm học vừa qua. Đồng thời, con xin cám ơn Bố mẹ, gia đình và
bạn bè đã luôn ở bên cạnh động viên, giúp đỡ để con có được kết quả như
ngày hôm nay. Đặc biệt em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến TS Bùi Ngọc
Sơn, người đã trực tiếp hướng dẫn em viết đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn.
Sinhviennganhang.com
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
Chương I
Khái quát chung về luật chống
bán phá giá của Mỹ
I. Giới thiệu chung
Bán phá giá là việc bán hàng hoá của các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu
nước ngoài tại một thị trường xuất khẩu, ví dụ như tại Mỹ, với giá thấp hơn
giá bán của những sản phẩm giống hoặc tương tự mà các nhà sản xuất hoặc
xuất khẩu bán tại thị trường trong nước của họ hoặc xuất tới thị trường của
nước thứ ba, hoặc với giá bán hàng hoá thấp hơn chi phí sản xuất sản phẩm.
Theo hiệp định về chống bán phá giá của WTO (Tổ chức Thương mại thế
giới) và Luật pháp Hoa Kỳ, thì thuế chống bán phá giá có thể bị áp dụng nếu
có hai điều kiện được thoả mãn: (1) “Thấp hơn giá trị chuẩn” (Less than fair
value - LTFV) hoặc việc bán phá giá phải được xác định là đang tồn tại; và
(2) việc bán hàng hoá với giá “thấp hơn giá bán thông thường” phải đang
gây ra hoặc đang đe doạ gây ra thiệt hại vật chất cho ngành công nghiệp sản
xuất sản phẩm tương tự với hàng hoá nhập khẩu của Mỹ.
Nếu hai điều kiện trên được thoả mãn, lệnh thuế chống bán phá giá được ban
hành áp đặt các mức thuế tương đương với khoản được xác định bởi giá trị
chuẩn (được xác định khi bán hàng hoá tại thị trường nội địa hoặc tại thị
trường của nước thứ ba, hoặc trên cơ sở giá trị xây dựng) lớn hơn giá xuất
khẩu, khi bán hàng vào thị trường Mỹ.
1. Lịch sử phát triển Luật chống bán phá giá của Mỹ
Luật chống bán phá giá năm 1916 là Luật chống bán phá giá đầu tiên
của Mỹ được ban hành với mục đích cụ thể là chống bán phá giá. Văn bản
luật này quy định các chế tài dân sự và hình sự áp dụng đối với các hành vi
bán hàng nhập khẩu với một giá về cơ bản thấp hơn so với giá trị thực tế trên
thị trường hoặc thấp hơn giá bán buôn, với ý định phá hoại hay gây tổn hại tới
1
một ngành sản xuất công nghiệp của Mỹ. Luật chống bán phá giá năm 1916
vẫn còn giá trị cho đến ngày nay cho dù nó ít khi được sử dụng một cách
thường xuyên.
Trước năm 1980, các biện pháp quản lý phá giá của Hoa Kỳ đều được
Luật chống bán phá giá năm 1916 điều chỉnh. Luật này được thay thế bởi
Luật Hiệp định thương mại năm 1979, bổ sung thêm mục VII mới vào Luật
thuế quan năm 1930 nhằm giải quyết cả hai vấn đề thuế chống bán phá giá và
thuế trợ cấp, và chuyển giao trách nhiệm quản lý luật chống bán phá giá từ Bộ
Tài chính sang Bộ Thương mại. Mục VII sau đó đã được sửa bằng Luật thuế
quan và thương mại ban hành năm 1984, Luật cạnh tranh và thương mại năm
1988 và gần đây nhất là các Hiệp định của vòng đàm phán Uruguay tháng
12/1994 (URAA). Trong đó Mục II của Các hiệp định của vòng đàm phán
Uruguay bổ sung thêm các quy định của Hiệp định về thực thi điều VI của
Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) – Hiệp định về chống
bán phá giá của WTO tại vòng đàm phán Uruguay. Ngoài các điều khoản sửa
đổi do Hiệp định vòng đàm phán Uruguay yêu cầu, URAA còn bao gồm một
vài thay đổi hơn nữa trong luật chống bán phá giá như sự sửa đổi của các quy
định về chống lại âm mưu bán phá giá. Các quy định chi tiết về các trình tự và
thủ tục được sử dụng trong quá trình điều tra phá giá đã được ban hành sau
đó.
2. Các cơ quan có thẩm quyền thi hành
Vụ quản lý thương mại quốc tế (ITA) thuộc Bộ Thương mại Hoa Kỳ là
“cơ quan nhà nước có thẩm quyền” với chức năng cơ bản là thi hành Luật
chống bán phá giá và chức năng cụ thể là xác định xem hàng hoá được điều
tra có đang được bán phá giá hay không sau khi đã tiến hành điều tra.
Uỷ ban thương mại quốc tế (ITC), một cơ quan liên bang độc lập, sẽ
xác định xem liệu ngành công nghiệp Hoa Kỳ sản xuất sản phẩm cùng loại đó
bị thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại do hàng hoá nhập khẩu gây nên hay
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
2
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
không. Hai cơ quan này thực thi nhiệm vụ của mình một cách đồng bộ và
thông báo cho nhau về bất cứ quyết định nào. Một quyết định cuối cùng phủ
định việc bán phá giá của một trong hai cơ quan này hoặc quyết định sơ bộ
của ủy ban Thương mại quốc tế (ITC) là không gây thiệt hại thì vụ việc sẽ
được chấm dứt điều tra. Tất cả các quyết định cần phải được đăng công báo,
trong đó phải đưa ra các đánh giá về dữ kiện và kết luận của pháp luật.
II. Nội dung Luật chống bán phá giá của Mỹ
1. Phạm vi điều chỉnh
Luật chống bán phá giá của Mỹ cho phép chính quyền Mỹ thu thuế
nhập khẩu đặc biệt (được gọi là thuế chống bán phá giá) để bù lại phần thiệt
hại do việc nhập khẩu hàng hoá với giá thấp ở mức “không công bằng”. Để áp
dụng thuế chống bán phá giá, Bộ Thương mại Mỹ (Department of Commerce)
và ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ (US International Trade Commission) phải
xác định được hàng hoá nhập khẩu nào đang được bán ở mức thấp hơn giá trị
bình thường và gây ra hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho một ngành sản
xuất trong nước.
Nếu hai hoặc nhiều hơn nữa các nước bị khiếu nại về trách nhiệm
chống phá giá, theo quy định của luật, các bên có quyền yêu cầu ủy ban
Thương mại quốc tế đánh giá số lượng và ảnh hưởng của các hàng nhập khẩu
tương tự từ các nước đã nêu trên nếu chúng cạnh tranh với nhau và với sản
phẩm tương tự trên thị trường Mỹ. Nếu hàng nhập khẩu từ một nước đang bị
điều tra được coi là không đáng kể (thường được xác định là nhỏ hơn 3% tổng
giá trị nhập khẩu của sản phẩm bị điều tra) thì việc điều tra nước đó sẽ dừng
lại. Luật này cũng quy định các trường hợp được hưởng miễn trừ ví dụ như
đối với Ixraen.
Luật chống bán phá giá còn cho phép các ngành công nghiệp của Mỹ
được nộp đơn khiếu nại về hoạt động bán phá giá ở nước thứ ba. Ngành công
nghiệp Mỹ có thể đệ trình một đơn khiếu nại, trong đó phải giải thích tại sao
3
việc bán phá giá lại gây thiệt hại cho các công ty của Mỹ lên văn phòng Đại
diện Thương mại Mỹ, yêu cầu cơ quan này bảo vệ những quyền lợi của Mỹ
theo quy định của WTO. Nếu Đại diện Thương mại Mỹ xác định là có đủ cơ
sở để điều tra, họ sẽ đưa yêu cầu lên các cơ quan có thẩm quyền ở nước thứ
ba yêu cầu họ phải thay Mỹ tiến hành việc chống bán phá giá.
Tương tự, theo Hiệp định Chống bán phá giá, trong khuôn khổ Vòng đàm
phán Uruguay, Chính phủ một nước thành viên WTO có thể nộp đơn khiếu
nại tới Đại diện Thương mại Mỹ yêu cầu họ mở một cuộc điều tra chống bán
phá giá của một sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Mỹ từ một nước thức ba.
Việc huỷ bỏ lệnh chống bán phá giá hoặc đình chỉ việc điều tra có thể
xảy ra nếu Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ xác định là việc huỷ bỏ hoặc đình
chỉ sẽ không dẫn đến việc tiếp tục hoặc tái diễn hành động phá giá.
Các bên không đồng ý với đánh giá cuối cùng của Bộ Thương mại và
Uỷ ban Thương mại quốc tế về các vụ chống bán phá giá có thể nộp đơn yêu
cầu xử lại lên Toà án Thương mại quốc tế của Mỹ ở New York. Nếu hàng hoá
từ Canada hoặc Mêhico, các bên có thể yêu cầu ban hội thẩm lưỡng quốc
thuộc NAFTA (North America Free Trade Area - Khu vực mậu dịch tự do
Bắc Mỹ) kiểm tra hoặc có thể kháng cáo lên Toà án Thương mại Quốc tế.
2. Điều kiện để khởi xuất một vụ kiện bán phá giá
Muốn được khởi kiện, nguyên đơn phải là một cá nhân, tổ chức có liên
quan, ví dụ như là nhà sản xuất hay một tổ chức, hiệp hội nằm trong một khu
vực, ngành sản xuất mà có hàng hoá đang phải cạnh tranh với hàng hoá nhập
khẩu. Để có sự ủng hộ của số đông các thành viên trong khu vực, ngành sản
xuất, Luật đòi hỏi nguyên đơn phải có thẩm quyền đại diện, ít nhất là phải có
trên 25% tổng số sản phẩm của loại hàng đang cạnh tranh.
3. Các giai đoạn chính của một cuộc điều tra chống bán phá giá tại Mỹ
Trình tự một cuộc điều tra chống bán phá giá tại Mỹ gồm 6 giai đoạn:
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
4
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
Giai đoạn 1: Khởi sự điều tra để áp đặt thuế chống bán phá giá (thông thường
là 20 ngày sau khi có đơn khiếu nại yêu cầu áp đặt thuế chống phá giá của các
doanh nghiệp hoặc hiệp hội trong nước).
Giai đoạn 2: Điều tra sơ bộ của ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ về thiệt
hại (thông thường là 45 ngày sau khi có đơn khiếu nại)
Giai đoạn 3: Xác định sơ bộ của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (140 ngày sau khi
bắt đầu điều tra, tối đa là 190 ngày đối với những trường hợp phức tạp).
Giai đoạn 4: Quyết định cuối cùng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (215 ngày
sau khi bắt đầu điều tra, tối đa là 275 ngày).
Giai đoạn 5: Quyết định cuối cùng của ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ về
thiệt hại (260 ngày sau khi bắt đầu điều tra)
Giai đoạn 6: Lệnh áp đặt thuế chống phá giá (khoảng một tuần sau khi có
quyết định cuối cùng của ủy ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ).
Tổng thống có thể huỷ bỏ lệnh của Uỷ ban Thương mại quốc tế tròng
vòng 60 ngày vì “những lý do chính trị”.
Hàng năm vào chính ngày lệnh thuế chống bán phá giá được ban hành,
các bên có cơ hội đưa ra yêu cầu xem xét lại theo thủ tục hành chính về biên
độ phá giá cho một khoảng thời gian một năm kế tiếp đó.
4. Bắt đầu điều tra
Các cuộc điều tra chống bán phá giá được bắt đầu trên cơ sở một đơn
khiếu kiện yêu cầu điều tra do một hoặc các bên có quyền và lợi ích liên quan
đệ trình. Những đơn kiện phải được gửi đồng thời đến cả Bộ Thương mại và
Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ. Các bên có quyền và lợi ích có liên
quan có thể gồm:
1/ Doanh nghiệp sản xuất, chế biến hoặc người bán buôn hàng hoá tương tự
của Hoa Kỳ.
5
2/ Một tổ chức công đoàn hoặc một nhóm người lao động có chứng nhận hoặc
được công nhận đại diện cho một ngành công nghiệp liên quan đến việc sản
xuất, chế biến hoặc bán buôn hàng hoá tương tự tại Hoa Kỳ.
3/ Hiệp hội kinh doanh hoặc hiệp hội thương mại, đại đa số những thành viên
của nhà sản xuất, chế biến hoặc nhà bán buôn sản phẩm tương tự của Hoa Kỳ.
Bộ Thương mại có trách nhiệm tiến hành điều tra khi một đơn kiện
được đệ trình “bởi ngành công nghiệp trong nước hoặc bởi đại diện của nó”
và trong đơn đưa ra những yếu tố cần thiết để yêu cầu áp đặt một mức thuế
chống bán phá giá, cũng như bao gồm tất cả những thông tin hợp lý sẵn có
của người đệ đơn. Trước khi URAA ra đời, tập quán Hoa Kỳ thừa nhận đơn
kiện được đệ trình đại diện cho một ngành công nghiệp nội địa trừ khi đại đa
số các công ty trong nước quả quyết phản đối nội dung của đơn kiện.
Bộ Thương mại sẽ xác định mức độ phản đối này chỉ sau khi phản đối được
nêu ra. Theo đúng các quy định hiện hành của Hiệp định chống bán phá giá
WTO và URAA, đơn kiện được xem là được đệ trình “bởi ngành công nghiệp
nội địa hoặc đại diện của ngành công nghiệp” chỉ khi nó được sự ủng hộ bởi
các nhà sản xuất trong nước hoặc nhóm những người lao động được tính toán
là tạo ra:
1/ tối thiểu 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự trong nước; và
2/ hơn 50% tổng sản phẩm tương tự trong nước được sản xuất bởi các nhà sản
xuất đã bày tỏ ý kiến tán thành hoặc phản đối đơn kiện đó.
Trong trường hợp đơn khiếu kiện không chứng minh được sự ủng hộ
của những nhà sản xuất trong nước hay nhóm những người lao động trong
nước được tính toán là tạo ra hơn 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự
trong nước, Bộ Thương mại thông thường sẽ tiến hành một cuộc bỏ phiếu
trong ngành để xác định liệu bên khiếu kiện có đủ tư cách hay không.
Theo luật pháp Hoa Kỳ, người lao động có tiếng nói bình đẳng với giới
quản lý, nếu ban quản lý của một công ty trực tiếp bày tỏ phản đối quan điểm
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
6
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
của những người lao động, thì việc sản xuất được tính toán là tạo ra tối thiểu
25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự trong nước của công ty đó sẽ được coi
là không ủng hộ cũng như không phản đối lại đơn khiếu kiện.
Lập trường quan điểm của các công ty Hoa Kỳ là những nhà nhập khẩu
hàng hoá đang bị xem xét sẽ không được tính đến trong việc xác định sự ủng
hộ. Tương tự như vậy, quan điểm của các công ty Hoa Kỳ có liên quan đến
các công ty nước ngoài cũng không được xem xét đến trừ phi các công ty này
có thể chứng minh được rằng lợi ích của họ với tư cách là các công ty trong
nước sẽ bị tác động bất lợi trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Các
quy định của luật bắt buộc cả Bộ Thương mại và Uỷ ban Thương mại quốc tế
Hoa Kỳ đều phải cung cấp những hỗ trợ kỹ thuật chuyên môn cho các doanh
nghiệp nhỏ trong việc chuẩn bị đơn kiện nếu được yêu cầu như vậy.
Văn phòng Hỗ trợ giải quyết tranh chấp thương mại (TRAO) của ITC
được thành lập để cung cấp cho công chúng những thông tin chung về các văn
bản pháp luật thương mại cụ thể của Hoa Kỳ và hỗ trợ kỹ thuật chuyên môn
cho các doanh nghiệp nhỏ cần sự giúp đỡ pháp lý trong các quy định của pháp
luật thương mại.
5. Chứng cứ để kết luận hàng hoá có bán phá giá hay không
5.1. Bảng câu hỏi
Việc thu thập những thông tin cần thiết để xác định liệu có tồn tại việc
bán phá giá hay không và phá giá với mức độ nào sẽ được thực hiện bằng
cách Bộ Thương mại Mỹ gửi cho các nhà nhập khẩu và xuất khẩu những mặt
hàng đang được điều tra những bản yêu cầu cung cấp thông tin (Requests for
information - RFI) hoặc bảng câu hỏi. Do cơ cấu kinh doanh đã trở nên phức
tạp hơn và những yêu cầu từ các hiệp định liên quan của WTO cũng ngày
càng phức tạp rắc rối, bảng câu hỏi này theo thời gian cũng trở nên chi tiết và
phức tạp hơn. Bảng câu hỏi thông thường phải được trả lời trong thời hạn 30
7
ngày, tuy nhiên trong những trường hợp nhất định, thời hạn trả lời có thể
được gia hạn thêm một thời gian ngắn.
Bộ Thương mại Mỹ thường chỉ kiểm tra doanh số bán hàng chiếm
khoảng từ 60% đến 85% trong tổng kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ từ một
nước đối tượng cụ thể. Do vậy, những nhà sản xuất hoặc người xuất khẩu nhỏ
có thể sẽ không nhận được bảng câu hỏi.
Nếu việc trả lời bảng câu hỏi không đầy đủ, thoả đáng, thì bên trả lời sẽ
được nhanh chóng thông báo về sự không đầy đủ, thoả đáng này, đồng thời
được tạo cơ hội để sửa chữa hoặc giải thích sự không đầy đủ này. Bộ Thương
mại có thể sẽ phải xem xét đến các thông tin phản hồi được đệ trình trong thời
gian gia hạn nếu bên trả lời đã “cố gắng hết khả năng của mình” để cung cấp
các thông tin được yêu cầu.
Cũng như Bộ Thương mại, ITC sử dụng bảng câu hỏi như những
phương thức cơ bản trong việc thu thập thông tin. Bảng câu hỏi được gửi đến
cho các nhà sản xuất, nhập khẩu, tiêu dùng và xuất khẩu trong nước. Bảng
câu hỏi nói chung sẽ xem xét tới một khoảng thời gian 3 năm và yêu cầu
những thông tin liên quan đến đủ các loại chỉ số kinh tế khác nhau như chỉ số
sản xuất, năng lực tiêu dùng, vận tải, xuất khẩu, bán hàng, lao động, chi phí
vốn và chỉ số giá cả.
Thông thường bảng câu hỏi chia làm hai loại, loại điều tra và loại thủ
tục hành chính, đối tượng của bảng câu hỏi cũng chia làm hai loại, loại kinh tế
thị trường và loại theo kinh tế nhà nước. Bảng câu hỏi nhằm tìm hiểu những
thông tin cụ thể sau:
Phần A hỏi các thông tin tổng quát về cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt
động của công ty tham dự điều tra, số lượng và trị giá của sản phẩm trên tất cả
thị trường sản phẩm mà công ty có mặt.
Phần B hỏi các thông tin về dịch vụ bán hàng, dùng để thẩm định giá trị
“thông thường” của sản phẩm nhập khẩu. Phần này sẽ hỏi tất cả các thông tin
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
8
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
của tất cả các đơn vị kinh doanh mặt hàng đang tham dự điều tra trong thời
gian điều tra tại thị trường của nước xuất khẩu, hoặc nếu hàng không có thị
trường bản xứ, các thông tin của một thị trường thứ ba, nơi có bán sản phẩm
đó.
Phần C hỏi về con số thống kê các dịch vụ bán hàng ở Mỹ trong thời gian
điều tra để thẩm định giá xuất khẩu và giá xuất hình thành của sản phẩm.
Phần D yêu cầu các thông tin về chi phí sản xuất. Phần này tập trung về
khía cạnh sản xuất thay vì khía cạnh tiếp thị. Trong trường hợp có sự liên hệ
đến nền kinh tế nhà nước, phần này là rất quan trọng, đòi hỏi công ty được hỏi
phải trả lời chi tiết mọi ảnh hưởng đến sản xuất để cơ quan điều tra có thể
định lượng được các yếu tố sản xuất đưa đến giá đang áp dụng. Thông thường
cơ quan điều tra cần nghiên cứu thông tin nhận được từ phần A trước khi
thẩm định được là công ty được hỏi là thuộc dạng kinh tế thị trường hay là
kinh tế nhà nước.
Phần E hỏi về các giá trị gia tăng cho mặt hàng sau khi đã nhập vào lãnh
thổ Hoa Kỳ như lắp ráp, đóng gói,…nếu có trước khi chuyển qua cho các bạn
hàng không liên kết. Phần này thường được thẩm định sau khi nghiên cứu
phần A để biết về mô hình hoạt động của công ty xuất khẩu.
Theo một điều khoản do URAA bổ sung năm 1994, Bộ Thương mại và
ITC phải tạo cho các hiệp hội người tiêu dùng và các hiệp hội ngành cơ hội đệ
trình các thông tin liên quan phục vụ cho công việc xem xét. Cả Bộ Thương
mại lẫn ITC cũng phải tính đến những khó khăn mà các bên, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp của các quốc gia đang phát triển gặp
phải trong quá trình cung cấp các thông tin theo yêu cầu. Hai cơ quan có thẩm
quyền sẽ cung cấp sự hỗ trợ như vậy, nếu xét thấy có thể, để tránh tạo ra các
gánh nặng vô lý cho bên trả lời.
9
5.2. Các dữ kiện thực tế sẵn có (Những thông tin tốt nhất sẵn có)
Nếu một bên được hỏi không có khả năng hoặc không sẵn sàng cung
cấp những thông tin do Bộ Thương mại và ITC yêu cầu trong thời hạn quy
định và theo hình thức được yêu cầu, thì các cơ quan này có thể dựa trên các
“dữ kiện thực tế sẵn có”, kể cả những lý lẽ viện dẫn trong đơn khiếu kiện và
những nhận định trước đó để đưa ra quyết định. Nếu bên được hỏi từ chối hợp
tác, nhìn chung Bộ Thương mại sẽ đưa ra kết luận bất lợi và áp đặt mức thuế
suất cao nhất có thể.
Bộ Thương mại và ITC có thể sẽ xem xét đến những hoàn cảnh cụ thể
của doanh nghiệp khi cung cấp những thông tin được yêu cầu, bao gồm
(nhưng không giới hạn): quy mô, hệ thống kế toán, năng lực máy tính của
doanh nghiệp cũng như sự thành công trước đó của cùng một công ty hay của
các công ty tương tự khác. Theo đúng Hiệp định Chống bán phá giá, “nếu các
dữ kiện thực tế sẵn có” được sử dụng làm căn cứ, các thông tin này cần phải
được chứng thực khi có thể bằng cách sử dụng các nguồn thông tin độc lập.
5.3. Thẩm tra
Bộ Thương mại phải thẩm tra tất cả các thông tin mà Bộ Thương mại
căn cứ vào đó để đưa ra quyết định cuối cùng về việc tiến hành hay hủy bỏ
quá trình điều tra đầu tiên. Trong mỗi lần xem xét lại quyết định hàng năm,
việc thẩm tra sẽ được tiến hành nếu bên có quyền và lợi ích trong nước yêu
cầu và nếu không có cuộc thẩm tra nào trong suốt hai đợt xem xét lại liên tiếp
liền ngay trước đó. Ngoài hai trường hợp trên việc thẩm tra là tuỳ ý.
Bộ Thương mại buộc phải nhận được sự đồng ý của bên nước ngoài có
liên quan biết về quá trình thẩm tra này. Nếu bên bị thẩm tra hay chính phủ
nước ngoài phản đối việc thẩm tra, Bộ Thương mại sẽ không tiến hành thẩm
tra mà thay vào đó Bộ Thương mại sẽ sử dụng các “dữ kiện thực tế sẵn có” để
đưa ra quyết định của mình. Bộ Thương mại viết báo cáo theo tiến trình thẩm
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
10
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
tra và đồng thời tạo cơ hội cho bên khiếu kiện và bên bị kiện đệ trình biện hộ
và giải thích.
5.4. Xử lý thông tin
Những thông tin được các bên gửi đến Bộ Thương mại hoặc ITC được
xem là công khai trừ phi nó được định rõ là “thông tin thuộc sở hữu độc
quyền”. Các bên khẳng định sở hữu độc quyền đối với những thông tin trong
bản đệ trình của mình sẽ phải chứng minh cho Bộ Thương mại hoặc ITC tại
sao mỗi một phần thông tin lại không được phép tiết lộ công khai. Sơ lược các
thông tin thuộc sở hữu độc quyền cần bảo mật phải được gửi đến đồng thời
cùng với bản đệ trình. Nếu được chấp nhận là thông tin thuộc sở hữu độc
quyền, tài liệu được định rõ như vậy có thể được trao cho những cá nhân cụ
thể nhất định theo một trình tự bảo mật hành chính (APO).
Các luật sư hoặc những đại diện khác nhau của bên có quyền và lợi ích
liên quan có thể tiếp cận được các bản đệ trình thuộc sở hữu độc quyền của
các bị đơn nếu họ chứng minh được nhu cầu tiếp cận thông tin thích đáng của
mình và có thể bảo mật thoả đáng hiện trạng của sở hữu độc quyền trong tài
liệu. Hành vi vi phạm các trình tự bảo mật hành chính có thể dẫn đến các hình
phạt hoặc thậm chí dẫn đến việc khai trừ hành nghề luật sư trước những cơ
quan được nói ở trên.
Những thông báo về các quyết định bắt đầu và đình chỉ, các quyết định
sơ bộ và cuối cùng, và về những lần xem xét lại (kể cả những dữ kiện thực tế
sẵn có và những kết luận chứng minh cho các quyết định trên) phải được công
bố công khai trên Công báo liên bang.
5.5. Sản phẩm tương tự và các Quyết định về phạm vi
Các vấn đề đôi khi phát sinh chẳng hạn như liệu một sản phẩm cá biệt
nào đó có thuộc phạm vi điều tra chống bán phá giá hay không. Trong những
trường hợp như vậy Bộ Thương mại có thể ban hành “những quyết định về
11
phạm vi” mà những quyết định này sẽ làm rõ phạm vi của một lệnh về một
hàng hoá cụ thể.
Những quy định trên nhằm đảm bảo chắc chắn hàng hoá nhập khẩu có
thể so sánh được với hàng hoá cùng loại được sản xuất tại Hoa Kỳ hoặc “hàng
hóa tương tự”. Một “sản phẩm tương tự” được xác định bởi Luật thuế năm
1930 là “một sản phẩm giống hoặc không giống nhưng có những đặc điểm và
cách sử dụng gần giống nhất với sản phẩm thuộc đối tượng điều tra”.
Thông thường Bộ Thương mại sẽ xem xét các tiêu chí sau để xác định
sản phẩm tương tự: đặc tính vật lý chung; mục đích sử dụng của những người
mua hàng cuối cùng; các kênh thương mại mà ở đó hàng hoá được bán; cách
thức mà theo đó hàng hoá được bán và trưng bày; mục đích sử dụng cơ bản
của hàng hoá. Không có yếu tố đơn lẻ nào có tính chất quyết định và các nhân
tố khác có thể được xét đến. Khi không có việc bán hàng hoá giống hệt ở thị
trường nội địa để so sánh với việc bán hàng của Mỹ, việc bán hàng của Mỹ
được đem so sánh với sản phẩm tương tự gần giống nhất của nước ngoài trên
cơ sở các đặc điểm được liệt kê trong bảng câu hỏi điều tra chống bán phá giá
và những bản chỉ dẫn.
Trong khi mà ITC và Bộ Thương mại thường sử dụng quyết định giống
nhau về sản phẩm tương tự, thì ITC lại không bị ràng buộc bởi quyết định của
Bộ Thương mại. ITC có thể xác định sản phẩm tương tự trong nước ở một
mức độ rộng hơn chủng loại hay loại hàng hoá nhập khẩu do Bộ Thương mại
xác định, hoặc ITC có thể tìm ra hai hoặc nhiều hơn các sản phẩm tương tự
trong nước tương ứng với chủng loại hay hàng hoá nhập khẩu.
Trong việc xác định sản phẩm tương tự trong nước cho mục đích các
định thiệt hại thị trường trong nước, ITC đặc biệt quan tâm đến các yếu tố
sau: hình dáng vật lý bên ngoài; người sử dụng cuối cùng; nhận thức của
người tiêu dùng; những điều kiện sản xuất thông thường, quy trình sản xuất
và nhân công; các kênh thương mại; tính có thể hoán đổi cho nhau của sản
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
12
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
phẩm và giá cả nếu thích hợp. Không có yếu tố đơn lẻ nào có tính chất quyết
định và các yếu tố khác cũng cần phải được xem xét.
6. Xác định việc bán phá giá
Bộ Thương mại xác định biên độ bán phá giá bằng việc so sánh giá cả
của các sản phẩm đối tượng được bán tại Hoa Kỳ (giá xuất khẩu) với “giá trị
chuẩn” của hàng hoá đó. “Giá trị chuẩn” được xác định là giá, mà tại một thời
điểm tương ứng hợp lý với thời điểm bán hàng hoá với giá đó, được sử dụng
để xác định giá xuất khẩu hoặc giá xuất khẩu xây dựng, hoặc là giá “tại một
thời điểm mà sản phẩm nước ngoài được bán đầu tiên cho một người mua
không có quan hệ chi phối để tiêu thụ tại nước xuất khẩu, với số lượng thương
mại thường xuyên và trong quá trình buôn bán trao đổi thông thường và trong
phạm vi có thể thực hiện được, cùng một mức độ thương mại với giá xuất
khẩu hoặc giá xuất khẩu cấu thành”.
Để xác định ngày bán của hàng hoá đang được xem xét hoặc sản phẩm
tương tự của nước ngoài, thông thường Bộ Thương mại sẽ sử dụng ngày của
hoá đơn, do được ghi chép trong sổ sách của người xuất khẩu hoặc nhà sản
xuất. Tuy nhiên, một ngày khác có thể sẽ được sử dụng nếu Bộ Thương mại
cảm thấy nó phản ánh đúng hơn ngày được ấn định trong các điều khoản quan
trọng của hợp đồng, bao gồm cả giá và số lượng. Việc xác định ngày bán
hàng chính xác của hàng hoá có ảnh hưởng lớn đến việc chuyển đổi ngoại tệ
và sự so sánh giá cả đặc biệt là trong trường hợp lạm phát lớn hay các thị
trường có giá cả thất thường.
Với những cuộc điều tra áp dụng cho nền kinh tế thị trường, Bộ
Thương mại thường xem xét thông tin giá cả trong 4 quý tài chính gần nhất
tính từ tháng trước tháng mà đơn kiện được đệ trình (có nghĩa là thời gian
điều tra). Tuy nhiên, Bộ Thương mại cũng có thể xem xét bất cứ giai đoạn bổ
sung hay thay thế nào nếu thấy hợp lý.
13
6.1. Giá trị chuẩn
6.1.1. Điều chỉnh giá trị chuẩn
Để đảm bảo việc so sánh được thoả đáng, giá trị chuẩn (NV) và giá
xuất khẩu (EP) được so sánh trên cơ sở giá xuất xưởng thông thường tại nhà
máy, cùng với những điều chỉnh đối với mọi khác biệt trong các điều khoản
hoặc hoàn cảnh bán hàng tại hai thị trường. Bên bị đơn có trách nhiệm cung
cấp các chứng cứ chứng minh và lý luận cần thiết để chứng minh sự điều
chỉnh này.
Giá trị chuẩn được xây dựng dựa trên cơ sở giá xuất xưởng bán cho các
khách hàng không có quan hệ chi phối và giá bán cho các khách hàng có quan
hệ chi phối khi việc bán hàng đã được thực hiện phù hợp nhất có thể với
thông lệ buôn bán thông thường (giá bán ra đủ bù đắp chi phí và lợi nhuận
hợp lý). Tuỳ theo trường hợp thích hợp, giá ban đầu (đơn giá tổng) bị trừ đi:
Chi phí bao bì đóng gói tại thị trường trong nước (hay thị trường nước thứ
ba) và các chi phí kho tàng. Việc khấu trừ được thực hiện khi những chi phí
này đã được bao gồm trong giá;
Chi phí giao hàng hoặc cước phí vận chuyển nội địa (các chi phí di
chuyển hàng hoá). Nếu giá cả tại nước xuất khẩu phản ánh những chi phí giao
hàng tận nơi, giá trị chuẩn bị trừ đi khoản phí bảo hiểm và cước phí vận
chuyển nội địa ở nước ngoài;
Thuế gián thu (ví dụ thuế giá trị gia tăng). Giá trị chuẩn bị giảm trừ đi
khoản thuế gián thu đánh vào hàng hoá được tiêu dùng trong nước khi mà
những thuế này đã bao gồm trong giá của hàng hoá tương tự và không đánh
vào hàng hoá bán cho người nhập khẩu điều này có nghĩa là khi xuất khẩu
được hỗ trợ về thuế do được miễn, miễn giảm hoặc được hoàn thuế;
Các khoản chiết khấu và giảm giá được hưởng do trả bằng tiền mặt hoặc
mua số lượng lớn hoặc thanh toán sớm hoặc quan hệ lâu dài. Bộ Thương mại
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
14
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
sẽ trừ đi những khoản chiết khấu, giảm giá như vậy nếu chúng được cấp và
được thực hiện ở nước xuất khẩu.
Những điều chỉnh giá trị chuẩn được thực hiện trong trường hợp có
sự chênh lệch về giá cả mà nguyên nhân của sự chênh lệch về giá là do:
- Sự chênh lệch về số lượng hàng hoá bán ra: số lượng hàng hoá bán ra
tại thị trường trong nước và tại thị trường Hoa Kỳ khác nhau có thể sẽ dẫn
đến sự chênh lệch về giá cả. Bộ Thương mại sẽ đưa ra sự điều chỉnh về số
lượng nếu bị đơn có thể chứng minh được rằng những chênh lệch về số lượng
hàng hoá bán ra có thể ít nhất một phần tạo ra sự_chênh lệch vW giá.
- Sự khác biệt vật chất của sản phẩm bán ra tạiíthị trường trong nước và
dành cho mục đích xuất khẩu. Bộ Thương mại sẽ xem xét giảm trừ vì sự khác
nhau về chất lượng vật chất của hàng hoá dựa trên sự khác nhau trong những
chi phí biến động của sản xuất. Bộ Thương mại sẽ không xem xét đến sự khác
nhau trong chi phí sản xuất khi hàng hoá được so sánh giống hệt mhau về
c™c đặc tính vật lý.
- Sự khác nhau về điều ki³n bán hàng. NhữngíƯiều chỉnh sẽ được tính
đến cho những khác biệt về cácùchi phí bán hàng giữa việc bán hàng ở thị
trường trong nước và bán hàng xuất khẩu. Đối với các chi phí bán hàng liên
quan trực tiếp, Bộ Thương mại sẽ thực hiện những điều chỉnh trong phạm vi
các chi phí mà nhà sản xuất phải trả (hoặc phải chịu) thay mặt cho người nhập
khẩu, ví dụ như tiền hoa hồng; các khoản tín dụng; bảo hành; hỗ trợ kỹ thuật;
dịch vụ và chi phí quảng cáo sản phẩm cụ thể. Vì vậy, các chi phí bán hàng
trực tiếp tại Hoa Kỳ được cộng thêm vào giá trị chuẩn. Khi giá trị chuẩn được
đem so sánh với giá xuất khẩu xây dựng chứ không phải với giá xuất khẩu,
các chi phí gián tiếp cho bán hàng trong nước sẽ bị khấu trừ khỏi giá trị chuẩn
và khoản chi phí bị trừ này tối đa bằng (không vượt quá) tổng các chi phí bán
15
hàng gián tiếp phải trả khi bán những hàng hóa tương tự tại thị trường Hoa
Kỳ.
- Các khoản tín dụng. Những điều chỉnh thường tính đến sự khác biệt
trong các chi phí tín dụng giữa thị trường trong nước xuất khẩu và thị trường
Hoa Kỳ. Việc điều chỉnh này là cần thiết vì thường xuyên tồn tại một khoảng
thời gian giữa ngày gửi hàng cho khách hàng và ngày được thanh toán tiền
hàng. Việc điều chỉnh do chi phí tín dụng quy kết được thực hiện cho dù trên
thực tế nhà xuất khẩu không phải vay tiền để trả các khoản báo thu. Nếu
không có thông tin về chi phí tín dụng thực tế, Bộ Thương mại sẽ quy kết một
chi phí tín dụng bằng cách xác định số ngày chưa được thanh toán tiền hàng
và lãi suất mà công ty đã trả hoặc sẽ phải trả nếu như họ đã phải vay một
khoản tiền tương ứng (có nghĩa là một khoản tiền tương đương và cùng một
loại tiền tệ) để trả cho các khoản báo thu của công ty. Các chi phí tín dụng
quy kết được tính toán bằng việc chia số ngày giữa ngày gửi hàng và ngày
thanh toán cho 365 ngày, sau đó nhân với lãi suất và đơn giá.
- Sự khác biệt về các cấp bán hàng. Bộ Thương mại so sánh giá trị
chuẩn với những giá xuất khẩu ở cùng một cấp bán hàng, khi có thể. Ví dụ,
nếu một sản phẩm được bán theo hai cấp bán hàng tại thị trường trong nước
(bán cho nhà phân phối và rồi tới người tiêu dùng cuối cùng) và tất cả hàng
bán tại Hoa Kỳ là bán cho người tiêu dùng cuối cùng, thì chỉ có việc bán hàng
trên thị trường trong nước tới người tiêu dùng cuối cùng mới được xem xét
cho mục đích so sánh này. Nếu không có cấp bán hàng tương đương tại thị
trường nội địa, sự sửa đổi giá trị chuẩn thường được tính toán dựa trên tỷ lệ
phần trăm (%) chênh lệch giữa các giá bình quân gia quyền tại mỗi cấp trong
hai cấp bán hàng được sử dụng.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
16
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
Để yêu cầu một sự điều chỉnh, các nhà sản xuất nước ngoài phải chứng
minh hai hiệu quả của các hoạt động bán hàng khác nhau và một trường hợp
mẫu của những chênh lệch giá phù hợp khi bán cùng một hàng hoá cho các
cấp độ bán hàng khác nhau ở thị trường nước ngoài.
Để xác định hành vi bán phá giá từ một nước có nền kinh tế phi thị
trường, thông thường Bộ Thương mại sẽ tính giá trị chuẩn bằng cách định giá
các yếu tố sản xuất của các nhà sản xuất ở các nước kinh tế phi thị trường
trong điều kiện một nước có nền kinh tế thị trường gần giống nhất với nước
kinh tế phi thị trường đó.
6.1.2. Trường hợp bán hàng thấp hơn chi phí sản xuất trong tiến
trình thương mại thông thường
Bộ Thương mại sẽ loại trừ việc bán hàng với giá thấp hơn chi phí sản
xuất trên mỗi đơn vị sản phẩm khỏi sự tính toán giá trị chuẩn, khi việc bán
hàng được thực hiện với số lượng đáng kể và không cho phép bù đắp mọi chi
phí trong một khoảng thời gian hợp lý. Việc bán hàng như vậy bị loại trừ vì
chúng bị coi như trái với “tiến trình thương mại thông thường”. Cụm từ
“những số lượng đáng kể” được hiểu theo nguyên tắc 80%. Nếu doanh số
hàng bán với giá thấp hơn chi phí sản xuất chiếm ít hơn 20% tổng doanh số
bán ra (có nghĩa là doanh số hàng bán với giá cao hơn chi phí sản xuất chiếm
hơn 80% tổng doanh số bán ra), thì tổng doanh số bán hàng trong nước, kể cả
doanh số hàng bán với những giá thấp hơn chi phí sản xuất, sẽ được xét đến
khi tính toán giá trị chuẩn. Khi có nhiều hơn 20% tổng doanh số bán ra
(ngưỡng đặt ra của Vòng đàm phán Uruguay trước là 10%) được bán với giá
thấp hơn chi phí sản xuất (có nghĩa là doanh số hàng bán với giá cao hơn chi
phí sản xuất chiếm ít hơn 80% tổng doanh số), thì doanh số hàng bán với giá
thấp hơn chi phí sản xuất sẽ bị loại trừ và doanh số hàng bán với giá cao hơn
chi phí sản xuất vẫn được sử dụng để xác định giá trị chuẩn.
17
Giá trị tương đối của doanh số hàng bán với giá cao hơn chi phí sản
xuất có thể rất thấp, nghĩa là lúc này giá trị chuẩn có thể chỉ được căn cứ vào
một số ít doanh số hàng bán ra với giá cao khác thường. Khi không có doanh
số hàng nào bán với giá cao hơn chi phí sản xuất, thì giá trị chuẩn sẽ được căn
cứ vào giá trị cấu thành của hàng hoá đang xem xét.
Trong khi mà Luật Hoa Kỳ trước đây đòi hỏi việc bán hàng với giá
thấp hơn chi phí sản xuất phải kéo dài quá một khoảng thời gian (theo giải
thích của Bộ Thương mại là tối thiểu 02 tháng) mới bị loại trừ, thì Hiệp định
của vòng đàm phán Uruguay lại quy định việc bán hàng hoá như vậy phải
diễn ra “trong vòng” một khoảng thời gian 12 tháng. Do vậy, việc bán hàng
với giá thấp hơn chi phí sản xuất bây giờ có thể không được tính đến cho dù
nó xảy ra trong thời gian một tháng.
Dựa trên những lý lẽ do bên khiếu kiện đưa ra, Bộ Thương mại sẽ tiến
hành điều tra để xác định xem giá bán hàng hoá đó tại thị trường trong nước
có thấp hơn chi phí sản xuất hay không nếu như họ có cơ sở hợp lý để tin
tưởng hoặc nghi ngờ hàng hoá đó đã được bán với giá thấp hơn chi phí sản
xuất. Các tính toán chi phí sản xuất được dựa trên sổ sách của chính các nhà
sản xuất hoặc nhà xuất khẩu nếu như các sổ sách ấy được thực hiện phù hợp
với các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng răi tại nước của nhà xuất
khẩu hoặc nhà sản xuất (GAAP).
Những điều chỉnh đặc biệt tới chi phí sản xuất sẽ được thực hiện và có
tính đến các chi phí liên quan tới các hoạt động khởi đầu trong những trường
hợp liên quan đến các phương tiện sản xuất mới hoặc các sản phẩm mới đòi
hỏi phải có sự đầu tư bổ sung lớn.
Ngoài việc bán hàng hoá thấp hơn chi phí sản xuất, thì các hình thức
bán hàng khác cũng có thể bị loại trừ khỏi việc tính toán giá trị chuẩn vì Bộ
Thương mại cho rằng chúng trái với tiến trình thương mại thông thường. Ví
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
18
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
dụ như: việc bán hàng mẫu, hàng kém chất lượng, hàng đã ngừng sản xuất,
bán thử nghiệm và bán với số lượng rất nhỏ.
6.1.3. Tính khả thi ở thị trường trong nước hoặc doanh số bán hàng
trong nước của nước thứ ba
Giá trị chuẩn được căn cứ vào việc bán hàng tương tự ở thị trường nội
địa của nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu nếu doanh số bán hàng được coi như
là đủ để có thể đưa ra một sự so sánh “khả thi” với giá xuất khẩu và việc bán
hàng là phù hợp với “tiến trình thương mại thông thường”. Để được coi là khả
thi, doanh số bán hàng trong nước phải tương đương ít nhất 5% doanh số bán
hàng của hàng hoá đang được xem xét bán cho những người mua không có
quan hệ chi phối ở Hoa Kỳ.
Khi doanh số hàng bán ở thị trường trong nước được xem là không đủ
theo tiêu chuẩn này, hoặc việc bán hàng không phù hợp với tiến trình thương
mại thông thường, giá trị chuẩn có thể sẽ được căn cứ vào việc bán hàng trong
nước ở một thị trường (“nước ngoài”) nước thứ ba. Bộ Thương mại được chỉ
thị chọn ra nước thứ ba mà thị trường của quốc gia này tương đồng nhất về
phương diện tổ chức và trình độ phát triển với quốc gia có doanh số bán hàng
trong nước bị coi là không đủ, và nước thứ ba đó có thể xuất khẩu hàng hoá
giống nhất với những hàng hoá được xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Bộ
Thương mại sẽ tìm chọn một việc bán hàng nào đó ở Hoa Kỳ phù hợp với
việc bán sản phẩm nước ngoài tương tự giống nhất ở nước thứ ba, được tiến
hành phù hợp với tiến trình thương mại thông thường. Doanh số bán hàng
trong nước ở thị trường nước thứ ba cũng phải đạt được tiêu chuẩn là 5%
doanh số bán hàng cho Hoa Kỳ.
Bộ Thương mại được phép tuỳ ý không áp dụng ngưỡng 5% trong
những “hoàn cảnh đặc biệt” hay từ chối sử dụng doanh số bán hàng trong
nước của nước thứ ba hoặc doanh số bán hàng ở thị trường nội địa (của nhà
19
sản xuất hoặc nhà xuất khẩu) nếu như những doanh số như vậy bị coi là
không đại diện tiêu biểu hoặc nếu tồn tại một “tình hình thị trường đặc biệt”
không cho phép có được một sự so sánh chính xác.
Bản báo cáo công việc hành chính (SAA) của URAA chỉ ra rằng “đặc
biệt” có thể bao gồm các trường hợp mà khi: (1) một việc bán hàng đơn lẻ tại
thị trường nước ngoài tương đương 5% doanh số bán hàng cho Hoa Kỳ; (2)
có những kiểm soát hết sức nhậy cảm của Chính phủ đối với việc định giá tại
một thị trường nước ngoài mà giá cả tại thị trường đó không thể được xem là
tạo cạnh tranh; và (3) có những loại nhu cầu khác nhau giữa thị trường Hoa
Kỳ và một thị trường nước ngoài.
Hơn nữa, theo những trình bày dưới đây, việc bán hàng cho người có
quan hệ chi phối có thể không được sử dụng cho việc tính toán giá trị chuẩn
trong những hoàn cảnh nhất định. Nếu cả hai việc bán hàng trong nước và bán
hàng trong nước của thị trường nước thứ ba đều bị coi là không thích đáng,
thì giá trị xây dựng sẽ được sử dụng.
6.1.4. Giá trị cấu thành
Khi việc bán hàng trong nước của nước thứ ba không thể được sử dụng
trong việc hình thành giá trị chuẩn bởi vì việc bán hàng đó không phù hợp với
tiến trình thương mại thông thường hoặc không thoả mãn về mặt số lượng để
cho phép có được sự so sánh điển hình, thì giá cả hàng hoá bán cho Hoa Kỳ
được so sánh với giá trị cấu thành. Giá trị cấu thành này được tính toán bằng
tổng các chi phí quản lý, bán hàng, chi phí chung, và các khoản lợi nhuận hợp
lý.
Đối với việc tính toán lợi nhuận, Luật trước khi có vòng đàm phán
Uruguay đã yêu cầu Bộ Thương mại phải cộng vào một mức cao hơn lợi
nhuận thực tế hoặc 8% của tổng chi phí cho sản xuất và các chi phí chung.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
20
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
Các chi phí bán hàng, quản lý và chi phí chung (SGA) đã được tính toán tối
thiểu bằng 10% chi phí sản xuất, hoặc 10% các chi phí thực tế, tuỳ vào chi phí
nào cao hơn. Để tính toán giá trị cấu thành, hiện nay Bộ Thương mại sử dụng
chi phí chung thực tế của các công ty và các lợi nhuận dựa trên việc bán sản
phẩm tương tự với giá bán cao hơn chi phí sản xuất.
Khi những thông tin cần thiết không có sẵn để xác định lợi nhuận thực
tế thu được từ việc bán sản phẩm tương tự nước ngoài phù hợp với tiến trình
thương mại thông thường, Bộ Thương mại có thể lựa chọn sử dụng 1 trong 3
cách tính SGA thực tế và lợi nhuận như sau:
1/ tổng số chi phí SGA thực tế và lợi nhuận phải trả và thu được của
nhà sản xuất/nhà xuất khẩu trong việc bán các sản phẩm cùng chung chủng
loại bởi cùng nhà sản xuất; hoặc
2/ số bình quân gia quyền, tổng số chi phí thực tế phải trả và thu được
của các nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu khác được đưa ra điều tra hoặc xem
xét lại để tính chi phí SGA và lợi nhuận trong việc bán sản phẩm tương tự
phù hợp với tiến trình thương mại thông thường; hoặc
3/ tổng số chi phí SGA và lợi nhuận được tính toán bằng bất cứ
phương pháp hợp lý khác nhưng không vượt quá tổng số chi phí thường phải
trả và thu được của các nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu khác trong việc bán
sản phẩm cùng chủng loại vơi hàng hoá thuộc đối tượng điều tra.
6.2. Giá xuất khẩu
Giá xuất khẩu là giá mà với giá này hàng hoá thuộc đối tượng điều tra
được bán lần thứ nhất (hoặc được thoả thuận bán) trước ngày nhập khẩu bởi
nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu ngoài Hoa Kỳ cho một người mua không có
quan hệ chi phối hoặc liên kết (unaffiliated purchaser) tại thị trường Hoa Kỳ
21
hoặc cho một người mua không có quan hệ chi phối hoặc liên kết để xuất
khẩu vào thị trường Hoa Kỳ.
6.2.1. Những điều chỉnh
Để tính toán chính xác giá xuất khẩu xưởng, giá ban đầu (đơn giá tổng)
bán cho khách hàng không có quan hệ chi phối hoặc liên kết đầu tiên tại thị
trường Hoa Kỳ sẽ bị khấu trừ đi bất kỳ khoản nào nếu có dưới đây:
- Chi phí vận chuyển phát sinh trong quá trình vận chuyển hàng hoá từ
nhà máy tới nơi bán hàng (các chi phí này bao gồm cước vận chuyển nội địa
ở nước ngoài, thuê kho ở nước ngoài, cước vận chuyển nội địa ở Hoa Kỳ,
cước vận chuyển và bảo hiểm đường biển, đường hàng không quốc tế, phí
môi giới ở Mỹ, khi mà những chi phí này đã bao gồm trong giá);
- Bao bì đóng gói đặc biệt để xuất khẩu;
- Thuế nhập khẩu và các loại thuế khác do nước xuất khẩu áp dụng mà
những khoản thuế này đã được giảm trừ hoặc không thu do hoạt động xuất
khẩu;
- Thuế trợ cấp (chống trợ cấp) do chính quyền Hoa Kỳ áp đặt để bù đắp lại
thiệt hại do chính sách trợ cấp của một Chính phủ nước ngoài gây ra; hoặc
- Các khoản chiết khấu và giảm giá (Bộ Thương mại sẽ trừ những khoản này
nếu chúng được cấp và thực hiện tại thị trường trong nước).
6.2.2. Phương pháp lấy mẫu hàng hoá và Tính bình quân
Hiệp định đàm phán Uruguay cho phép Bộ Thương mại được sử dụng
các phương pháp lấy mẫu thống kê hợp lệ và phương pháp tính bình quân để
xác định giá xuất khẩu, giá xuất khẩu xây dựng hoặc giá trị chuẩn nếu có
được một doanh số bán hàng đáng kể hoặc một số lượng hoặc nhiều loại sản
phẩm đáng kể. Bộ Thương mại được tùy ý trong việc lựa chọn để sử dụng
những mẫu và các số trung bình nhưng phải tham khảo ý kiến của các nhà sản
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
22
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
xuất và xuất khẩu. Hơn nữa, nếu việc xác định các biên độ bán phá giá bình
quân gia quyền riêng cho từng công ty là không thực hiện được thì Bộ
Thương mại có thể xác định biên độ bán phá giá bình quân gia quyền cho một
mẫu điển hình trong số các nhà sản xuất và xuất khẩu hoặc trong nhiều loại
sản phẩm được thống kê hợp lệ, hoặc xác định biên độ cho một mẫu điển hình
trong số các nhà sản xuất và xuất khẩu có số lượng hàng hoá đang được xem
xét lớn nhất đối với nước xuất khẩu.
6.2.3. Những người có mối quan hệ chi phối hoặc liên kết (affiliated
Persons)
Bộ Thương mại sửa đổi phương pháp tính toán của mình đối với các
giao dịch được kiểm tra có liên quan đến các bên có quan hệ chi phối hoặc
liên kết với nhau. Bộ Thương mại cho rằng bất kỳ giao dịch buôn bán nào
giữa các bên có quan hệ chi phối hoặc liên kết đều là cơ sở không tin cậy cho
việc xây dựng giá xuất khẩu hay giá trị chuẩn vì các bên có quan hệ chi phối
hoặc liên kết này có thể định giá ưu đãi cho nhau trong buôn bán, hoặc
chuyển nhượng sản phẩm dựa trên cơ sở giá trị sản phẩm (giá vốn) hoặc giá
vốn cộng với một khoản lợi nhuận cố định. Khi Bộ Thương mại thấy rằng
việc bán hàng giữa các bên có quan hệ chi phối hoặc liên kết đã không được
giao dịch với một giá mà nhà xuất khẩu bán “hàng hoá đó hoặc hàng hoá
tương tự” cho người mua không có quan hệ chi phối hoặc liên kết thì việc bán
hàng này không được xem xét đến. Bên bị kiện có nghĩa vụ chứng mình rằng
việc bán hàng cho một bên có quan hệ chi phối hoặc liên kết được thực hiện
phù hợp nhất có thể với thông lệ buôn bán thông thường.
Tương tự như vậy, Bộ Thương mại quy định rằng giá chuyển nhượng
của một đầu vào chủ yếu giữa các bên có quan hệ chi phối hoặc liên kết phải
lớn hơn chi phí sản xuất ra đầu vào và Bộ Thương mại cũng yêu cầu bên bị
kiện phải báo cáo các chi phí sản xuất thực tế của nhà cung cấp. Những điều
23
chỉnh yêu cầu có thể cũng không được phép khi mà giá chuyển nhượng thấp
hơn giá trị trường.
Các bên bị coi là có quan hệ chi phối hoặc liên kết nếu:
- một bên kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp đối với bên kia;
- một bên thứ ba kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp cả hai; hoặc
- cả hai kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp một bên thứ ba, và có lý do để tin
rằng mối quan hệ khiến cho nhà sản xuất Hoa Kỳ hành động khác với một
nhà không sản xuất.
Một quyền sở hữu 5% cổ phần được coi là đủ để tạo ra một mối quan hệ của
“bên có quan hệ chi phối/liên kết” mặc dù sự “kiểm soát” vẫn có thể tồn tại
ngay cả khi không có bất kỳ một sở hữu cổ phần nào.
6.2.4. Giá xuất khẩu cấu thành (Constructed Export price)
Giá xuất khẩu cấu thành là một thuật ngữ được sử dụng để tính toán giá
xuất khẩu khi việc bán hàng vào Hoa Kỳ được thực hiện thông qua một bên
có liên quan. Việc bán hàng cho các bên có quan hệ liên quan bị loại bỏ và
thay vào đó Bộ Thương mại sẽ tính toán một giá xuất khẩu xây dựng căn cứ
trên giá được định bởi người sản xuất hoặc nhà xuất khẩu hàng hoá, hoặc bởi
một người bán có quan hệ chi phối hoặc liên quan, trước hoặc sau khi nhập
khẩu, để bán cho người mua không có quan hệ chi phối hoặc liên quan đầu
tiên ở Hoa Kỳ. Để tính toán một giá tương đương với một giá xuất xưởng áp
dụng cho việc bán hàng thông qua một bên có quan hệ chi phối hoặc liên
quan, ngoài những điều chỉnh được sử dụng cho việc tính toán giá xuất khẩu,
một vài điều chỉnh khác cũng sẽ được thực hiện.
Giá xuất khẩu xây dựng được khấu trừ tiếp các khoản:
Các chi phí bán hàng trực tiếp được trả bởi hoặc tính cho người bán, phát
sinh từ, và có liên quan trực tiếp đến việc bán hàng (ví dụ như các chi phí tín
dụng, bảo hành và bảo đảm) và mọi chi phí bán hàng mà người bán trả thay
mặt cho người mua;
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
24
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
Các chi phí bán hàng (gián tiếp) khác liên quan đến hoạt động kinh tế tại
Hoa Kỳ (ví dụ các chi phí lưu hàng tồn kho của Canada và Hoa Kỳ và các chi
phí bảo hiểm trách nhiệm pháp lý hàng hoá);
Chi phí cho bất kỳ một hoạt động sản xuất hoặc lắp ráp thêm nào tại Hoa
Kỳ; và
Lợi nhuận phân bổ cho việc bán hàng, phân phối và sản xuất thêm ở Hoa
Kỳ do bên có quan hệ chi phối thực hiện (việc khấu trừ được tính toán bằng
cách nhân tổng lợi nhuận thực tế ở cả thị trường Hoa Kỳ và thị trường nội địa,
với tỷ lệ giữa tổng chi phí sản xuất và bán hàng tại Hoa Kỳ và tổng chi phí
sản xuất và bán hàng).
6.3. Tính toán các biên độ phá giá
Để xác định có tồn tại một biên độ phá giá hay không, Bộ Thương mại
lấy giá trị chuẩn bình quân gia quyền trừ đi giá xuất khẩu bình quân gia quyền
đối với hàng hoá tương tự. Bất kỳ một chênh lệch dương (+) nào đều là cơ sở
cho một biên độ phá giá, sự chênh lệch này sau đó được tính trung bình trên
một cơ sở quyền số để tìm ra một giá trị biên độ ước tính cho tất cả việc bán
hàng sang thị trường Hoa Kỳ trong suốt giai đoạn điều tra.
Theo phương pháp tính của Bộ Thương mại trước Vòng Đàm phán
Uruguay, thì các giá trị trung bình tại thị trường nội địa thường được so sánh
với các giá giao dịch xuất khẩu riêng. Theo quy định tại điều 2.4.2 của Hiệp
định chống bán phá giá, hiện nay Bộ Thương mại thường xác định và tính
toán các biên độ phá giá trên cơ sở so sánh các giá trị chuẩn bình quân gia
quyền và các giá xuất khẩu bình quân gia quyền (hoặc các giá xuất khẩu cấu
thành). Việc tính toán dựa trên sự so sánh giao dịch với giao dịch có thể được
sử dụng khi có rất ít việc bán hàng và hàng hoá được bán ra tại mỗi thị trường
là giống hệt nhau hoặc rất tương tự.
Sự khác nhau giữa phương pháp tính toán cũ và hiện tại của Hoa Kỳ có
thể ảnh hưởng đáng kể đến các biên độ phá giá. Ví dụ, nếu trong cùng một
25
ngày, một nhà sản xuất Canada bán ra cùng một số lượng hàng hoá tại thị
trường Hoa Kỳ và Canada với giá là 100$/1 đơn vị và 1 tuần sau bán số lượng
như vậy tại hai thị trường trên với giá 200$/1 đơn vị, giá trị chuẩn của hàng
hoá đó sẽ là 150$/1 đơn vị.
Theo phương pháp tính trước đây của Hoa Kỳ, khi 2 giá bán của hai
giao dịch xuất khẩu vào Hoa Kỳ được so sánh với giá trị chuẩn 150$ này thì
giao dịch đầu tiên với giá 100$/1 đơn vị sẽ bị coi là phá giá. Ngược lại, theo
phương pháp so sánh trung bình với trung bình hoặc giao dịch với giao dịch,
việc bán phá giá là không có.
Tuy nhiên, Luật pháp Hoa Kỳ đã vẫn tiếp tục sử dụng cách so sánh các
giá xuất khẩu riêng với giá trị chuẩn trung bình áp dụng cho tất cả các lần
xem xét lại hành chính cho đến ngày 1/1/2000. Phương pháp này cũng có thể
được sử dụng khi có chứng cớ về một mẫu hình các giá xuất khẩu “khác nhau
một cách đáng kể giữa những người mua, giữa các khu vực, hoặc giữa các
khoảng thời gian” – một tập quán thường được biết đến là “bán phá giá có
mục đích”.
6.3.1. Tỷ lệ áp dụng đồng loại cho các đối tượng khác
Bộ Thương mại thường tính toán các biên độ phá giá bình quân gia
quyền riêng cho những nhà xuất khẩu và nhà sản xuất nước ngoài lớn nhất,
trong khi tất cả những nhà xuất khẩu và nhà sản xuất khác của cùng một nước
phải chịu phụ thuộc vào tỷ lệ “áp dụng cho mọi đối tượng khác” được đặt ra
trong lần điều tra đầu tiên hoặc trong lần xem xét lại hàng năm gần nhất. Tỷ lệ
“áp dụng đồng loại cho các đối tượng khác” được tính toán bằng số bình quân
gia quyền của các biên độ phá giá được xác định riêng, loại trừ biên độ bằng
không hoặc biên độ tối thiểu, và các biên độ được căn cứ hoàn toàn trên các
dữ liệu thực tế sẵn có.
Bộ Thương mại phải thiết lập các mức thuế riêng khi một nhà sản xuất
hoặc xuất khẩu không được lựa chọn để xem xét riêng nhưng tự nguyện cung
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
26
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
cấp những thông tin được yêu cầu của các bị đơn khác trong thời gian được
quy định cho những nhà sản xuất hoặc xuất khẩu bị xem xét riêng. Nếu số các
nhà sản xuất hoặc xuất khẩu đã cung cấp những thông tin như vậy nhiều tới
mức làm cho các hoạt động xem xét riêng trở nên quá mức phiền toái, thì Bộ
Thương mại sẽ được miễn phải thực hiện yêu cầu này.
6.3.2. Các biên độ tối thiểu
Theo điều khoản 5.8 của Hiệp định chống bán phá giá, Luật thuế năm
1930 đã được sửa đổi, quy định rằng một biên độ phá giá được xác định là
thấp hơn 2% theo giá hàng sẽ được coi là tối thiểu và sẽ bị loại trừ. Tuy
nhiên, Bộ Thương mại đã giải thích Điều 5.8 là chỉ áp dụng cho những lần
điều tra đầu tiên. Đối với những lần xem xét lại, cho đến ngày 1/1/2000, Bộ
Thương mại vẫn tiếp tục thực hiện thông lệ coi một biên độ phá giá tối thiểu
khi nó thấp hơn 0,5% theo giá hàng.
6.4. Phân tích thiệt hại của ITC
Như đã trình bày ở trên, vai trò của ITC trong các cuộc điều tra chống
bán phá giá là xác định xem ngành sản xuất nội địa của Hoa Kỳ sản xuất các
sản phẩm tương tự có bị thiệt hại vật chất hay bị đe dọa gây thiệt hại vật chất
hay không, hoặc xác định xem liệu việc hình thành một ngành ở Hoa Kỳ có
thực sự bị làm chậm lại do hàng nhập khẩu đang được xem xét gây ra hay
không. ITC gồm có 6 thành viên được Tổng thống bổ nhiệm, không quá 3
người trong số họ có thể thuộc cùng một đảng phái chính trị.
Các quyết định được đưa ra dựa trên cơ sở đa số phiếu tán thành. Nếu
số các thành viên bỏ phiếu tán thành hoặc không tán thành bằng nhau về việc
có thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thì ITC được xem như là có quyết định
khẳng định (đồng thuận là có gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại).
Quyết định về thiệt hại của ITC bao gồm một cuộc điều tra hai vấn đề:
thứ nhất là về sự kiện thực tế của thiệt hại vật chất; thứ hai, việc bán phá giá
có là nguyên nhân của thiệt hại vật chất hoặc đe dọa gây thiệt hại hay không.
27
Thiệt hại vật chất được định nghĩa là “thiệt hại lớn, cơ bản quan trọng”.
Để xác định ngành công nghiệp nội địa có bị thiệt hại vật chất do hàng
nhập khẩu đang được xem xét gây ra hay không, theo quy định của Luật, ITC
phải xem xét tới:
1/ Số lượng hàng nhập khẩu, cụ thể hơn là liệu số lượng hàng nhập
khẩu đang được xem xét (số lượng tương đối hoặc số lượng tuyệt đối) là đáng
kể hay không; và
2/ ảnh hưởng của hàng nhập khẩu đến giá cả hàng hoá tương tự của
Hoa Kỳ, kể cả chứng cứ về việc bán hàng hạ giá hoặc giảm giá do hàng nhập
khẩu gây ra; và
3/ Những tác động của hàng nhập khẩu đến các điều kiện kinh doanh
của các nhà sản xuất hàng hoá tương tự nội địa của Hoa Kỳ, bao gồm nhưng
không giới hạn:
những sụt giảm thực tế hoặc tiềm năng về doanh số bán ra, thị phần, lợi
nhuận, năng suất, lợi nhuận đầu tư hoặc sử dụng vốn;
các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả nội địa;
những tác động tiêu cực thực tế hoặc tiềm năng đến chu chuyển tiền mặt,
hàng hoá tồn kho, việc làm, tiền lương, tăng trưởng hoặc khả năng tăng
trưởng vốn;
những tác động tiêu cực thực tế hoặc tiềm năng đến các nỗ lực phát triển
và sản xuất hiện tại của ngành công nghiệp nội địa nhằm phát triển, cải tiến
mới sản phẩm tương tự nội địa; và
độ lớn của biên độ bán phá giá.
Tuy nhiên, ITC không bị hạn chế ở những yếu tố này, và trong các
trường hợp quá khứ ITC còn xem xét đến các chỉ số kinh tế khác.
Để xác định một ngành công nghiệp có bị đe dọa gây thiệt hại vật chất
bởi hàng hoá nhập khẩu hay không, ITC xem xét liệu “trên cơ sở những
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
28
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
chứng cứ….mối đe dọa gây thiệt hại vật chất là có thực và…thiệt hại thực tế
sắp xảy ra” hay không. Việc xác định này “không thể được thực hiện trên cơ
sở của sự phỏng đoán hoặc giả thiết đơn thuần”.
ITC xem xét, trong số những nhân tố kinh tế có liên quan:
1/ mọi sự tăng năng suất sản xuất hiện tại hoặc sắp xảy ra mà điều đó dường
như sẽ dẫn đến kết quả là hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tăng
lên;
2/ một tốc độ tăng đáng kể về số lượng hoặc sự thâm nhập thị trường của
hàng nhập khẩu đang bị điều tra,
3/ liệu hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ có thể có tác động giảm hoặc kìm hãm
đáng kể đến giá cả của Hoa Kỳ không;
4/ tồn kho của hàng hoá đang bị điều tra;
5/ khả năng chuyển dịch sản phẩm nếu các phương tiện sản xuất của nước
ngoại hiện đang sản xuất hàng hoá không thuộc đối tượng điều tra có thể được
sử dụng để sản xuất ra hàng hoá thuộc đối tượng bị điều tra;
6/ khả năng tăng lên, bởi lý so chuyển dịch sản phẩm, của các sản phẩm nông
nghiệp chế biến hoặc chưa chế biến nhập khẩu đã được điều tra;
7/ các ảnh hưởng tiêu cực thực tế hoặc tiềm năng đến những nỗ lực hiện tại
của ngành công nghiệp Hoa Kỳ nhằm phát triển cải tiến các sản phẩm đang
được điều tra; và
8/ bất kỳ khuynh hướng có thể chứng minh được khác cho thấy khả năng mà
hàng hoá đang được điều tra sẽ gây ra thiệt hại vật chất.
Bên khiếu kiện cũng có thể lập luận rằng sự hình thành một ngành công
nghiệp ở Hoa Kỳ bị làm chẫm trễ rất nhiều do hàng nhập khẩu (hoặc khả năng
gây ra của hàng nhập khẩu) của hàng hoá là đối tượng của vụ kiện. Nhưng
những cáo buộc như vậy là không phổ biến.
29
Đối với các vấn đề về nguyên nhân gây thiệt hại, cần đặc biệt chú ý
rằng theo sự giải thích của ITC về quy chế của mình, việc bán phá giá không
cần phải là nguyên nhân gây thiệt hại duy nhất, hoặc cũng không cần phải
quan trọng đáng kể hơn bất kỳ nguyên nhân gây thiệt hại nào khác.
6.4.1. Xác định ngành công nghiệp nội địa có liên quan
ITC có trách nhiệm xác định ngành công nghiệp nội bộ liên quan đến
sản xuất hàng hoá tương tự. Theo Luật thuế năm 1930, ngành công nghiệp nội
địa là “toàn bộ các nhà sản xuất trong nước sản xuất một sản phẩm tương tự,
hoặc những nhà sản xuất có sản lượng chung chiếm một phần chủ yếu tổng
sản lượng sản xuất trong nước của sản phẩm đó”. Các nhà sản xuất sản phẩm
tương tự của Hoa Kỳ mà có quan hệ với những nhà xuất khẩu hoặc nhập
khẩu, hoặc chính họ là người nhập khẩu những sản phẩm đang bị coi là bán
phá giá, có thể bị loại trừ không được coi là thuộc ngành công nghiệp nội địa
“trong các trường hợp thích hợp”.
Các bên bị coi là có quan hệ nếu một bên thực hiện quyền kiểm soát
trực tiếp hoặc gián tiếp đối với bên kia. Sự quan tâm của ITC đến trường hợp
bên có quan hệ là liệu quan hệ của những người sản xuất với những nhà xuất
khẩu hoặc nhập khẩu hàng hoá bán phá giá có tạo cho họ một vị trí đặc biệt
hoặc vị trí được bảo vệ chắc chắn trên thị trường khi so sánh với những nhà
sản xuất khác.
6.4.2. Sản lượng chế định
Hiệp định Uruguay 1994 đã đưa khái niệm “sản lượng chế định” vào
phương pháp của Hoa Kỳ để xác định thiệt hại vật chất trong điều tra thuế
chống bán phá giá. Khái niệm này được đưa ra dựa trên thực tế rằng một vài
sản phẩm thuộc đối tượng của các vụ điều tra giải quyết tranh chấp thương
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
30
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
mại có thể được bán ra vừa như là những sản phẩm cuối cùng hoặc vừa để
tiếp tục sử dụng trong quá trình sản xuất thêm.
Lấy ví dụ, trong lĩnh vực thép cán cuộn, các cuộn thép cuộn nóng có
thể được bán hoặc được sử dụng như là sản phẩm cuối cùng hoặc có thể được
tiếp tục chế biến thêm thành sản phẩm thép cuộn nguội hoặc thành thép không
gỉ. Vấn đề nảy sinh là liệu thiệt hại có nên được đánh giá trên cơ sở tổng sản
lượng của sản phẩm đó không hay chỉ trên cơ sở tổng sản lượng được bán trên
“thị trường mua bán”. Trong vụ kiện trước, hàng nhập khẩu được bán phá giá
sẽ cho thấy một phần ít hơn phần chúng sẽ thực chiếm trong tổng lượng tiêu
dùng nếu như sản lượng hạn chế được tính đến. Do đó, việc chứng minh thiệt
hại do hàng nhập khẩu được bán phá giá có thể trở nên khó khăn hơn đối với
ngành công nghiệp nội địa nếu như sản lượng chế định được tính đến.
Hiệp định Uruguay đưa ra các tiêu chuẩn để xác định sự tồn tại của sản
lượng chế định và cách xử lý. Thông thường ITC sẽ xem xét đến điều kiện
của toàn bộ các nhà sản xuất Hoa Kỳ sản xuất sản phẩm nội địa tương tự khi
xác định xem liệu thiệt hại vật chất có phải bắt nguồn từ hàng hoá được nhập
khẩu một cách không lành mạnh hay không. ITC sẽ xem xét ảnh hưởng của
hàng nhập khẩu được bán phá giá đến tổng sản lượng của sản phẩm tương tự
nội địa. Tuy nhiên, nếu những điều kiện nhất định được xác định là có tồn tại,
ITC sẽ tập trung chủ yếu vào “thị trường buôn bán” để xác định thiệt hại.
6.4.3. Các thị trường địa phương
Để phục vụ cho mục đích xác định thiệt hại, ngành công nghiệp nội địa
có thể được giới hạn trong những nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở những thị
trường địa phương hoặc riêng biệt trong lãnh thổ Hoa Kỳ, ngay cả khi toàn bộ
ngành sản xuất nội địa sản xuất những sản phẩm tương tự không bị gây thiệt
31
hại. Để xác minh có một thị trường địa phương tồn tại, cần phải chứng minh
được rằng:
- những nhà sản xuất ở thị trường địa phương bán toàn bộ hoặc hầu như
toàn bộ sản lượng của họ trên thị trường đó; và
- nhu cầu ở thị trường địa phương không được cung cấp với bất kỳ mức
độ đáng kể nào bởi những nhà sản xuất ở nơi khác trong lãnh thổ quốc gia.
Khi đã có một thị trường khu vực tồn tại, một vài tiêu chuẩn bổ sung sẽ
được kiểm tra để xác định xem liệu ngành công nghiệp Hoa Kỳ có bị gây thiệt
hại hay không. Trước khi một quyết định khẳng định có gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại được đưa ra, cần phải chứng minh được rằng:
- Có sự tập trung của hàng nhập khẩu được bán phá giá vào thị trường
địa phương đó; và
- Hàng nhập khẩu được bán phá giá là nguyên nhân gây thiệt hại cho
các nhà sản xuất có toàn bộ hoặc hầu như toàn bộ sản lượng bán ra trong thị
trường địa phương.
6.4.4. Tổng hợp
ITC có trách nhiệm thực hiện việc đánh giá tổng hợp số lượng và ảnh
hưởng của sản phẩm tương tự nhập khẩu từ hai nước hoặc nhiều hơn nếu
những hàng nhập khẩu như vậy cạnh tranh với nhau và cạnh tranh với sản
phẩm tương tự nội địa. Chỉ những hàng nhập khẩu mà được những đơn kiện
đệ trình cùng ngày đề cập tới và Bộ Thương mại đã ra quyết định sơ bộ khẳng
định có bán phá giá mới có thể được đánh giá tổng hợp. Đối với những xác
định về thiệt hại, ITC phải tổng hợp hàng nhập khẩu nếu: (1) biên độ thuế
chống bán phá giá cho mỗi quốc gia lớn hơn biên độ tối thiểu; (2) khối lượng
hàng nhập khẩu từ mỗi nước là đáng kể; và (3) tất cả những hàng nhập khẩu
như vậy cạnh tranh với nhau và với sản phẩm tương tự trên thị trường Hoa
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
32
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
Kỳ. Đối với những xác định về mối đe dọa gây thiệt hại vật chất, ITC có
quyền tự ý tổng hợp hàng nhập khẩu. Luật pháp Hoa Kỳ không quy định gì về
công việc của ITC về “tổng hợp chéo”, trong đó ITC tổng hợp các ảnh hưởng
của hàng nhập khẩu được bán phá giá.
6.4.5. Hàng nhập khẩu không đáng kể
Việc điều tra vụ kiện được chấm dứt nếu ITC nhận thấy hàng hoá nhập
khẩu từ một nước bị điều tra là không đáng kể. Theo Hiệp định Chống bán
phá giá, hàng nhập khẩu được coi là không đáng kể nếu chỉ chiếm ít hơn 3%
số lượng của toàn bộ hàng hoá được xem xét được nhập khẩu vào Hoa Kỳ
trong khoảng thời gian 12 tháng gần nhất trước khi đơn khiếu kiện được gửi
đến. Tuy nhiên, khi số lượng tổng hợp hàng nhập khẩu được xem xét từ tất cả
các nước có số lượng không đáng kể vượt quá 7% số lượng của toàn bộ hàng
nhập khẩu được xem xét, những hàng nhập khẩu này sẽ được coi là đáng kể.
6.4.6. Quyết định sơ bộ
Trong quyết định sơ bộ của mình, ITC cần phải xác định, dựa trên
thông tin sẵn có tốt nhất tại thời điểm điều tra, khi có một “dấu hiệu hợp lý”
rằng ngành công nghiệp nội địa bị thiệt hại vật chất, hoặc bị đe dọa gây thiệt
hại do nguyên nhân hàng nhập khẩu được quy cho là bán phá giá gây ra. Khi
quyết định sơ bộ của ITC là không gây thiệt hại hoặc không đe dọa gây thiệt
hại thì việc điều tra sẽ được kết thúc, quyết định như vậy thông thường là
không phổ biến. ITC thường có khuynh hướng tạo điều kiện thuận lợi cho
những người khiếu kiện trong toàn bộ quá trình tố tụng trừ phi đơn kiện là
không có căn cứ. Người khiếu kiện có trách nhiệm cung cấp chứng cứ về vấn
đề thiệt hại.
33
6.4.7. Quyết định cuối cùng
Một mức độ chứng cứ cao hơn được yêu cầu trong quyết định cuối
cùng. ITC cần phải xác định xem liệu ngành công nghiệp Hoa Kỳ có bị thiệt
hại vật chất hoặc bị đe dọa gây thiệt hại bởi hàng hoá nhập khẩu đang được
xem xét hay không. Là một phần của quá trình đưa ra quyết định, một phiên
điều trần công khai sẽ được ITC tổ chức, thông thường phiên điều trần này
kéo dài một ngày. Các bên tham gia vụ kiện có thể gửi cho ITC bản giải trình
quan trọng trước khi phiên điều trần được tổ chức và có cơ hội phân tích và
bình luận trên những số liệu và phân tích của các nhân viên điều tra ITC. Quá
trình điều trần về bản chất là để điều tra hơn là để xét xử, không cho phép đưa
ra các chứng cứ mới, và bị giới hạn trong việc thẩm vấn và tranh luận. Tiếp
theo phiên điều trần và sự xem xét cẩn thận của các Uỷ viên Hội đồng, ITC sẽ
đưa ra một bản báo cáo có quyết định cuối cùng của mình.
7. Xem xét lại
7.1. Xem xét lại theo thủ tục hành chính
Nếu được các bên có quyền và lợi ích liên quan yêu cầu, việc xem xét
lại theo thủ tục hành chính các lệnh chống bán phá giá và các thoả thuận đình
chỉ thường được Bộ Thương mại tổ chức một lần sau mỗi khoảng thời gian 12
tháng tính từ ngày bắt đầu áp dụng lệnh. Việc xem xét lại theo thủ tục hành
chính này xác định tiền thuế thực tế đang nợ cho khoảng thời gian xem xét lại
vừa qua và đưa ra mức ký quỹ trả thuế dự kiến cho việc nhập khẩu tương lai.
Nếu tiền kỹ quỹ trả thuế thu được trong khoảng thời gian xem xét lại (căn cứ
vào mức ký quỹ trả thuế dự kiến trước đó) vượt quá tiền thuế thực tế phải trả
cho khoảng thời gian đó (tiền thuế thực tế phải trả được xác định trong lần
xem xét lại), thì tiền thừa sẽ được hoàn trả cùng với lãi suất. Nếu trường hợp
ngược lại xảy ra, cơ quan Hải quan Hoa Kỳ sẽ thu bất cứ khoản tiền nợ nào
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
34
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
cùng với lãi suất. Theo trình tự thủ tục, cách thức xem xét lại được tiến hành
theo cách thức tương tự với việc điều tra ban đầu.
Theo quy định của luật trước khi Hiệp định Uruguay ra đời, Bộ Thương
mại có nghĩaºvụ côngŸ=ố những kết quả cuối cùng của xem xét lại hành
chính không muộo_hơn 365Ángày kể từ ngày xem xét lại, nhưng yêu cầu này
ít khi được đáp ứng và khiến cho các nhà sản xuất và xuặt khẩu ỷ³t kiện và
tốn kém. Theo quy định tại Điều 9.3.1 của Hiệp định Apống bán_phá giá,
hiện nay Bộ Thương mại phải đưa ra quyết định xem xét lại hành chính sơ bộ
trong vòng 245 ngày kể từ BFày cuối cùngơcủa tháng mà lệnh áp thuế chống
bán phá giá (hoặc thoả thu_n đình chỉ) .±ợc ban hành. Quyết định cuối cùng
của việc xem xét lại hành chính phải được ban hành trong vòng 120 ngày sau
cậng bố q_aết định xem xét lại sơ bộ. Các thời hạn có thể được Bộ Thương
mại gia hạn trong những trường hợp cụ thể.
7.2. Xem xét lại nhà Xuất khẩu mới
Theo
thông
lệ
của
Hoa
Kỳ
trước
Vòn_
đàm
ph
35
Uruguay, các lệnh thuế chống bán phá giá được áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ
quốc gia. Các nhà xuất khẩu mới là những nhà xuất khẩu mà đã không xuất
khẩu hàng hoá được xem xét, hoặc không xuất khẩu hàng hoá với những số
lượng đủ lớn trong suốt quá trình điều tra, hoặc không được điều tra riêng
biệt. Những nhà xuất khẩu mới như vậy phụ thuộc vào “thuế suất áp dụng
đồng loại cho các đối tượng khác”. Theo quy định tại Điều 9.5 của Hiệp định
chống bán phá giá, sau khi điều tra ban đầu Bộ Thương mại sẽ tiến hành xem
xét lại “rút gọn” các nhà xuất khẩu mới không có quan hệ chi phối với các
nhà xuất khẩu thuộc lệnh thuế chống bán phá giá, để từ đó kết luận ra các biên
độ phá giá riêng. Việc xem xét lại rút gọn các nhà xuất khẩu mới chỉ được bắt
đầu vào cuối tháng tiếp sau 6 tháng (cuối tháng thứ 7) tính từ ngày của lệnh
áp thuế chống bán phá giá, hoặc vào cuối tháng mà ngày áp thuế được thực
hiện tuỳ theo ngày nào sớm hơn.
7.3. Xem xét lại khi có những sự kiện thay đổi
Một bên thuộc đối tượng của lệnh thuế chống bán phá giá cuối cùng
hoặc thoả thuận đình chỉ có thể yêu cầu huỷ bỏ lệnh bằng cách chứng minh
rằng có những sự kiện đã thay đổi trong ngành công nghiệp Hoa Kỳ đủ để
biện hộ cho yêu cầu huỷ bỏ lệnh thuế chống bán phá giá hoặc thoả thuận đình
chỉ. ITC cần phải xác định xem liệu việc huỷ bỏ lệnh thuế chống bán phá giá
hoặc cuộc điều tra được đình chỉ có khả năng dẫn đến tình trạng tiếp diễn
hoặc tái diễn gây thiệt hại vật chất hay không. Bên yêu cầu huỷ bỏ phải có
trách nhiệm thuyết phục và phải làm cho Bộ Thương mại và ITC tin rằng việc
huỷ bỏ lệnh thuế chống bán phá giá hoặc thoả thuận đình chỉ là thoả đáng.
Điều 751 (b)(1) của Luật thuế năm 1930 yêu cầu việc xem xét lại hành
chính những sự kiện đã thay đổi được tiến hành khi nhận được một yêu cầu
trong đó bao gồm những thông tin đầy đủ liên quan đến những sự kiện đã
thay đổi. Các quy định của Bộ Thương mại cho phép ITC tiến hành xem xét
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
36
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
lại hành chính những sự kiện đã thay đổi dựa trên tuyên bố khẳng định việc
không quan tâm của bên nguyên đơn trong vụ kiện. Bộ Thương mại cũng có
thể huỷ bỏ toàn bộ một lệnh hoặc huỷ bỏ một phần lệnh thuế chống bán phá
giá nếu Bộ Thương mại xác định được rằng lệnh thuế chống bán phá giá đang
được xem xét lại không còn là mối quan tâm của các bên có quyền và lợi ích
liên quan nữa.
7.4. Xem xét lại “Hoàng hôn” 5 năm
Do yêu cầu của Hiệp định Chống bán phá giá WTO, luật pháp Hoa Kỳ
quy định rằng cứ 5 năm một lần các lệnh thuế chống bán phá giá phải được
Bộ Thương mại và ITC xem xét lại, và huỷ bỏ trừ khi nó được chứng minh
rằng việc bán phá giá và thiệt hại vật chất có khả năng vẫn tiếp tục diễn ra
hoặc tái diễn trong khoảng thời gian dự đoán hợp lý. Thông thường các quyết
định được đưa ra trên cơ sở lệnh hiệu lực toàn bộ (trái ngược với cơ sở lệnh
hiệu lực một phần áp dụng cụ thể cho công ty) mặc dù đã có một thủ tục huỷ
bỏ có hiệu lực một phần áp dụng cụ thể cho công ty như đã được đề cập trên
đây.
Theo quy định của Luật pháp Hoa Kỳ trước vòng đàm phán Uruguay,
không có điều khoản xem xét lại hoàng hôn và thỉnh thoảng các lệnh thuế
chống bán phá giá có hiệu lực áp dụng trên 20 năm. Các điều khoản xem xét
lại hàng hôn chuyển tiếp đặc biệt áp dụng cho các lệnh chống bán phá giá
hiện tại cho phép tập hợp và tổng hợp các lần xem xét lại để đạt được hiệu
quả và để xem xét những sản phẩm tương tự cùng nhau. Các lệnh chuyển tiếp
này được xem xét lại theo hình thức so le bắt đầu từ ngày 1/7/1998 với việc
xem xét lại cuối cùng được bắt đầu vào ngày 1/12/1999.
37
7.5 Xem xét lại theo thủ tục tư pháp
7.5.1. Toà án trong nước của Hoa Kỳ
Một bên có quyền và lợi ích liên quan – người mà không thoả mãn với
quyết định cuối cùng của Bộ Thương mại hoặc ITC có thể đệ đơn khởi kiện
lên Toà án Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (CIT) để xét xử theo thủ tục tư pháp.
Để thực hiện việc tái thẩm tư pháp một hoạt động hành chính, một trát đòi hầu
toà và một đơn khởi kiện phải được đệ trình đồng thời trong vòng 30 ngày kể
từ ngày công bố quyết định cuối cùng. Tiêu chí xét xử tư pháp mà CIT sử
dụng là liệu quyết định có được chứng minh bởi “chứng cứ quan trọng có
thực” hay “không phù hợp với quy định của luật pháp”. Phán quyết của CIT
có thể được kháng cáo lên Toà phúc thẩm về Kinh lý liên bang.
7.5.2. Xét xử lại của Ban hội thẩm NAFTA
Theo các điều khoản của chương 19 Hiệp định Tự do Thương mại Bắc
Mỹ (NAFTA), quyết định cuối cùng của Bộ Thương mại hoặc của ITC liên
quan đến các sản phẩm từ các quốc gia NAFTA có thể được kháng cáo lên
các ban hội thẩm 5 thành viên thuộc 2 quốc gia như là một phương án thay
thế cho xét xử tư pháp trong nước. Các ban hội thẩm 2 quốc gia xác định liệu
một quyết định cuối cùng có tuân thủ theo đúng Luật chống bán phá giá của
các quốc gia NAFTA mà ở đó quyết định được đưa ra hay không. Nếu một
ban hội thẩm thấy rằng quyết định đã tuân thủ đúng luật pháp trong nước thì
quyết định được phê chuẩn. Nếu không, ban hội thẩm trả lại vụ kiện cùng với
những chỉ thị cho cơ quan có thẩm quyền điều tra thực hiện điều tra thêm.
Điều 1904 của Hiệp định NAFTA quy định rằng một danh sách hội thẩm phải
được đề nghị trong vòng 30 ngày kể từ ngày kháng cáo hoạt động hành chính.
Ban hội thẩm phải ra một phán quyết trong vòng 315 ngày kể từ ngày yêu
cầu.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
38
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
8. Những vấn đề thủ tục khác
8.1. Đình chỉ các cuộc điều tra
Bộ Thương mại có thể đình chỉ một cuộc điều tra trước khi ra quyết
định bằng cách chấp nhận một thoả thuận đình chỉ. Trong một thoả thuận đình
chỉ, các nhà sản xuất và xuất khẩu đồng ý thay đổi cách cư xử của mình để
loại bỏ việc bán phá giá hoặc thiệt hại do bán phá giá gây ra. Một thoả thuận
đình chỉ phải bao gồm các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu mà có phần lớn lượng
hàng hoá đang được điều tra (Bộ Thương mại giải thích là chiếm tối thiểu
85%) và đồng ý loại bỏ việc bán phá giá hoặc dừng xuất khẩu sang Hoa Kỳ
trong vòng 6 tháng sau khi đình chỉ điều tra.
Một bản sao thoả thuận đề xuất phải được gửi cho bên nguyên đơn và
các bên có quyền và lợi ích liên quan, những người mà sau đó có thể đưa ra ý
kiến của mình. Tuy nhiên, Bộ Thương mại có thể vẫn chấp nhận đình chỉ mặc
dù có sự phản đối của bên nguyên đơn nếu họ cho rằng thoả thuận là vì lợi ích
chung và có thể kiểm soát được một cách hiệu quả.
ITC sẽ xác định xem liệu tác động có hại của hàng nhập khẩu có được
hoàn toàn loại bỏ bởi thoả thuận được đề xuất hay không. Nếu những tác
động có hại không hoàn toàn được loại bỏ, việc điều tra sẽ được tiếp tục tiến
hành. Nếu Bộ Thương mại xác định rằng thỏa thuận mà đã làm đình chỉ một
cuộc điều tra là đang vi phạm, việc điều tra sẽ được tiếp tục và một lệnh
chống bán phá giá có thể được đưa ra sau khi một cuộc điều tra đầy đủ kết
thúc.
8.2. Tình trạng khẩn cấp
Vào bất kỳ thời điểm nào nhưng tối thiểu 20 ngày trước quyết định cuối
cùng của Bộ Thương mại, nguyên đơn có thể đưa ra lập luận rằng có “tình
trạng khẩn cấp” tồn tại để đảm bảo một lệnh có hiệu lực hồi tố đình chỉ việc
39
bán tống các mục hàng tồn của hàng hoá được xem xét hoặc nhập hoặc xuất
khỏi kho trong thời gian 90 ngày trước khi có quyết định sơ bộ. Để bảo đảm
chắc chắn các sự kiện quan trọng đang tồn tại, Bộ Thương mại sẽ xác định
liệu:
1/ Có một tiền sự của việc bán phá giá gây thiệt hại vật chất do hàng
nhập khẩu được bán phá giá gây ra ở Hoa Kỳ hoặc ở nơi khác, hoặc liệu
người nhập khẩu biết hay đáng lẽ phải biết rằng người xuất khẩu đã bán hàng
hoá được xem xét với giá thấp hơn giá trị chuẩn và rằng có khả năng xảy ra
thiệt hại vật chất do những việc bán hàng đó gây ra; và
2/ Đã có việc nhập khẩu ồ ạt hàng hoá được xem xét trong khoảng thời
gian tương đối ngắn (được xác định bằng cách so sánh với thời gian ngay
trước và ngay sau ngày đệ đơn khiếu kiện).
Khi xác định thiệt hại cuối cùng của mình, ITC cũng có thể xác định
liệu có hay không có các sự kiện đặc biệt tồn tại, mà không tiến hành xác định
độc lập thiệt hại vật chất liên quan đến số lượng tăng đột ngột của hàng hoá
nhập khẩu. Thêm nữa, ITC phải xác định có hay không việc tăng đột ngột của
hàng hoá nhập khẩu trước lệnh đình chỉ hoặc việc bán tống bán tháo hàng tồn
sẽ có khả năng làm suy giảm nghiêm trọng hiệu lực tác dụng của bất kỳ lệnh
nào có thể được đưa ra hay không.
8.3. Chấm dứt điều tra
Bộ Thương mại có thể chấm dứt một cuộc điều tra vào bất kỳ thời điểm
nào khi có sự rút lại đơn kiện của bên khiếu kiện mà đây là căn cứ để Bộ
Thương mại dựa vào khi ra quyết định chấm dứt và sau khi thông báo với tất
cả các bên có quyền và lợi ích liên quan. Nếu việc chấm dứt được dựa trên cơ
sở một thoả thuận bởi chính phủ nước ngoài cam kết hạn chế số lượng hàng
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
40
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
xuất khẩu vào Hoa Kỳ, Bộ Thương mại phải xác định xem việc chấm dứt như
vậy có vì lợi ích chung hay không bằng cách xem xét:
1/ liệu thoả thuận sẽ có tác động bất lợi đến người tiêu dùng Hoa Kỳ
hơn là sẽ áp dụng các thuế chống bán phá giá;
2/ tác động tương đối đến lợi ích thương mại quốc tế của Hoa Kỳ; và
3/ tác động tương đối đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp nội
địa Hoa Kỳ.
ITC cũng có thể chấm dứt một cuộc điều tra khi bên khiếu kiện rút lại
đơn kiện.
8.4 Việc chống âm mưu bán phá giá
Các vấn đề về âm mưu bán phá giá thường phát sinh khi có các sản
phẩm hoàn thiện từ một quốc gia phải chịu một lệnh thuế chống bán phá giá.
Để tránh phải trả những khoản thuế, một nhà xuất khẩu ở nước phải chịu lệnh
chống bán phá giá có thể gửi các bộ phận hàng hoá của mình tới một nước thứ
ba hoặc tới Hoa Kỳ để lắp ráp hoàn chỉnh. Âm mưu này cũng có thể phát sinh
khi hàng hoá được thay đổi mẫu mã hoặc hình thức bên ngoài để tránh thuế.
Các điều khoản chống âm mưu bán phá giá được ban hành lần đầu tiên ở Hoa
Kỳ vào năm 1988 là một phần của Luật Cạnh tranh và Thương mại tổng hợp
và được sửa đổi năm 1994.
Theo các điều khoản chống âm mưu bán phá giá của Hoa Kỳ, sản phẩm
hoàn thiện được xuất khẩu từ một nước thứ ba hoặc các bộ phận cấu thành
được gửi tới Hoa Kỳ để lắp ráp hoàn thiện có thể cùng phải chịu sự điều chỉnh
của lệnh chống bán phá giá khi một số điều kiện nhất định được thoả mãn.
Các điều kiện để phải chịu sự điều chỉnh của lệnh chống bán phá giá bao
gồm: (1) Các bộ phận hoặc bộ phận cấu thành được sản xuất ở nước ngoài
phải chịu một lệnh chống bán phá giá; (2) quá trình lắp ráp hoàn thiện ở Hoa
41
Kỳ hoặc ở nước thứ ba phải là thứ yếu hoặc sơ sài; và (3) giá trị của các bộ
phận được nhập khẩu vào Hoa Kỳ hoặc một nước thứ ba từ nước phải chịu
lệnh chống bán phá giá là một phần nhỏ trong tổng giá trị sản phẩm hoàn
thiện.
Để xác định liệu quá trình lắp ráp hoặc hoàn thiện là thứ yếu hoặc sơ
sài, Bộ Thương mại sẽ xem xét:
- Mức đầu tư vào Hoa Kỳ;
- Mức nghiên cứu và phát triển ở Hoa Kỳ;
- Bản chất của quá trình sản xuất ở Hoa Kỳ; và
- Liệu giá trị gia công chế biến ở Hoa Kỳ (hoặc ở nước thứ ba) có
chiếm một phần nhỏ trong tổng giá trị của hàng hoá được bán ở Hoa Kỳ hay
không.
Không yếu tố nào là quyết định và các điều khoản không có ý tạo ra
các con số tiêu chuẩn cứng nhắc. Để xác định liệu có gộp các bộ phận hoặc
các bộ phận cấu thành vào phạm vi điều chỉnh của lệnh chống bán phá giá hay
không, Bộ Thương mại sẽ xem xét:
- Mô hình buôn bán kể cả các kiểu nguồn cung cấp;
- Liệu nhà sản xuất hoặc xuất khẩu các bộ phận hoặc bộ phận cấu thành
liên kết có quan hệ chi phối với người lắp ráp hoặc hoàn thiện sản phẩm bán ở
Hoa Kỳ hoặc ở nước thứ ba hay không;
- Liệu việc nhập khẩu những bộ phận hoặc bộ phận cấu thành có tăng
lên kể từ khi bắt đầu điều tra để ban hành lệnh liên quan hay không.
8.5. Huỷ bỏ lệnh thuế chống bán phá giá
Bộ Thương mại có quyền huỷ bỏ lệnh thuế chống bán phá giá đang áp
dụng cho một nhà sản xuất hoặc xuất khẩu cụ thể nếu các điều kiện nhất định
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
42
Chương I: Khi qúat chung về Luật Chống bán phá giá của Mỹ
được thoả mãn. Để ra lệnh huỷ bỏ một phần do người có quyền và lợi ích liên
quan yêu cầu, Bộ Thương mại cũng phải có kết luận rằng:
1/ Nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất bán hàng hoá không thấp hơn giá
trị chuẩn trong một khoảng thời gian 3 năm liên tiếp;
2/ Trong tương lai nhà sản xuất hoặc xuất khẩu có thể sẽ không bán
hàng hoá thấp hơn giá trị chuẩn; và
3/ Nhà sản xuất hoặc xuất khẩu đồng ý bằng văn bản chấp nhận việc tái
áp dụng lệnh thuế chống bán phá giá ngay lập tức nếu Bộ Thương mại kết
luận rằng việc bán phá giá lại tiếp diễn.
Nếu tất cả các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu đáp ứng được những điều
kiện này, toàn bộ lệnh áp thuế chống bán phá giá có thể sẽ được huỷ bỏ.
Những yếu tố này không có tính chất quyết định và Bộ Thương mại có thể
yêu cầu và xem xét chứng cứ bổ sung liên quan để phục vụ cho việc ra quyết
định huỷ bỏ của mình.
8.6. Điều khoản chống lẩn tránh (Anti-circumvention)
Luật chống bán phá giá của Mỹ cho phép kéo dài thời gian áp dụng
thuế nếu các nhà xuất khẩu đang chịu thuế chống bán phá giá có ý lẩn tránh
bằng việc chuyển sang sản xuất ở nước nhập khẩu hoặc một nước thứ ba rồi
xuất khẩu sản phẩm từ nước thứ ba đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp bán sản
phẩm chỉ thay đổi một chút so với sản phẩm đang chịu thuế.
Để xác định liệu sản phẩm sản xuất ở Mỹ hoặc ở một nước thứ ba có phải
là lẩn tránh hay không, cơ quan điều tra sẽ căn cứ vào yếu tố: tỷ lệ giá, mô hình
thương mại, mối quan hệ giữa nhà sản xuất và nhà nhập khẩu, tỷ lệ giữa các bộ
phận nhập khẩu từ nước đang chịu thuế và sản phẩm hoàn chỉnh được sản xuất tại
43
Mỹ hay ở nước thứ ba. Tuy nhiên do không có một chuẩn mực cụ thể nào cho
những đánh giá này nên nó phụ thuộc vào việc tự quyết của Mỹ.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
44
Chương II
Vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ
I. Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ
1. Nguyên nhân
Theo thống kê, Mỹ là nước đứng đầu trong số các thị trường tiêu thụ
thuỷ sản của Việt Nam. Năm 2001, Việt Nam xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ đạt
500 triệu USD, chiếm gần 50% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào
Mỹ. Tuy nhiên, cá tra và cá basa của Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ mới chỉ
chiếm 1,7% thị trường tiêu thụ cá da trơn của Mỹ.
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra và cá basa sang Mỹ từ năm 1996.
Năm 1998, sản phẩm cá da trơn phi lê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu
sang đây mới chỉ đạt 260 triệu tấn, thì đến năm 2000, lượng hàng này tăng vọt
lên hơn 3.000 tấn và đến năm 2001 thì đã đạt con số kỷ lục: xấp xỉ 8.000 tấn.
Sản phẩm cá tra, cá basa philê do Việt Nam sản xuất được người tiêu dùng
Mỹ đặc biệt ưa chuộng do chất lượng ngon, giá thành hạ. Trước tình hình sản
phẩm hải sản của Việt Nam bước đầu đặt chân được vào thị trường Mỹ, Hiệp
hội chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA) đã thể hiện phản ứng bằng việc đưa ra
chủ trương chống các sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam. Cũng chính vào
thời điểm này, một "trận tuyến" mới đầy gay go, phức tạp đã bắt đầu. Trước
tiên, Mỹ đã phê chuẩn một đạo luật cấm Việt Nam sử dụng tên “catfish” cho
các sản phẩm cá xuất khẩu của mình.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cùng tìm hiểu tên gọi Catfish.
Catfish là tên tiếng Anh chỉ tất cả các loài cá da trơn (không có vảy), gồm cá
trê, cá nheo, cá tra, basa, cá bông lau, cá lăng…theo hệ thống phân loại ngư
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
42
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
loại học. Tất cả các loài cá nói trên đều thuộc bộ cá nheo (Siluriformes), gồm
khoảng 2.500-3.000 loài cá khác nhau, phân bổ trong các thuỷ vực nước ngọt,
mặn, lợ trên khắp thế giới. Các loài cá này được xếp vào các họ cá khác nhau,
trong đó có họ cá nheo Mỹ (Ictaluridae) và họ cá da trơn châu á
(Pangasiidae). Cá tra, cá basa của Việt Nam là các loài cá đặc hữu của vùng
châu thổ sông Mêkông thuộc giống Pangasius, họ Pangasidae, bộ Slurifornes.
Về mặt khoa học và tập quán thương mại, không thể lấy tên một nhóm sản
phẩm lớn của thuỷ sản thế giới để dành riêng cho một loài nào trong số đó.
Trên tất cả các bao bì của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam đều ghi
rõ dòng chữ tiếng Anh "sản phẩm của Việt Nam" hoặc "sản xuất tại Việt
Nam", và thực hiện việc ghi đầy đủ cả tên khoa học lẫn tên thương mại theo
đúng quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của mỹ là Cục
quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA) đối với sản phẩm xuất khẩu vào thị
trường Mỹ. Vậy CFA đã dùng những lý do gì để chống lại việc nhập khẩu
cá tra, cá basa của Việt Nam vào Mỹ?
Luận điểm chính của CFA để chống việc nhập khẩu cá tra và basa Việt
Nam vào Mỹ đó là:
Sự xuất hiện của sản phẩm cá da trơn giá rẻ từ Việt Nam đã khiến tổng trị
giá catfish bán ra của các nhà nông nghiệp Mỹ giảm mạnh từ 446 triệu
USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Sản phẩm của Việt
Nam thường có giá rẻ hơn từ 0,008 đến 1 USD/pound (1 pound tương
đương khoảng 0,454kg).
CFA cho rằng cá da trơn Việt Nam đã nhập khẩu ồ ạt vào Mỹ, làm cho giá
cá của Mỹ cũng giảm theo.
Thêm nữa, họ nói rằng cá Việt Nam nuôi trong môi trường nước bị ô nhiễm,
không đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.
43
Phía CFA yêu cầu sản phẩm cá da trơn không được gọi là catfish, vì như
vậy là vô hình chung ăn theo uy tín của cá nheo Mỹ, cái uy tín mà họ mất
nhiều năm trời và đổ bao tiền của mới tạo dựng được.
2. Danh sách các bên trong vụ kiện
2.1 Bên Nguyên đơn:
Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA)
Đại diện cho bên nguyên đơn: Liên doanh Luật Akin Gump Strauss
Hauer & Field LLP, với nhóm luật sư: Valerie A. Slater; J. David Park và
Thea D. Rozman- Louis Thompson, Chủ tịch Hiệp hội các chủ trại nuôi cá
nheo Mỹ – CFA; Hugh Warren, Phó Chủ tịch CFA.
* 8 nhà sản xuất cá catfish:
- Ông Randy Rhodes, Công ty Southern Pride Catfish;
- Kim Cox và Bill Dauler, Công ty Consolidated Catfish;
- Randy Evans, Trại cá nheo Evans Fish;
- Seymour Johnson, Công ty Marie Planting;
- Charles Pilkinton, Trại cá nheo Pilkinton Brothers Catfish.
* 4 công ty chế biến catfish:
- David Pearce, đại diện Hãng Pearce Catfish Farm;
- Danny Walker, đại diện Công ty Heartland Catfish;
- Thomas L. Rogers, đại diện Hãng Capital Trade;
- Daniel W. Klett, đại diện Hãng Capital Trade.
2.2 Bên bị đơn:
DN thành viên Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP)
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
44
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
Đại diện là: PGS. TS Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế
biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam – VASEP;
- Ông Ngô Phước Hậu, Tổng giám đốc Công ty XNK Thuỷ sản An
Giang (Agifish);
- Ông Nguyễn Hữu Chí, Phó Vụ trưởng Vụ pháp chế Bộ Thương mại
Việt Nam;
- Christine Ngo, Giám đốc Công ty Thực phẩm quốc tế H&N;
- Matthew Fass, Chủ tịch Tập đoàn Maritime Products International;
- Robin Rackowe, Chủ tịch tập đoàn International Marine Fisheries;
- TS. Carl Ferraris, Học viện Khoa học California;
- Roger Kratz, Công ty Captain's Table;
- Diệp Hoài Nam, Luật sư của White & Case Vietnam;
- Đại diện Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ là ông Nguyễn Hữu Chí, cùng
nhóm luật sư William J. Clinton, K. Minh Dang, Lyle Vander Schaaf và Keir
A. Whitson.
II. Diễn biến vụ kiện
1. Diễn biến
Ban đầu, vào cuối năm 2000, CFA tung lên báo chí Mỹ những thông
tin thất thiệt, bôi xấu hình ảnh cá tra, cá basa Việt Nam. Đến tháng 2/2001,
lúc này ở Mỹ khan hiếm cá nheo, cá Việt Nam nhập khẩu tăng, cuộc chiến lại
rộ lên. Họ bắt đầu một chiến dịch quảng cáo kéo dài 9 tháng, tiêu tốn 5,2 triệu
USD do Viện cá nheo Mỹ (TCI) phát động và được CFA tài trợ để chống lại
việc nhập khẩu cá tra và basa của Việt Nam.
45
Tháng 6/2001, Chủ tịch CFA gửi thư yêu cầu đến Tổng thống Bush đề
nghị Chính phủ Mỹ đàm phán với Việt Nam một hiệp định riêng về vấn đề cá
catfish, đồng thời thuê mướn luật sư, thu thập thông tin, đẩy mạnh tuyên
truyền hạ thấp uy tín cá Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở đó, CFA tìm mọi
cách thu hút nghị sỹ Quốc hội, nhất là ở những bang có nghề nuôi cá nheo để
cung cấp thông tin một chiều, tạo nên một hình ảnh chung rất xấu cho sản
phẩm cá Việt Nam cùng những nguy cơ mà người nuôi cá nheo Mỹ có thể
phải gánh chịu nếu không siết chặt các quy định nhập khẩu.
Sau khi bắt đầu cuộc công kích sản phẩm cá của Việt Nam nhưng
không mang lại mấy hiệu quả, CFA đã quyết định tấn công mạnh mẽ hơn
bằng một loạt "đòn hiểm ác". Mở đầu, một số Thượng và Hạ nghị sỹ đại diện
cho những bang có nuôi cá nheo cùng ký tên vào một bức thư gửi Đại diện
thương mại Mỹ Robert Zoellick, cho rằng cá tra, cá basa từ Việt Nam đang
gây thiệt hại cho nghề nuôi cá nheo Mỹ, đề nghị chính phủ Mỹ phải sớm ra
tay can thiệp.
Ngày 11/7/2001, một số thượng nghị sỹ bang Mississippi và Arkansas
lên tiếng kêu gọi Quốc hội thông qua một dự luật về ghi nhãn đối với nguồn
gốc xuất xứ của cá nuôi nhập khẩu trong khi bán lẻ, song không được ủng hộ.
Ngày 5/10/2001, Hạ viện Mỹ thông qua dự luật HR. 2964 chỉ cho phép
sử dụng tên cá "catfish" cho riêng các loài thuộc họ Ictaluridae (họ cá Nheo
Mỹ).
Ngày 25/10/2001, Thượng viện Mỹ tiếp tục biểu quyết miệng, thông
qua 35 điều luật bổ sung cho dự án số HR. 2330 về phân bổ ngân sách nông
nghiệp năm tài chính 2002, không cho phép FDA sử dụng ngân sách được cấp
để làm thủ tục cho phép nhập khẩu các loài cá da trơn mang tên "catfish" trừ
phi chúng thuộc họ cá nheo Mỹ. Tiếp đó không lâu, Quốc hội Mỹ thông qua
Đạo luật An ninh trang trại và Đầu tư nông thôn HR. 2646 cấm hoàn toàn
việc dùng tên "catfish" cho cá tra, cá basa Việt Nam, áp dụng trong tất cả các
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
46
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
khâu từ nhập khẩu, bán buôn, bán lẻ, nhà hàng, quảng cáo, thông tin... trong
vòng 5 năm và có khả năng sẽ kéo dài vĩnh viễn. CFA không chỉ dừng ở đó
mà lại vin tiếp vào điều khoản 10806 của Đạo luật An ninh nông trại và đầu
tư nông thôn mới nhất xác lập "chủ quyền tuyệt đối" trên thương hiệu catfish.
Trước tình hình này, các doanh nghiệp của ta đã phải từ bỏ cái tên catfish để
trở về với cái tên thuần Việt nam là "cá basa", "cá tra". Hiện nay, các doanh
nghiệp xuất khẩu cá da trơn Việt Nam vào thị trường Mỹ vẫn sử dụng 6 tên
thương mại có từ "basa", tức là những tên gọi không có từ "catfish" đi kèm:
Basa, Bocourti, Basa bocourti; cá tra là: Hypo Basa, Sutchi Basa và Trasa.
Và cuối cùng, ngày 28/6/2002, CFA đã chính thức khởi kiện Việt Nam
bán phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ tại Washington DC. CFA cáo
buộc 53 doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, basa Việt Nam nhập khẩu
vào Mỹ.
Ngày 29/6/2002, VASEP đã ra tuyên bố bác bỏ cáo buộc của CFA về
việc các doanh nghiệp của VASEP bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trường
Mỹ. VASEP khẳng định rằng các thành viên của Hiệp hội đã tuân thủ nghiêm
túc quy tắc thương mại của Mỹ và luật pháp quốc tế.
Trong đơn kiện CFA đã đưa ra đề nghị cách tính biểu thuế chống bán
phá giá như sau: nếu Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường thì cách tính
giá phải theo kiểu của Mỹ và nếu Việt Nam bán phá giá thì mức thuế chống
bán phá giá sẽ là 144%. Nếu Việt Nam không được công nhận là nước có nền
kinh tế thị trường thì sẽ lấy mức giá cả của ấn Độ – nước mà CFA cho rằng có
trình độ phát triển tương đương - để áp vào cách tính giá cá basa của Việt
Nam (nếu có bán phá giá, mức thuế áp dụng sẽ là 191%). Các yếu tố để tính
giá sẽ là: giá cá nuôi sống, giá phế liệu, bao bì, đóng gói, nhân công lao
động…
Trước tình hình này, các doanh nghiệp Việt Nam tập hợp trong VASEP
(Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam) cũng đã sẵn sàng những
47
biện pháp đối phó, trong đó có việc ký hợp đồng với Công ty luật White &
Case - Công ty Luật lớn đứng thứ 5 ở Mỹ để tư vấn cho thành viên của hội,
chuẩn bị đối phó với khả năng Mỹ mở cuộc điều tra về việc bán phá giá đối
với cá tra, cá basa nhập từ Việt Nam.
Ngày 3/7/2002, ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ (ITC) đã gửi đến
VASEP một bảng câu hỏi liên quan đến vấn đề cá tra, cá basa, theo đó Uỷ ban
này có kế hoạch tiến hành điều tra xem liệu cá philê đông lạnh nhập khẩu từ
Việt Nam vào Mỹ có được bán phá giá thấp hơn giá trị thực, gây thiệt hại cho
ngành nông nghiệp của Mỹ hay không?
Phiên điều trần thứ nhất của vụ kiện phá giá đầu tiên trong thương mại
giữa Việt Nam và Mỹ đã diễn ra tại Washington D.C vào ngày 19/7/2002 và
kết thúc vào ngày 20/7/2002 tại Washington DC. Tại buổi điều trần, các
doanh nghiệp Việt Nam đã đưa ra những tài liệu để bảo vệ cho lẽ phải của
mình: Việt Nam không hề bán phá giá cá tra, cá basa và các sản phẩm cá da
trơn phi lê đông lạnh của Việt Nam chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ không thể
gây ảnh hưởng tới tình hình nuôi trồng và chế biến cá nheo của Mỹ.
Phiên điều trần này chỉ mang tính thu thập thông tin để từ đó ITC có
thể đưa ra kết luận về khả năng bán phá giá của Việt Nam vào Mỹ. Tại đây,
Việt Nam đã có những lý lẽ xác đáng để chứng minh không bán phá giá cá da
trơn vào Mỹ. Ngoài ra, chúng ta còn được sự ủng hộ của nhiều nhà nhập
khẩu, các nhà khoa học nên tiếng nói của các doanh nghiệp Việt Nam càng có
trọng lượng còn phía CFA thì khá lúng túng trong việc chứng minh các luận
điểm của mình và chuyển sang kêu ca những thiệt hại mà họ cho rằng do
chúng ta gây ra.
Tuy nhiên, đến ngày 8/8/2002, ITC đã bỏ phiếu và thống nhất kết luận:
"Dựa trên kết quả điều tra sơ bộ, ITC thấy ngành nuôi cá da trơn của Mỹ có
thể có nguy cơ bị đe dọa bởi mặt hàng cá da trơn đông lạnh nhập khẩu từ Việt
Nam bán với giá thấp". Đây là kết luận bất lợi, đẩy vụ kiện sang giai đoạn 2
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
48
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
của quá trình tranh tụng – giai đoạn căng thẳng và quan trọng nhất của vụ
kiện. Giai đoạn này sẽ kết thúc vào 5/12/2002, khi Bộ Thương mại Mỹ
(DOC) đưa ra kết luận sơ bộ về vụ kiện trên.
Ngày 12/8/2002, DOC tiếp nhận vụ kiện, tiến hành các bước điều tra
tiếp theo và yêu cầu 53 doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị báo cáo về tình hình
chế biến và doanh số xuất cá basa, cá tra sang Mỹ. Cũng vào ngày này, Chính
phủ Việt Nam đã giao cho Bộ Thương mại, phối hợp với Bộ Kế hoạch Đầu
tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội,
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cùng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế
Trung ương soạn thảo văn bản giải trình đề nghị Mỹ trao cho Việt Nam quy
chế nền kinh tế thị trường. Nội dung của văn bản là làm rõ khả năng chuyển
đổi tự do của đồng nội tệ (VNĐ); sự thỏa thuận tự do giữa chủ doanh nghiệp
và lao động về lương bổng; mức độ mà các công ty liên doanh cũng như các
loại hình kinh tế khác được hoạt động tại Việt Nam; mức độ sở hữu và quyền
kiểm soát của Chính phủ đối với các phương tiện sản xuất; quyền hạn kiểm
soát của Chính phủ đối với việc phân phối tài nguyên cũng như giá cả và đầu
ra cho các doanh nghiệp; và một vài yếu tố cần thiết khác... Đây cũng là
những tiêu chí mà DOC yêu cầu Việt Nam phải giải trình. Theo thông lệ,
ngoài văn bản giải trình, Việt Nam cần có ý kiến ủng hộ của các tổ chức quốc
tế, các doanh nghiệp nước ngoài đang làm ăn tại Việt Nam... Về phía mình,
Việt Nam đã và đang làm hết sức mình để Việt Nam có thể được công nhận là
nước có nền kinh tế thị trường. Việc này có ý nghĩa rất quan trọng đối với vụ
kiện cá basa, đồng thời tạo thuận lợi cho Việt Nam trong các mối quan hệ
thương mại quốc tế sau này.
Ngày 22/8/2002, ITC đã công bố quan điểm về vụ kiện. Theo đó, ITC
không coi catfish là sản phẩm cạnh tranh trực tiếp với cá basa và cá tra của
49
Việt Nam và loại 500 chủ nông trại cá nheo Mỹ ra khỏi danh sách nguyên
đơn...
Ngày 26/8/2002, DOC đã công bố hoãn thời gian đưa ra kết luận về
cuộc điều tra sơ bộ đến 24/1/2003, chậm 50 ngày so với lộ trình ban đầu.
Ngày 2/10/2002, Đoàn chuyên gia của Bộ Thương mại Mỹ (DOC) do
Phó trợ lý Bộ trưởng Thương mại Mỹ - ông Joseph. A. Spetrini dẫn đầu đã tới
Hà Nội và có buổi làm việc với Bộ Thương mại Việt Nam về vụ kiện này.
Việc đoàn DOC của Mỹ sang Việt Nam được xem như bước khởi đầu giai
đoạn 3 (giai đoạn xác định sơ bộ của DOC) trong tiến trình vụ kiện bán phá
giá cá tra, cá basa tại Mỹ mặc dù đại diện đoàn công tác này cho rằng chuyến
đi này chỉ nhằm mục đích là tìm hiểu tình hình nuôi cá tra, cá basa của một
vài tỉnh phía Nam; gặp gỡ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu cá
tra, cá basa vào thị trường Mỹ; hướng dẫn trả lời các câu hỏi điều tra của
DOC liên quan đến vụ kiện này. Nhân đây, DOC sẽ trực tiếp điều tra tại 4
công ty xuất khẩu lớn nhất (chiếm 60% sản phẩm xuất khẩu) của Việt Nam
gồm: Công ty XNK thủy sản An Giang (Agifish); Công ty Nông súc sản Cần
Thơ (Cataco); Công ty TNHH Nam Việt Fish và Công ty TNHH Vĩnh Hoàn.
Về phía Việt Nam, Bộ Thương mại cho rằng, việc đoàn chuyên gia
DOC vào làm việc với các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp Việt
Nam là hữu ích cho cuộc điều tra, cũng như tạo điều kiện cho các chuyên gia
Mỹ thấy được nền kinh tế Việt Nam đang vận hành theo nền kinh tế thị
trường, bởi không có nơi nào có nền kinh tế thị trường thuần khiết bởi ngay
như Mỹ cũng đã thông qua ngân sách trợ cấp cho ngành nông nghiệp là 190
tỷ USD trong 10 năm. Nền kinh tế Việt Nam nói chung, đặc biệt là các ngành
sản xuất, trong đó có sản xuất cá tra, cá basa luôn hoạt động theo cơ chế thị
trường và khẳng định: Chính phủ Việt Nam không hề có trợ cấp cho các
doanh nghiệp xuất khẩu. Bộ Thương mại Việt Nam cũng nêu ý kiến phản đối
việc khiếu kiện vô lý của CFA đã ảnh hưởng không tốt tới quan hệ thương
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
50
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
mại đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước. Đồng thời đề nghị DOC cần xem
xét lại việc điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các tra, cá basa có
xuất xứ từ Việt Nam để vừa bảo đảm phù hợp với các quy định của luật pháp
Mỹ cũng như các quy định trong Luật Thương mại công bằng trong WTO,
không đi ngược với nguyên tắc tự do hóa thương mại đã nêu trong Hiệp định
Thương mại Việt - Mỹ; không dùng chống bán phá giá để bảo hộ một cách
không hợp lý nền sản xuất cá da trơn của Mỹ.
Ngày 8/11/2002, Phòng Chính sách của Bộ Thương mại Mỹ kiến nghị
coi nền kinh tế Việt Nam là phi thị trường. Nếu xem nền kinh tế của Việt nam
là nền kinh tế phi thị trường thì phía Hoa Kỳ sẽ không dựa trên cơ sở các yếu
tố về sản xuất mà Việt Nam cung cấp để tính giá mà sẽ dùng giá ở một quốc
gia thay thế có nền kinh tế phát triển tương tự như Việt Nam (ví dụ như ấn
Độ, Pakistan…) để áp vào các yếu tố sản xuất của Việt Nam và tính ra giá
thành giả định của sản phẩm cá. Trên cơ sở giá thành giả định đó và so sánh
với giá bán tại thị trường Hoa Kỳ để tính biên độ bán phá giá của sản phẩm cá
của Việt Nam.
Ngày 14/11/2002, DOC đã phê chuẩn kiến nghị coi Việt Nam là nước
có nền kinh tế phi thị trường và chọn ấn Độ là nước thứ ba. Kết luận này được
công bố trên mạng Internet mà không thông báo trực tiếp cho Bộ Thương mại
Việt Nam là đối tác của DOC trong quan hệ song phương. Với tư cách là bị
đơn, VASEP đã ra thông cáo hoàn toàn không đồng ý với kết luận của DOC.
Theo VASEP, trong lập luận của mình, DOC đã không thể chứng minh rằng
nền kinh tế Việt Nam kém tính chất thị trường hơn nhiều nước khác đã được
DOC công nhận là kinh tế thị trường.
Ngày 29/11/2002, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ nộp đơn lên
Bộ Thương mại Mỹ (DOC) cho rằng đã xuất hiện “tình trạng khẩn cấp ” trong
vụ kiện cá basa. CFA đã đưa ra 5 luận điểm cơ bản cho kết luận trên gồm: (1)
Các nhà xuất khẩu Việt Nam biết cá basa filê đã bị bán phá giá; (2) Các nhà
51
xuất khẩu có thông tin về việc áp thuế chống bán phá giá với công ty mình ở
mức 25% hoặc cao hơn nữa trong giai đoạn điều tra ban đầu của DOC (kết
thúc vào ngày 24/1/2003); (3) Các nhà xuất khẩu Việt Nam đã tăng số lượng
hàng sang Mỹ sau khi CFA nộp đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá (ngày
28/6/2002); (4) Tính từ ngày 28/6/2002, số lượng hàng xuất khẩu của Việt
Nam sang Mỹ tăng ở mức 15% hoặc cao hơn nữa so với thời gian trước ngày
nộp đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá; (5) Cần áp dụng thuế chống bán
phá giá để đảm bảo hiệu quả của thuế chống bán phá giá sẽ được ban hành
vào ngày 24/1/2003.
Điều này có nghĩa là thuế chống bán phá giá có thể được áp dụng đối
với các chuyến hàng nhập khẩu vào Mỹ kể từ ngày 26/10/2002 nếu như DOC
và ITC quyết định là “trường hợp khẩn cấp” có tồn tại.
Tuy nhiên quy định về “tình trạng khẩn cấp” theo Luật Chống bán phá
giá của Mỹ là nhằm đề phòng các nhà xuất khẩu tăng lượng hàng xuất trước
khi DOC áp dụng thuế chống bán phá giá và DOC chỉ quyết định có xuất hiện
tình trạng này khi có hai điều kiện: (1) Một công ty đã từng bán phá giá mặt
hàng bị điều tra tại Mỹ hoặc tại một nước khác; nhà nhập khẩu đã biết hoặc
đáng lẽ phải biết rằng mặt hàng bị điều tra đã bán phá giá; (2) Mặt hàng bị
điều tra đã được nhập khẩu ồ ạt trong thời gian tương đối ngắn.
Trong vụ kiện cá basa này, tất cả các nhà xuất khẩu đều xuất hàng cho
các công ty không liên kết, do vậy nếu DOC khẳng định là “trường hợp khẩn
cấp” có tồn tại thì thuế suất sẽ là 25%. Để xác định lượng hàng xuất khẩu
sang có phải là ồ ạt trong “một khoảng thời gian tương đối ngắn” hay không,
DOC sẽ so sánh lượng hàng được xuất sang Mỹ sau khi khởi sự điều tra
(thường là 3 tháng trước ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá)
với lượng hàng xuất trong khoảng thời gian ngay trước khi tiến hành điều tra
(3 tháng trước ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá) xem mức
chênh lệch có tới 15% hay không. Cũng theo Luật chống bán phá giá của Mỹ,
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
52
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
để xác định “trường hợp khẩn cấp” cần phải có quyết định của cả DOC và
ITC. Ngoài ra, bên nguyên đơn còn phải chứng minh “có thiệt hại đáng kể”
nhưng tại thời điểm này thì ITC mới quyết định sơ bộ là “chỉ có nguy cơ gây
thiệt hại nghiêm trọng” chứ không phải là “có thiệt hại đáng kể vào thời điểm
hiện tại” nên sự tồn tại của cái gọi là “trường hợp khẩn cấp” của CFA bị bác
bỏ. Do vậy không cần áp dụng biện pháp hồi tố 90 ngày (từ ngày 31/2/2003
trở về trước) đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngày 27/1/2003, DOC ra phán quyết các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu hàng sang Mỹ bán phá giá và đề nghị mức thuế đối với cá basa Việt
Nam nhập vào Mỹ là 37,94% - 63.88%. Mức thuế do DOC đưa ra sẽ được áp
dụng ngay sau khi thông báo. Tuy nhiên đó chỉ là quy định tạm thời vì trong
trường hợp quyết định của DOC thiếu khách quan, phía Việt Nam có thể tiếp
tục theo đuổi vụ kiện thông qua việc điều trần tại Uỷ ban Thương mại Mỹ
(ITC). Khi ấy phán quyết cuối cùng sẽ được ITC đưa ra vào tháng 6/2003.
Trước phán quyết ngày 27/1/2003, Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam
(VASEP) tuyên bố rằng Việt Nam sẽ tiếp tục theo vụ kiện bán phá giá cá basa
nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của những người sản xuất cá
basa Việt Nam.
Ngày 1/3/2003, DOC sửa mức thuế phá giá đối với cá basa Việt Nam
(trong khoảng 31,45% - 63,88% thay vì 37,94% - 63,88%).
Bảng Điều chỉnh mức thuế chống bán phá giá của DOC.
Tên công ty
Mức trước đây
Mức sau khi sửa
Agifish
61,88%
31,45%
Cataco
41,06%
41,06%
Vĩnh Hoàn
37,94%
37,94%
Navifishco
53,96%
38,09%
Các công ty khác có 49,16%
36,76%
tham gia vụ kiện
53
Các công ty không 63,88%
63,88%
tham gia vụ kiện
Nguồn: Vnexpress ngày 1/3/2003 Bài DOC sửa mức thuế phá giá đối với cá
basa của Việt Nam.
Đây được coi là hành động sửa sai của DOC sau khi Việt Nam chỉ ra rõ
những thiếu sót trong cách tính toán của họ. Song phương pháp tính toán của
DOC vẫn không xem xét đến bản chất quy trình sản xuất khép kín của công
nghiệp sản xuất cá tra và cá basa Việt Nam cũng như số liệu về các yếu tố sản
xuất thực tế mà phía Việt Nam cung cấp, do vậy mà VASEP vẫn tiếp tục đề
nghị DOC phải thay đổi hoàn toàn quyết định sơ bộ của mình.
Ngày 17/3/2003, DOC trực tiếp điều tra thực trạng nuôi cá basa tại Việt
Nam và đề nghị Việt Nam thảo luận về thoả thuận đình chỉ vụ kiện và thay
bằng việc áp dụng hạn ngạch và giá xuất khẩu đối với việc xuất khẩu mặt
hàng này. Dù đã nhiều lần khẳng định không bán phá giá các sản phẩm này,
phía Việt Nam vẫn chấp nhận đề nghị đàm phán và cử chuyên gia các Bộ
Thương mại, Bộ Thuỷ sản, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và Văn phòng chính
phủ sang Washington để thương thảo.
Ngày 20/5/2003, Thoả thuận về đình chỉ vụ kiện bị đổ vỡ.
Ngày 14/6/2003, VASEP sang Washington dự phiên điều trần cuối
cùng (ngày 17/6/2003) trước Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), cơ
quan trọng tài của vụ kiện. Tại phiên điều trần này, ý kiến của DOC cùng
phần trình bày của hai bên (VASEP và Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ CFA) sẽ là căn cứ quan trọng để ITC xem xét và đưa ra phán quyết cuối cùng.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
54
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
Ngày 17/6/2003, DOC vẫn tuyên bố Việt Nam bán phá giá cá tra và cá
basa và dự định áp dụng một mức thuế rất cao với cá tra, basa của Việt Nam
trong khoảng 36,84% - 63,88% thay vì 31,45% - 63,88% như trước đây.
Đây thực sự là mộU cú sốc‡ệối với tất cả các thành viên trong đoàn Việt Nam
tham dự phiênD‹iều trầ: hôm đó và đặc biệt là các doanh nghiệp thủy sản
đang làm ăn với Mỹ.
Theo kết luận này các công ty tham gia và_quá trình đi°u tra bán phá
giá của DOC gồm Agifish, Cataco, Nam Việt (Nĩvifishco), V_
h Hoàn sẽ chịu mức thuế từ 36,84% đến 52,90%. Những đơn vị khác có tham
gia vụ kiện nhưng chỉ trả lời các câu hỏi phần A của DOC (bộ câu hỏi điều tra
bán phá giá) như Afiex, Cafatex, Đà Nẵng…sẽ chịu mức thuế 44,66%. Các
đơn vị khác cũng tham gia xuất sản phẩm sang Mỹ nhưng không theo kiện sẽ
cNịu mức 2Puế 63,88%.
Theo quy định của Luật chống bán phá giá Mỹ, quyết :ònh cuối#cùng
sẽ do Uỷ ban Thương mại quốc tế Mỹ đưa ra trong 45 ngày tiếp đó. Chỉ khi
cơ quan này phán quyết cá tra vàD_á basa filê đông lạnh nhập khẩu từ Việt
Nam vào Mỹ có đe dọa gây thiệt hại hoặc đã gây thiệt hại cho ngành công
nghiệp cá nheo Mỹ, DOC mới có thể ban hành lệnh áp dụng thuế chống bán
phá giá.
2. Phân tích lợi thế của phía Việt Nam trong vụ kiện
Việc Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA) kiện các doanh
nghiệp Việt Nam chế biến và xuất khẩu cu tra, basa "bán phá giá" sang thị
trường
Mỹ
là
dựa
vào
thực
tế
rằng
giá
55
_uất khẩu cá của Việt Nam thấp hơn giá cá nheo của Mỹ. Nhưng đây lại chính
là lợi thế đầu tiên và cũng là lợi t0ế lớn n_7t của Việt Nam trong vụ kiện này
và các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể chứng minh ưu thế này là sự
thật.
Lý do chính mà các nhà chế biến Việt Nam có thể giảm giá bán các sản
phẩm cá tra, basa chính là nhờ "không ngừng cải tiến, áp dụng c°{ tiến b² khoa
học kỹ thuật vào sản xuất giống, nuôi, phòng và chữa bệnh cũng như chế biến".
Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), cá tra, basa chủ yếu
được nuôi trong lồng bè hoặc đăng quầng trên sông. Cá cũng được nuôi trong
ao, nhưng năng suất và chất lượng không cao. Mỗi nhà bè nuôi cá, cũng đồng
thời là nơi sinh hoạt của một hộ gia đình với đầy đủ tiện nghi. Bè cũng là nơi
chứa nguyên liệu và là nơi chế biến thức ăn cho cá. Nhờ vậy, người nuôi cá
không mất tiền thuê ao đìa nuôi cá, không cần thuê nhà ở. Tuy nhiên, vốn đầu
tư để đóng 1 lồng bè 50-60 tấn mất khoảng 200 triệu đồng (5m x15 m x5 m)
cũng khá lớn. Song bù lại có thể khấu hao 6 - 10 năm và chỉ cần lãi vài năm là
hoàn vốn. Cá biệt có những bè lớn cho sản lượng 150- 200 tấn, trị giá cả tỷ
đồng. Từ 2 tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long là An Giang và Đồng Tháp, nghề
nuôi 2 loài cá da trơn này đã lan rộng sang các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền
Giang, Bến Tre và cả Thành phố Hồ Chí Minh. Điều đó cho thấy hiệu quả
mang lại từ nghề nuôi cá tra, basa rất lớn.
So với nghề nuôi cá bè của các nước trong khu vực, nghề nuôi cá tra,
basa ở ĐBSCL đã đạt tới trình độ cao. Từ năm 1995, công nghệ sản xuất con
giống ngày càng được hoàn thiện và chuyển giao rộng rãi cho người nuôi.
Hiện nay, hầu hết người nuôi có thể tự cho cá tra đẻ nhân tạo. Nhờ đó, giá
thành con giống giảm một nửa so với trước đây. Giá cá tra bột 2-3 đ/con, cá
giống 300-500 đ/con. Con cá tra, basa được nuôi trong môi trường nước luôn
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
56
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
luôn chảy nên có thể nuôi với mật độ cao gấp nhiều lần và tỷ lệ hao hụt rất
thấp so với nuôi cá catfish trong ao ở Mỹ. Khối lượng cá khi thu hoạch có thể
đạt 120 -150 kg, thậm chí đến 170 kg/m3 lồng. Đó là chưa kể đến rất nhiều
chi phí khác ở Việt Nam cũng thấp hơn ở Mỹ và hiện đang có xu hướng giảm,
nhờ liên tục cải tiến lồng bè, sử dụng máy móc trong các khâu trộn thức ăn và
cho cá ăn. Một nguyên nhân khác làm giá xuất khẩu cá da trơn giảm mạnh so
với trước là do sự chuyển đổi từ cơ cấu sản phẩm. Năm 1999- 2000, filê cá
basa (giá cao gần gấp 2 lần filê cá tra) chiếm 70% khối lượng xuất khẩu, trong
khi hiện chỉ còn chiếm 10%. Giá thành nguyên liệu cũng giảm 43% (8,5
nghìn đ/kg cá tra so với 15 nghìn đ/kg cá basa) so với trước đây do nông dân
thấy cá tra dễ nuôi hơn cá basa nên tập trung nuôi cá tra là chính.
Với giá bán cho nhà chế biến 14.000 đ/kg - tức là chưa đầy 1 USD/kg
(giá cá nheo nguyên con khoảng 1,3 USD/kg) - người nuôi cũng lãi ít nhất
30%. Như vậy người nuôi có thể yên tâm sản xuất và nhà chế biến cũng
không cần chính phủ trợ cấp. ở Mỹ, chi phí thức ăn nuôi cá nheo chiếm phần
lớn giá thành sản xuất, vì người nuôi hoàn toàn sử dụng thức ăn công nghiệp
chế biến từ ngô và đậu nành. Với ưu thế vựa lúa ĐBSCL, nông dân ta tận
dụng cám và gạo tấm để trộn với cá tạp làm thức ăn, ít sử dụng thức ăn công
nghiệp. Ngoài ra, người nuôi chủ yếu lấy công làm lãi, nếu có thuê thêm thì
tiền công cũng chỉ khoảng 400.000 đ/người/tháng, trong khi 1 giờ công lao
động ở Mỹ là 8-10 USD, nên giá thành 1 kg cá thịt rất thấp.
Một lợi thế khác mà nghề nuôi cá nheo ở đồng bằng sông Mississippi
khó có thể sánh được là khí hậu ở ĐBSCL rất thích hợp cho sự sinh trưởng
quanh năm của cá không như ở Mỹ cá rất chậm lớn về mùa đông. Cá nheo
Mỹ sau 18 tháng nuôi mới đạt 1,5 pao (680 g). Cùng sử dụng thức ăn tự chế
biến giàu đạm, cá tra chỉ cần 8-10 tháng đạt 1 kg và cá basa là 12-14 tháng đạt
1,5 kg. Gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã liên tục đổi mới dây chuyền
57
sản xuất không thua kém gì Mỹ. Họ luôn tìm mọi cách tiết kiệm, hạ chi phí
sản xuất. Phế liệu cá còn được chế biến thành thức ăn gia súc. Ngoài các sản
phẩm philê cá đông lạnh, các DN liên tục đưa ra thị trường các mặt hàng mới
như chà bông (ruốc) cá, khô cá, xúc xích cá, cá kho tộ, cá hun khói... Xương
cá được chế biến thành dược liệu có giá trị kinh tế cao. Bao tử cá và da cá
được chế biến thành món đặc sản. Nhờ vậy đã giúp các nhà chế biến giảm 510% giá thành sản phẩm. Ngoài ra, với nguồn cung cấp nguyên liệu quanh
năm, nên các nhà chế biến phát huy tối đa công suất dây chuyền sản xuất tới
300 ngày sản xuất/năm và khấu hao nhanh.
Những lý do thực tế trên đã chứng minh hết sức rõ ràng tại sao giá cá
xuất khẩu của Việt Nam lại rẻ hơn giá cá nheo của Mỹ.
Mặt khác Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của dư luận đặc biệt là sự
ủng hộ của chính người tiêu dùng Mỹ trong vụ kiện này. Ngoại trừ các bang ở
phía Nam nước Mỹ ủng hộ CFA, các bang còn lại cho rằng đây là một vụ
kiện phi lý. Trước đây, CFA rêu rao rằng “cá Việt Nam giống cá Mỹ như con
mèo giống con bò”, giờ họ quay lại nói rằng con mèo ấy đang gây hại cho con
bò. Đó là sự tráo trở trong lập luận mà không ai kể cả người Mỹ ưng cả. Các
nhà nhập khẩu Mỹ thì cho rằng lý lẽ của CFA không đúng bởi đây là hai
nhóm cá khác nhau, tiêu thụ trên thị trường khác nhau. Cá tra và cá basa của
Việt Nam không phải là sản phẩm thay thế của cá nheo Mỹ mà chỉ mang thêm
sự lựa chọn cho khách hàng mà thôi. Cá nheo của Mỹ chỉ chủ yếu tiêu thụ ở
các bang miền nam nước Mỹ, thị trường hạn chế hơn cá basa nhiều.
Phòng thương mại Mỹ tại Việt Nam (Amcham) cũng gửi thư cho DOC
và ITC để phản đối vụ kiện cá tra, cá basa. Nội dung bức thư nêu rõ thuế
chống bán phá giá đã được DOC tính theo phương pháp bất công, không phản
ánh công bằng các hoạt động nuôi và chế biến thủy sản của các nhà xuất khẩu
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
58
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
Việt Nam. Sáu thượng nghị sỹ Mỹ thuộc cả hai đảng (Cộng hoà và Dân chủ),
tại 6 bang cũng gửi thư đến ITC kêu gọi cơ quan này đưa ra kết luận công
bằng, đúng đắn.
Còn giới báo chí Mỹ thì cho rằng “Cá basa Việt Nam đã viết nên huyền
thoại về ngoại giao và những tranh cãi quanh bàn ăn về bảo hộ”. Họ cho rằng
trên vũ đài của Luật chống bán phá giá, ngành sản xuất cá da trơn của Mỹ
được nâng đỡ quá nhiều so với đối thủ đến từ nước ngoài. Đối với những ai
mong muốn Washington giang tay bảo trợ cho công nhân nước mình thì vụ
kiện cá basa quả là đáng khích lệ. Nhưng những ai muốn Mỹ trung thực hơn
trong việc biến khẩu hiệu tự do thương mại thành hiện thực thì cho rằng vụ
kiện này quả là một trò hề.
Việt Nam không giàu để đi bán phá giá và người dân Việt Nam cũng
không yêu quý người Mỹ tới mức hoan hỉ cho không số cá của họ. Một bộ óc
thông thường chẳng đời nào làm như vậy.
3. Phân tích những cáo buộc phi lý của Mỹ
Cá da trơn, nguồn thực phẩm để chế biến những món ăn đặc trưng và là
niềm tự hào của Việt Nam. Loại cá này gắn với nền văn hoá phong phú vùng
đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, nhưng ở nửa bên kia trái đất, những
cư dân của đồng bằng Mississippi với nền văn hoá cá da trơn của mình lại
cảm thấy tức tối vì trong 3 năm qua người Mỹ đã mua cá da trơn của Việt
Nam với giá rẻ. Cuộc tranh chấp cá da trơn giữa Mỹ và Việt Nam không
thuần tuý để phân định thị phần thích hợp trị giá 500 triệu USD ở Mỹ. Người
Mỹ, cho đến năm 1999 thống soái 95% thị trường nghĩ rằng họ không được
đối xử công bằng khi ngày nay chỉ còn nắm giữ 80% thị trường ấy.
Cuối tháng 12/2001, các nhà lập pháp vùng đồng bằng sông Mississippi
đã tìm cách chèn vào luật pháp Mỹ điều khoản nói rằng người Việt Nam
59
không thể gọi thứ cá da trơn mà họ bán cho Mỹ là catfish mà phải gọi bằng cá
tra hay cá basa.
Đến ngày 13/5/2002, Tổng thống Mỹ phê chuẩn đạo luật An ninh trang
trại và Đầu tư nông thôn H.R. 2646 cấm triệt để việc dùng tên "catfish" trong
dán nhãn, quảng cáo các loại cá da trơn không phải là cá nheo Mỹ, nghĩa là
luật pháp Mỹ không thừa nhận cá tra, cá basa của Việt Nam là "catfish". Thế
nhưng, CFA lại kiện "catfish" Việt Nam ảnh hưởng đến thị trường của họ.
Hơn nữa, mặc dù kiên quyết phản đối cá da trơn của Việt Nam được nhập vào
Mỹ dưới tên “catfish” nhưng đến khi người tiêu dùng Mỹ ngày càng mặn mà
với món cá đến từ Việt Nam thì CFA lại đưa ra so sánh giá bán cá tra và cá
basa Việt Nam với giá cá catfish Mỹ và cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam
đã bán phá giá và vi phạm Luật chống bán phá giá của WTO. Rõ ràng quan
điểm của CFA là không nhất quán và so sánh như vậy là quá khập khiễng,
hơn thế nữa họ cũng vin vào cớ này để đòi hỏi cá Việt Nam phải chịu thuế
như thuế nhập khẩu catfish.
Đối tượng kiện chỉ là philê đông lạnh từ 2 loài cá tra và cá basa nhưng
họ lại liệt kê tất cả các loài cá đông lạnh khác.
Không những thế trong số 53 doanh nghiệp bị cáo buộc bán phá giá thì
có tới 5-6 nhà chế biến được nhắc tên đến 2-3 lần, thậm chí có những nhà chế
biến chưa bao giờ xuất khẩu cá sang thị trường Mỹ cũng được liệt kê trong
đơn (ví dụ như Công ty Cá Hồ Tây).
Rõ ràng, những điều phi lý như vậy chắc chắn CFA không thể không
biết trước khi đệ đơn kiện các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra, cá
basa của Việt Nam.
CFA cho rằng Việt Nam đã bán phá giá cá tra và cá basa sang thị
trường Mỹ vì nhận thấy giá bán xuất khẩu của phía Việt Nam thấp hơn nhiều
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
60
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
so với giá bán cá nheo Mỹ. Nhưng thực tế đã chứng minh rằng đồng bằng
sông Cửu Long được thiên nhiên ưu đãi với những điều kiện tuyệt vời để nuôi
cá tra và cá basa, còn tại Mỹ người nuôi cá nheo phải đầu tư vốn rất lớn mới
có thể tạo ra các điều kiện cần thiết cho cá phát triển. Với những người nông
dân trực tiếp làm ra sản phẩm, niêu cơm của họ trông cả vào tiền bán cá, bảo
họ bán phá giá có khác gì bảo họ tự đập niêu cơm của nhà mình. Sự thật này
rất rõ ràng, không có bằng chứng nào chỉ ra việc con cá Việt Nam được sản
xuất nhằm mục tiêu phá giá ở các thị trường khác.
CFA cũng đã bỏ qua một nguyên nhân khiến các sản phẩm catfish ở
Mỹ giảm trong thời gian gần đây là ngành cá catfish đang sản xuất thừa. Năm
1970, Mỹ chế biến 2500 tấn, năm 2001 con số này lên tới gần 300000 tấn.
Năm 1999, Mỹ nhập khẩu của Việt Nam gần 1000 tấn cá tra, cá basa. Năm
2001 đã nhập tới khoảng hơn 8000 tấn. Các số liệu thống kê của Việt Nam
cho thấy, lượng xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 2%
tổng lượng tiêu thụ trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, phía Mỹ cho rằng con số
này ít nhất vào khoảng 13%.
CFA còn lên tiếng đề nghị DOC xem xét xem liệu Việt Nam có phải là
nước có nền kinh tế phi thị trường hay không. CFA đưa ra các luận điểm
chính : Đồng nội tệ của Việt Nam không được tự do chuyển đổi, hoặc nếu có
thì cũng không vì mục đích tiền tệ và nguồn vốn ; Mức lương không được xác
định trên cơ sở mặc cả tự do giữa chủ doanh nghiệp và người lao động ; Việt
Nam vẫn duy trì sự quản lý hà khắc đối với các liên doanh và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài ; Chính phủ vẫn khẳng định quyền sở hữu và kiểm
soát đối với toàn bộ phương tiện sản xuất ; Chính phủ nắm quyền kiểm soát
việc phân phối tài nguyên, quyết định giá cả cũng như đầu ra của sản phẩm.
61
Họ cho rằng về cơ bản Việt Nam không giống với những nước vừa
được Chính phủ Mỹ trao cho quy chế kinh tế thị trường vì vẫn duy trì chế độ
cộng sản…. Theo các chuyên gia, những nhận xét của CFA thiếu căn cứ thực
tế và thể hiện sự thiếu hiểu biết về tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam hiện
nay.
Ngày 8/11/2002, DOC đã kết luận rằng Việt Nam có nền kinh tế phi thị
trường. Nhưng các quan chức của IMF (Quỹ tiền tệ thế giới) và WB (Ngân
hàng thế giới) đều khẳng định rằng: trong hầu hết các lĩnh vực, Việt Nam đều
chứng tỏ mình là nước có nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, DOC cũng đã nhận
được 11 lá thư ngỏ của các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam như: Hội đồng thương mại ASEAN – Mỹ; Hội đồng
thương mại Việt Mỹ; Phòng thương mại Mỹ tại Việt Nam; Tập đoàn bảo
hiểm Citigroup (Mỹ); Công ty quốc tế Chinfon (Đài Loan); Tập đoàn
Unilever (EU); Công ty TNHH Vedan Việt Nam (Đài Loan); Tập đoàn sản
xuất thức ăn gia súc Cargill (Mỹ); Công ty American Standard Việt Nam và
Tập đoàn bảo hiểm Mỹ New York Life International. Tất cả những lá thư này
đều khẳng định Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường hoặc đang vận
hành theo hướng thị trường, đồng thời đề nghị DOC xác định quy chế nền
kinh tế thị trường cho Việt Nam. Thực tế, về cơ bản, Việt Nam đang nỗ lực
hướng tới một nền kinh tế thị trường kiểu xã hội chủ nghĩa, với các ứng xử
theo nguyên tắc thị trường tự do. Không có nước nào có nền kinh tế thị
trường thuần khiết bởi chính tại Mỹ, chính phủ cũng đã chi khoảng 190 triệu
USD để bảo hộ nền nông nghiệp trong nước và chính các chuyên gia trực tiếp
điều tra vụ kiện này đã thừa nhận điều đó.
Kết quả của việc không công nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị
trường là các luật sư đại diện cho ngành công nghiệp cá da trơn của Mỹ đề
nghị DOC chọn ấn Độ là nước có nền " kinh tế tương tự " để so sánh. Oái ăm
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
62
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
thay, ấn Độ không sản xuất cá da trơn xuất sang Mỹ, nếu có xuất hải sản thì
ấn Độ cũng chỉ xuất những mặt hàng như tôm mà thôi. Hơn nữa, ấn Độ chỉ có
duy nhất một loại cá mang một số đặc điểm hơi giống cá basa và loại cá này
được bán cho nước ngoài với giá gần gấp đôi giá cá xuất khẩu của Việt Nam
do hai nước có lối nuôi cá khác nhau và chi phí sản xuất cũng khác nhau.
CFA cho rằng cá xuất khẩu của Việt Nam được nuôi trong một môi
trường không đảm bảo vệ sinh trong khi chính đoàn tuỳ viên nông nghiệp của
họ, những người đã trực tiếp điều tra quy trình nuôi cá tra, cá basa tại Cần
Thơ, An Giang, Đồng Tháp…đã kết luận môi trường nuôi cá tại Việt Nam
đảm bảo vệ sinh, thức ăn cho cá gồm hai loại tự chế và công nghiệp đều đảm
bảo vệ sinh, trong đó có cả thức ăn công nghiệp do Cargill, một công ty của
Mỹ cung cấp.
Không những thế, trong cuộc họp sau phiên điều trần lần thứ 1, cả năm
thành viên của ITC đều nhất trí không xác định việc nhập khẩu cá Tra, cá
Basa từ Việt Nam gây thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất Catfish Hoa kỳ
như đơn của CFA đã cáo buộc. Nói cách khác, tuy không khẳng định trực tiếp
nhưng rõ ràng luận điệu "gây thiệt hại cho sản xuất trong nước của CFA đã bị
chính ITC bác bỏ.
Tuy nhiên, cả năm vị uỷ viên này lại đạt được sự đồng thuận đáng ngạc
nhiên trong việc cùng bỏ phiếu cho vụ kiện tiếp tục với lý do đe doạ gây thiệt
hại. Đây chính là việc kiện một nguy cơ sẽ đến trong tương lai vì bây giờ cá
Việt Nam chiếm chưa tới 2% thị phần ở Mỹ, người Mỹ đã cho thế giới thấy
thêm một “đức tính tốt”: biết…lo xa.
Hơn thế nữa, ngày 7/8/2003, DOC đã chính thức công bố áp đặt thuế
chống bán phá giá đối với 11 doanh nghiệp Việt Nam có sản phẩm cá tra và
cá basa nhập vào thị trường Mỹ. Trong khi vào ngày 5/8/2003, Bộ Nông
63
nghiệp Mỹ (USDA) đã chính thức công bố khoản trợ cấp 34 triệu USD của
Chính phủ Mỹ hỗ trợ cho các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ về các thiệt hại do
“thời tiết không thuận lợi và thiên tai”. Như vậy, sự thật đã được phơi bày rõ
ràng thêm một lần nữa thực tiễn lại chứng minh những hành động man trá của
CFA. Trong đơn kiện nộp cho DOC và ITC, CFA đã cố tình che giấu thực tế
đưa ra những bằng chứng giả, đổ tội cho các doanh nghiệp Việt Nam bán phá
giá cá tra, cá basa gây thiệt hại vật chất cho nền công nghiệp Mỹ, để các cơ
quan này kết luận sai và áp thuế chống bán phá giá trừng phạt Việt Nam mà
phần lớn số tiền thuế đó (khoảng 80%) sẽ vào túi các thành viên CFA. Mặt
khác họ lại chứng minh với USDA rằng thiệt hại của họ là do thiên tai gây ra
để xin hưởng tiền trợ cấp của Chính phủ Mỹ.
Nhìn bề ngoài, Luật chống bán phá giá của Mỹ được đặt ra là để ngăn
chặn các nhà sản xuất nước ngoài bán sản phẩm của họ với giá thấp một cách
quá đáng. Thế nhưng các học giả có uy tín của Mỹ cho rằng việc Mỹ áp dụng
thuế chống bán phá giá với Việt Nam là phi lý vì Mỹ không thể căn cứ vào
việc không công nhận Việt Nam là một nước có nền kinh tế thị trường đồng
thời cũng không thể phủ nhận kết quả điều tra về tình hình sản xuất thực tế tại
Việt Nam mà các chuyên gia của Mỹ vừa tiến hành để kết luận Việt Nam đã
bán phá giá.
Có thể thấy Luật chống bán phá giá của Mỹ giống như một rào cản
thương mại, trái với xu hướng tự do hoá thương mại của WTO. Trên thực tế
bộ luật này đã được dựng lên để “xoi mói” việc bán phá giá kể cả khi nó
không tồn tại. Đó là nguyên nhân tại sao trong năm 2001, Bộ Thương mại Mỹ
đã phát hiện ra đến 94% các trường hợp bán phá giá.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
64
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
4. Kết quả vụ kiện
Sáng ngày 24/7/2003, sau một thủ tục bỏ phiếu chỉ kéo dài 40 giây,
không một lời giải thích, Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đã đưa ra
phán quyết cuối cùng về vụ kiện cá basa. Theo đó cơ quan này đã khẳng định
các doanh nghiệp Việt Nam bán cá basa vào thị trường Mỹ thấp hơn giá
thành, gây tổn hại cho ngành sản xuất cá da trơn của Mỹ và ấn định mức thuế
suất chống bán phá giá rất cao từ 36,84% đến 63,88%. Cả 4 thành viên của
ITC dự họp đều bỏ phiếu thuận theo đề nghị của Bộ Thương mại Mỹ (DOC)
và khẳng định các bằng chứng về việc cá filê đông lạnh của Việt Nam được
bán phá giá là hợp lý, bất chấp sự phản đối gay gắt từ các doanh nghiệp thủy
sản Việt Nam, của nhiều thượng nghị sỹ và báo giới Mỹ.
Quyết định của ITC đã chấm dứt các tranh cãi liên quan đến vụ kiện
bán phá giá cá basa. Ngày 6/8/2003, sau khi cơ quan này ra văn bản chính
thức gửi Bộ Thương mại Mỹ, mức thuế chống bán phá giá mới sẽ có hiệu lực.
Kết cục của “cuộc chiến” này chẳng khác mấy so với những gì đã xảy ra
trong lịch sử – nghĩa là lẽ phải luôn thuộc về kẻ mạnh. Một điều hiển nhiên là
chúng ta càng tăng cường giao thương, càng có nhiều tranh chấp thương mại xảy
ra nhưng đáng tiếc rằng trong lịch sử thương mại Mỹ, những vụ kiện thế này
không hiếm và đôi khi thua vì “đuối thế” chứ không phải đuối lý. CFA đã thắng
kiện, nguyên tắc “cá lớn nuốt cá bé” lại một lần nữa được chứng minh.
Với Việt Nam, việc bị tuyên bố là bán phá giá và phải chịu một mức
thuế trừng phạt rất cao rõ ràng là chúng ta đã thua rồi. Thế nhưng nếu bị áp
dụng mức thuế này mà ta vẫn đứng vững trên thị trường Mỹ thì có nghĩa là ta
thắng và phía CFA đã thua trong vụ kiện này.
65
5. ảnh hưởng của kết quả cuối cùng của vụ kiện đối với cả hai phía
Trong vụ kiện này một quyết định sáng suốt và công bằng sẽ mở ra
viễn cảnh tươi sáng hơn cho sự phát triển liên tục và bền vững của các quan
hệ kinh tế thương mại giữa hai nước nhưng ngược lại một quyết định theo chủ
nghĩa bảo hộ sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới người dân hai nước cũng như sẽ có
tác động xấu đến mối quan hệ thương mại Việt - Mỹ.
5.1. ảnh hưởng của kết quả cuối cùng đối với Mỹ
Nước Mỹ luôn kêu gọi tự do hoá thương mại, phá bỏ mọi rào cản
thương mại. Tuy nhiên nhiều năm qua, trong các mối quan hệ thương mại
song phương và đa phương, Mỹ lại là nước có những hành động đi ngược lại
tinh thần đó.
Thực chất mục tiêu mà chính phủ Mỹ hay đại diện thương mại của họ
theo đuổi trong đàm phán về tranh chấp thương mại là chính sách bảo hộ thương
mại, xuất khẩu là tốt còn nhập khẩu thì không tốt. Lý do của việc này thường
xuất phát từ việc mọi chính sách thương mại đem lợi ích cho một nhóm người
nhưng lại gây thiệt hại cho nhóm khác. Ví dụ nhập khẩu cá basa Việt Nam làm
lợi cho người tiêu dùng thu nhập thấp ở Mỹ nhưng lại có hại cho các chủ trại
nuôi nheo Mỹ từ 400 đến 500 triệu USD hàng năm. Bởi vậy, quá trình ra quyết
định về chính sách thương mại thường bị chính trị hoá đến cao độ. Nó thường
thiên lệch theo hướng bảo vệ những nhóm lợi ích hùng mạnh, thậm chí đưa ra
những lý lẽ trái ngược nhau. Kiện các nước bán phá giá đã trở thành thông lệ, là
một hình thức thiết lập rào cản thương mại để bảo hộ sản xuất trong nước của
Mỹ. Khi nguồn nhập khẩu rẻ từ một nước đang phát triển đe doạ đến ngành sản
xuất trong nước, Mỹ sẽ cáo buộc nước đó bán phá giá rồi áp dụng biểu thuế
trừng phạt. Mỹ coi việc bán phá giá là “có tội” kể từ sau Đại chiến I, khi mà bảo
hộ hàng hoá trong nước được coi là biện pháp an toàn.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
66
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
Trong vụ kiện này, Uỷ ban thương mại quốc tế Mỹ ITC đã thuận tình
với Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ để kết luận rằng Việt Nam bán phá giá
cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ và áp đặt một mức thuế chống bán phá giá
rất cao. Bàn thắng được ghi cho bên nguyên – những người nuôi và chế biến
catfish, nhưng lại là một đòn trừng phạt nặng nề đối với sản phẩm nhập khẩu
từ Việt Nam. Điều này cũng có nghĩa, sự bảo hộ dành cho các nhà chế biến lại
là cái giá mà người tiêu dùng, các nhà nhập khẩu và phân phối cá nheo trong
nước phải trả. Đây chính là xung đột lợi ích giữa số ít các nhà chế biến với
đông đảo người tiêu dùng Mỹ. Việc cá xuất khẩu của Việt Nam bị đánh thuế
cao sẽ hạn chế cơ hội được thưởng thức một loại cá thơm ngon của đông đảo
người tiêu dùng Mỹ thay vào đó họ sẽ quay trở về với sản phẩm nội địa,
những sản phẩm mà chưa chắc đã đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như sản
phẩm nhập khẩu vì CFA một mực cho rằng cá xuất khẩu của Việt Nam nuôi
trong môi trường ô nhiễm trong khi họ đã lờ đi việc nước sông Mississippi bị
ô nhiễm. Họ đã bơm nước sông lên các hồ ao và nuôi lưu cữu cá trong vòng 7
– 8 năm, thậm chí khi rong tảo quá phát triển, các chủ trại cá đã phun một
chất độc - đã bị Chính phủ Mỹ cấm để diệt tảo. Quyết định này đã buộc người
tiêu dùng và các nhà kinh doanh nhập khẩu cá tra và cá basa của Mỹ phải trả
thêm tiền một cách rất vô lý để chính phủ Mỹ phân phối lại cho một nhóm
nhỏ các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ vốn không đủ năng lực để sản xuất ra các
sản phẩm cạnh tranh.
Phán quyết cuối cùng của ITC hôm 24/7/2003 là một hành động bảo hộ
trắng trợn, bất chấp thực tế, gây hoài nghi về tính công bằng và minh bạch
của một cuộc điều tra chống bán phá giá; sự công tâm và tôn trọng các quy
định pháp lý của DOC, ITC…thậm chí làm giảm uy tín của hai cơ quan này.
67
Việc này sẽ tạo ra một tiền lệ không tốt là khi Chính phủ Mỹ càng bảo
hộ sản xuất trong nước thì những nhà sản xuất của nước này càng đòi hỏi
nhiều hơn.
Xét về quan hệ đa phương, Mỹ sẽ không có lợi khi tạo ra một tiền lệ để
một nước thứ ba, chẳng hạn như EU, ứng xử đối với một ngành công nghiệp
của Mỹ hệt như cách mà CFA ứng xử với nông dân Việt Nam.
Hành động trên của Mỹ cũng sẽ làm chậm quá trình quốc tế hoá thị
trường cá da trơn. Song mọi thứ luôn có trật tự của nó: cuối cùng chiến thắng
sẽ thuộc về các nhà sản xuất có mức giá thấp hơn và chất lượng sản phẩm tốt
hơn.
5.2. ảnh hưởng của kết quả cuối cùng đối với Việt Nam
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ nửa đầu
năm nay chiếm tỷ trọng gần 40% về giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành,
đạt 393 triệu USD. Kết quả này tăng 2,2 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Điều
này cho thấy Mỹ đang đứng đầu về nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Mất tỷ trọng xuất khẩu trên thị trường Mỹ, đối với Việt Nam sẽ là một
đòn giáng vào một trong những nước nghèo nhất Châu á hiện nay.
Những cố gắng trước đây của phía Mỹ nhằm hạn chế triệt để mặt hàng
cá da trơn của Việt nam trên thị trường nước này (bằng cách viện cớ rằng cá
không đảm bảo vệ sinh, sau đó là cấm sử dụng tên thương mại catfish) đã làm
rất nhiều nông dân Việt Nam thua lỗ và chịu hậu quả nặng nề. Mặc dù xuất
khẩu cá sang Mỹ tăng 10,2% (năm 2002) nhưng xuất khẩu catfish đã giảm
mạnh nhất là tới 65% trong tháng 3 và tháng 4/2002 so với cùng kỳ năm
2001.
Phán quyết cuối cùng của Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ hôm
24/7/2003 một lần nữa lại khiến hàng vạn ngư dân vùng đồng bằng sông Cửu
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
68
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
Long mất nghề và không có nghề sinh nhai do chưa có điều kiện làm nghề
khác. Điều này không chỉ đúng với các chủ trại nuôi cá mà còn đúng với các
lao động làm thuê trong các bè và hầm cá do đây là nghề truyền thống đã có
từ lâu của họ. Việc thay đổi nghề không phải một sớm một chiều mà làm
được nhất là khi thị trường đầu ra cho sản phẩm mới còn chưa được định
hình. Để hình thành một nghề cần phải có thời gian. Bà con nông dân cần
được hỗ trợ về mặt kỹ thuật, con giống và cơ chế vay vốn. Đó là chưa kể đến
hàng vạn người khác sống phụ thuộc vào nghề nuôi cá tra và cá basa, như
công nhân trong các nhà máy chế biến, lao động trong khu vực kỹ thuật dịch
vụ nghề nuôi, các doanh nghiệp cung cấp thức ăn và vật liệu nuôi cá. Có
nhiều gia đình sẽ trở thành con nợ lâu dài và khó trả. Họ đã vay mượn rất
nhiều để đầu tư vào bè, hầm, với mong muốn được thay đổi cuộc sống. Nếu
phải từ bỏ nghề này, rất nhiều gia đình sẽ lâm vào cảnh túng thiếu và nợ nần.
Số liệu của Hội đồng nhân dân tỉnh An Giang cho thấy, số lồng bè cá
tra và cá basa hiện được đăng ký chính thức tại Hội là 3400 lồng và 1430 ha
hầm cá. Số ngư dân tham gia nuôi cá bè không dưới 10.000 người và khoảng
20.000 người nữa tham gia cung cấp dịch vụ cho các bè cá. Đó là chưa kể đến
các ngư dân ở các tỉnh lân cận khác, con số này có thể lên tới 100.000 người.
Phán quyết hôm 24/7/2003 cũng làm cho nhiều doanh nghiệp chế biến
và xuất khẩu cá tra và cá basa coi thị trường Mỹ là thị trường xuất khẩu chủ
lực lâm vào cảnh khốn đốn. Việc phải giảm sản lượng xuất khẩu cá tra và cá
basa sẽ làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình giải
quyết công ăn việc làm cho hàng vạn công nhân của mình cũng như cuộc
sống của hàng vạn ngư dân nghèo sống phụ thuộc vào nghề cá sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng khi các doanh nghiệp chưa tìm được thị trường đầu ra
mới.
69
Kết luận của ITC đã gây ra một tổn thương nặng nề cho quá trình thực
hiện Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ ký ngày 13/7/2000, có hiệu
lực từ tháng 12/2001. Một lần nữa nước lớn lại “đúng” trong buôn bán với nước
nhỏ mà không cần biết đến các cam kết hay thoả thuận mà chính mình đã xây
dựng và ký kết, và chẳng biết đến bao giờ nông dân và người nghèo ở các nước
đang phát triển mới có thể có một cơ chế thương mại công bằng?
5.3. Phân tích phản ứng của hai phía trước kết quả này
Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA) đã thắng trong vụ kiện
này, chúng ta lại có thêm một bằng chứng mới về việc các nước lớn ép buộc
các nước nhỏ trong thương mại theo hướng có lợi cho nước lớn. Đây không
phải là lần đầu tiên, Mỹ cáo buộc các nước khác bán phá giá để có thể áp
dụng Luật chống bán phá giá nhằm bảo hộ bằng hàng rào thuế quan hoặc phi
thuế quan cho các hàng hoá sản xuất trong nước. Các hàng hoá, đặc biệt là
các sản phẩm nông nghiệp đều bị xếp vào loại “cần được chăm sóc”. Chilê đã
từng bị thiệt hại hơn 10 triệu USD trong năm 1999 khi bị Mỹ áp đặt thuế
chống bán phá giá cho mặt hàng cá hồi. Trên thực tế chính Mỹ mới là nước
bảo hộ nhiều nhất cho ngành nông nghiệp của mình. Với việc thông qua Luật
An ninh trang trại và Phát triển nông thôn, chính phủ Mỹ đã công khai chi 17
tỷ USD cho việc bảo hộ ngành nông nghiệp nước này. Vậy, quốc gia nào có
thể kiện Mỹ bảo hộ việc phá giá các sản phẩm nông nghiệp có nguồn gốc từ
Mỹ?
Chính nhờ ưu thế là một cường quốc trên thế giới mà trong suốt quá
trình diễn biến của vụ kiện ta đã thấy rõ phản ứng thờ ơ của Uỷ ban thương
mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) trước những thực tế và các kết quả điều tra, xác
minh do chính Bộ Thương mại Mỹ (DOC) thực hiện về tình hình sản xuất và
nuôi trồng cũng như chế biến cá tra và cá basa của Việt Nam, không xem xét
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
70
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
đầy đủ các luận cứ thực tiễn và các báo cáo khoa học nghiêm túc, cố tình hợp
thức hoá kết luận hoàn toàn ngụy tạo của DOC về việc các doanh nghiệp Việt
Nam bán phá giá cá tra và cá basa vào Mỹ, phớt lờ dư luận phản đối từ chính
nước Mỹ, bất chấp sự phản đối của nông dân Việt Nam, của các nhà khoa
học, nhà kinh tế, bất chấp lời cảnh báo của tờ New York Times số ra ngày
23/7/2003 yêu cầu Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ không nên vì quyền
lợi của một nhóm nhỏ chủ trại nuôi cá nheo mà quên đi trách nhiệm xét xử vụ
kiện một cách khách quan, công bằng. Thậm chí ITC đã bỏ qua cả mối quan
ngại của 6 thượng nghị sĩ Mỹ được nêu rõ trong bức thư gửi Chủ tịch ITC: “
Một phán quyết dựa trên những thông tin không đầy đủ đối với sản phẩm cá
tra, basa Việt Nam nhập khẩu sẽ gây tổn hại đến quan hệ thương mại giữa hai
quốc gia đồng thời tạo ra một tiền lệ cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trong các
lĩnh vực khác của quan hệ thương mại”, nhắm mắt để đưa ra một kết quả có
lợi cho ngành công nghiệp nuôi cá nheo nước này.
Có thể nói những tiếng nói của lương tri và lòng yêu chuộng công lý đã
bị ITC coi thường. Kết luận này đã đi ngược lại mong muốn và sự trông đợi
của công luận và nhân dân hai nước. Làm giảm lòng tin của cộng đồng doanh
nghiệp và nhân dân Việt Nam vào khả năng phát triển quan hệ thương mại
song phương mà Hiệp định thương mại Việt – Mỹ vừa mở ra.
Những người Mỹ trọng công lý đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ Quyết
định này của DOC và ITC. Ngày 5/8/2003, Thượng nghị sỹ Edward M.
Kennedy (bang Massachuset) đã gửi thư cho Bà Deanna T. Okun, Chủ tịch
ITC yêu cẩu Uỷ ban này xem xét lại hoặc tiến hành bỏ phiếu lại để có quyết
định đúng đắn. Trong thư, ông đã đưa ra hai điểm mấu chốt mà theo ông
dường như nó bị bỏ qua. Điểm thứ nhất đó là định nghĩa cụ thể của Luật pháp
Mỹ đối với tên cá catfish. Theo đó basa – tên thông dụng của cá da trơn Việt
Nam lại thuộc về một họ cá hoàn toàn khác. Vì cá basa không được coi là
71
catfish theo luật Mỹ nên không thể coi nó là nguyên nhân gây cho cá catfish
bị bán phá giá với chủ tâm bảo hộ ngành cá nheo Mỹ. Điểm mấu chốt thứ hai
là trong điều tra bên nguyên đã khẳng định rằng cá basa bán phá giá gây khó
khăn về tài chính cho ngành cá nheo Mỹ vậy mà Bộ Nông Nghiệp Mỹ
(USDA) đã thông báo khoản trợ cấp 34 triệu USD cho ngành cá nheo trong
nước dựa trên cơ sở nhận định rằng các thiệt hại này do thiên tai gây ra. Nếu
ngành cá nheo Mỹ chấp nhận sự trợ giúp của USDA có nghĩa là chấp nhận
nguyên nhân gây ra khó khăn về tài chính cho ngành là do thiên tai. Điều này
có nghĩa là phán quyết về chống bán phá giá đối với cá tra và cá basa cần phải
được phủ định.
Đại diện cho giới kinh doanh Mỹ Ông Andrew H. Forman, Chủ tịch
công ty Infinity Seafood Inc (Mỹ) đã gửi thư cho các thành viên VASEP và
cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, trong đó nêu rằng: chính thiệt hại do
thời tiết không thuận lợi và thiên tai của CFA – việc này xảy ra cùng thời
điểm họ khiếu kiện Việt Nam bán phá giá cá basa trên thị trường Mỹ đã khiến
cung không đủ cầu vì thế cá tra, cá basa…những sản phẩm trước đây không
quen thuộc với các bang miền Nam nước Mỹ trở thành nguồn cung cấp quan
trọng bổ sung cho thị trường. Sau đó, khi các nhà chế biến cá nheo Mỹ khắc
phục được khó khăn của họ thì đương nhiên xảy ra tình trạng thừa philê cá
nheo cỡ lớn, một số cá do nuôi trữ lâu nên nhiễm mùi bùn và mùi cỏ khó chịu.
Thế nhưng trong các văn bản đã công bố của CFA, những vấn đề này được
ém nhẹm đi bởi nếu được nêu ra chúng sẽ phản bác hoàn toàn lý lẽ của CFA.
Ông cho rằng ITC và DOC đã hành động sai lầm vì vậy quyết định của họ cần
được xem xét lại ngay lập tức.
Theo hãng tin Bloomberg ngày 23/7/2003, quyết định này chính là sự
dọn đường cho việc áp đặt các mức thuế suất trong đó cao nhất là 64% đối với
Việt Nam, một trong những đối tác thương mại có mức tăng trưởng lớn nhất
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
72
Chương II: Vụ kiệ n bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việ t Nam và Hoa
Kỳ
của Mỹ và điều này có thể khuyến khích một hành động tương tự ở ngư dân
khai thác tôm Mỹ.
Báo giới Mỹ cũng cho rằng “Nếu các mức thuế chống bán phá giá bất
công vẫn cố tình được áp đặt đối với các sản phẩm này cũng như các sản phẩm
thủy sản nhập khẩu khác trong một tương lai gần thì sẽ gây ra những thiệt hại
nghiêm trọng cho chính các công ty Mỹ trên toàn quốc và các đối tác thương
mại quốc tế của họ, những người giúp đảm bảo cung cấp quanh năm cho người
tiêu dùng Hoa Kỳ các mặt hàng thuỷ sản đa dạng với mức giá cạnh tranh”.
Còn về phía Việt Nam – Bị đơn bị xử ép trong vụ kiện này, đã bày tỏ
sự bất bình của mình ngay từ khi vụ kiện này còn là khả năng tiểm ẩn.
Ngày 14/5/2002 Việt Nam đã lên tiếng phản đối việc Tổng thống Mỹ
phê chuẩn Đạo luật An ninh trang trại và Phát triển nông thôn HR 2646, trong
đó có điều khoản 10806 quy định chỉ đặt tên, dán mác hoặc quảng cáo
“catfish” cho các loại cá da trơn thuộc loại cá da trơn Mỹ (Letaluriidae). Đạo
luật này sẽ được thực hiện trong 5 năm, từ năm tài chính 2002 và có thể sẽ
còn được kéo dài.
Đến ngày 24/7/2003,Việt Nam cho rằng quyết định của ITC kết luận
Việt Nam đã bán phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ gây tổn hại cho
ngành công nghiệp nuôi cá nheo nước này vẫn là một quyết định không công
bằng, không phản ánh đúng thực tế khách quan. Phía Việt Nam coi đây là
hành động mang tính bảo hộ mậu dịch sâu sắc, trái với luận cứ khoa học cũng
như trái với thông lệ quốc tế và chính sách tự do hoá thương mại mà chính
Mỹ đang theo đuổi. Quyết định này cũng hoàn toàn không phù hợp với tinh
thần của Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ.
Điều này đã gây thất vọng không chỉ cho các doanh nghiệp và hàng vạn
hộ nuôi cá ở Việt Nam mà cho cả người tiêu dùng Mỹ.
73
Việt Nam rất lấy làm tiếc khi ITC đưa ra một quyết định phi lý như vậy
bỏ qua hoặc không nghiên cứu đầy đủ các thông tin mà Việt Nam với tinh
thần thiện chí, đã hợp tác với phía Mỹ trong quá trình điều tra, tạo điều kiện
thuận lợi cho đoàn DOC làm việc với cơ quan của Việt Nam. Đồng thời cung
cấp các cơ sở pháp lý thực tiễn chứng minh nền kinh tế của Việt Nam đang
vận hành theo cơ chế thị trường. VASEP cũng đã cung cấp tài liệu chứng
minh ngành sản xuất và kinh doanh thủy sản (trong đó có cá tra và cá basa)
của Việt Nam đi theo đúng quỹ đạo của cơ chế thị trường, cung cấp các tài
liệu thực tế, các con số thống kê chứng minh các doanh nghiệp Việt Nam
hoàn toàn không bán phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Mỹ.
Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cho rằng
kết luận này đã chứng tỏ chỉ một nhóm nhỏ các chủ trại nuôi cá nheo cũng có
thể gây sức ép khiến cơ quan công quyền Mỹ bóp méo sự thật. ITC đã không
xét xử vụ kiện một cách minh bạch và công bằng như đã nhiều lần cam kết
với Việt Nam.
Tạm thời, việc áp đặt các mức thuế chống bán phá giá sẽ gây khó khăn
cho ngành sản xuất cá tra và cá basa Việt Nam. Tuy nhiên, VASEP cho rằng,
sản phẩm này vẫn có khả năng cạnh tranh và phát triển ngay tại thị trường Mỹ
và nhiều nước khác trên thế giới. Các doanh nghiệp khẳng định sẽ tiếp tục đấu
tranh, yêu cầu thay đổi những quyết định sai trái, bảo vệ quyền lợi chính đáng
và hợp pháp của những người nuôi các và các doanh nghiệp Việt Nam.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
74
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
chương iii
Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá
basa vào thị trường Mỹ
Thế là phán quyết cuối cùng đã đến. Không nằm ngoài dự đoán, sáng
ngày 24/7/2003, ITC đã xác nhận cá tra, cá basa của Việt Nam có khả năng
gây thiệt hại cho ngành công nghiệp cá da trơn của Hoa Kỳ. Đơn phương - bất
công - áp đặt là bản chất của vụ kiện, là cách hành xử của DOC và ITC.
Theo thống kê của Bộ Thương mại Việt Nam, kể từ năm 1997 đến nay,
các doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia tới 8 vụ kiện nước ngoài về vấn đề
chống bán phá giá. Năm 1994, Côlômbia kiện Việt Nam bán phá giá gạo. Bốn
năm sau đến lượt EU nộp đơn kiện Việt Nam bán phá giá bột ngọt và đấy là
lần thứ nhất một sản phẩm trong nước đã bị nhìn nhận là bán thấp hơn giá
thành trên thị trường nước ngoài. Cùng năm 1998, EU kiện Việt Nam bán phá
giá giầy dép, nhưng trong vụ kiện này EU bị xử thua vì lượng giầy dép xuất
khẩu của Việt Nam quá nhỏ so với Trung Quốc, Indonesia và Thái Lan và
không chiếm bao nhiêu thị phần tại châu Âu. Cũng về mặt hàng giầy dép, giờ
đây Hiệp hội giầy da Canada kiện Việt Nam hợp tác với Macao và Hồng
Kông bán phá giá giầy dép trên khắp nước họ. Vụ này đang trong quá trình
điều tra; đến nay, Mỹ kiện Việt Nam phá giá cá tra, basa sang thị trường
Mỹ…Nhưng có lẽ chưa bao giờ vấn đề bán phá giá lại trở thành đề tài nóng
bỏng như thời điểm hiện nay đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt
Nam, bởi trước hết vụ kiện “khơi mào” về chống bán phá giá đã xảy ra với cá
tra, cá basa, bật lửa gas và đế giấy chống thấm nước. Sắp tới Nga đang chuẩn
bị khởi kiện 15 nước bán phá giá kẹo sôcôla trong đó có Việt Nam, hay Mỹ
cũng đang chuẩn bị kiện Việt Nam bán phá giá tôm vào thị trường của họ. ở
góc độ thương mại, các vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng hoư_chỉ là
75
một ”hương tiện để bảo hộ hàng hoá trong nước. Bán phá giá là một hành vi
cạnh tranh không lành mạnh để thâu tóm thị phần nước nhập khẩu, thanh toán
các đối thủ cạnh tranh khác. Nhưng điều_đáng nóụÄlà các vụ kiện chống bán
phá giá đối với hàng hoá của Việt Nam³• nước ngoài là không có căn cứ. Về
thực tế không thể phủ nhận rằng Việt_Nam có nhiều ưu thế về điều kiện tự
nhiên và tài nguyên thiên nhiên, giá đầu vào thấp nên giá thành thấp là điều
tất yếu. Đối với Việt Nam, những mặt hàng đã bị đánh thuế chống bán phá giá
đều rơi vào những mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu chưa cao và cũng
không phải lẳ mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như mỳ chính, tỏi,
bật lửa gaspỡì thế mức độ ảnh hưởng của nó tới cán cân thương mại của Việt
Nam là chưa lớn. Nhưng mặt hàng như cá tra, cá b‡sa, nhưDdiầy dép của Việt
Nam mà phải chịu thuế chống bán phá giá thì sệ$gây thi‡t hại rất lớn đối với
nền kinh tế Việt Nam.
Hiện nay, con bài kiện phá giá được các nước sử dụng nhiều,nhất
để_ữảo vệ lợi ích của họ. Điển hình trong lịch sử là vụ kiện ôtô Npểt Bản xŠất
vào Hoa Kỳ những năm 70 – 80 thế kỷ trước, vụ kiện thép của Nhật Bản, EU,
Nga, Hàn Quốc…năm 2002.
Từ năm 1<=0 đến nay, Hca Kỳ đã áp dụng Luật thuế Chống bán phá
giá với trên 60 nước với xấp xỉ 500 vụ, nhiều nhất với Trung Quốc 70 vụ, tiếp
đó là Đài Loan với 57 vụ, Braxin 45 vụ, Mehicô 30 vụ…Một số vụ kiVn khác
hkông bị áp dụng thuế chống bán phá giá thì nước xuất khẩu phải tự hạn chế
sản lượng xuất khẩu. Điều này có nghĩa là với sức mạnh kinh tế của mình,
chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch Hoa Kỳ đã phát triển đến một mức tinh vi với các
nước có nền kinh tế phát triển, đôi khi lại trắng trợn theo lối đơn phương, áp
đặt, nhất là với các nền kinh tế còn nhỏ bé.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
76
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
Vậy ta rút ra được bài học gì từ vụ kiện này và phải có những đối sách
gì để hạn chế tác động của Luật thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với
hàng xuất khẩu của ta vào thị trường đầy tiềm năng nhưng cũng lắm chông
gai này?
I. Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ
1. Bài học đối với Chính phủ Việt Nam
Vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa của Việt Nam vào thị
trường Mỹ đã giúp chúng ta có cơ hội nhìn nhận chân xác hơn thực trạng
thương mại quốc tế hiện nay. Nơi mà một mặt người ta kêu gọi tự do hoá
thương mại mặt khác lại lạm dụng Luật thuế Chống bán phá giá như một công
cụ hữu hiệu để bảo hộ các ngành công nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng
nhập khẩu giá rẻ.
Từ sau vụ kiện này, Bộ Thương mại Việt Nam đã gấp rút hoàn chỉnh
Pháp lệnh Chống bán phá giá với hàng nhập khẩu vào Việt Nam. Đây là văn
bản đầu tiên quy định cách thức bảo hộ hợp pháp ngành sản xuất trong nước
mà nhiều nước trên thế giới đang áp dụng. Biện pháp này nhằm phòng ngừa
các doanh nghiệp nước ngoài bán phá giá tại thị trường Việt Nam đồng thời
ngăn chặn một vài doanh nghiệp trong nước tự phá giá, tạo cớ cho phía đối
tác kiện tụng, gây ảnh hưởng đến cả một ngành sản xuất, kinh doanh thậm chí
làm mất một thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. Việc ban hành
pháp lệnh mới chỉ là bước đầu tiên, bởi để cơ chế này có hiệu lực, Việt Nam
còn cần điều chỉnh, bổ sung hệ thống luật pháp, như Luật về bằng chứng,
Luật về thống kê thị trường, thống kê thương mại, nguyên tắc xác định thị
phần. Ngoài ra còn phải có hệ tiêu chí đánh giá về giá cả, về tính chất thị
trường của nền kinh tế…Đây cũng là khung pháp lý cần thiết để thực hiện
77
nhiều luật đã ban hành như Pháp lệnh Giá, Pháp lệnh về Tự vệ trong nhập
khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam.
Tiếp đó, Chính phủ cần nhanh chóng đào tạo đội ngũ chuyên gia
chuyên về bán phá giá để tư vấn cho doanh nghiệp và hỗ trợ cho Chính phủ
khi xảy ra những vụ kiện tương tự vụ kiện này.
Thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh
tế khu vực và thế giới: tham gia ASEAN, APEC, ASEM, WTO… và các tổ
chức, hiệp đoàn kinh tế. Sở dĩ Việt Nam không thể đưa vụ kiện này ra xét xử
tại Toà án Thương mại Quốc tế là vì Việt Nam chưa phải là thành viên của
WTO, việc bị xử ép cũng một phần là do Việt Nam chưa có vị thế, tiếng nói
trên trường quốc tế, ít được sự ủng hộ của các tổ chức chuyên ngành. Và
nguyên nhân của vụ kiện cũng xuất phát từ việc Việt Nam còn thiếu kinh
nghiệm trên thị trường Mỹ, khi kinh tế suy thoái và giá năng lượng tăng lên
khiến nhu cầu tiêu dùng thủy sản giảm, những nhà nuôi cá nheo Mỹ buộc phải
giảm giá bán trong khi giá thành sản xuất tăng lên khiến lợi nhuận giảm sút.
Cần phải tìm một lý do giải thích cho sự giảm sút này và việc đổ lỗi cho các
nhà nhập khẩu Việt Nam là một việc dễ dàng vì Việt Nam đang còn đi những
bước chập chững đầu tiên trên thị trường Mỹ.
Hơn nữa cũng cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký thương hiệu
và hoàn thiện Luật Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho các thương hiệu Việt
Nam. Việt Nam hiện đã có một cơ sở luật khá tốt về bảo vệ quyền sở hữu trí
tuệ, vấn đề ở đây là thực hiện như thế nào. Việc không thực thi được các cam
kết về quyền sở hữu trí tuệ sẽ gây thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế đất nước.
Sự trừng phạt sẽ không thấm vào đâu so với ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh
tế như lượng đầu tư sụt giảm do sự e ngại của các nhà sản xuất nước ngoài.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
78
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
Khuyến khích các doanh nghiệp không xuất khẩu hàng hoá dưới
thương hiệu của nước ngoài, nhằm tránh việc cạnh tranh trực tiếp với các sản
phẩm tương tự của nước nhập khẩu. Trước khi vụ kiện này diễn ra, chúng ta
đã có được bài học khi Tổng thống Mỹ phê chuẩn đạo luật An ninh trang trại
và Phát triển nông thôn trong đó có điều khoản 10860 quy định cá da trơn của
Việt Nam không được xuất vào Mỹ dưới cái tên catfish và hậu quả là hàng
vạn ngư dân nuôi cá được một phen điêu đứng vì sản lượng xuất khẩu giảm.
Tích cực tuyên truyền về luật pháp các nước đối tác, cung cấp thông tin
đầy đủ cho các doanh nghiệp để họ am hiểu hơn về môi trường kinh doanh
quốc tế. Qua vụ kiện vừa rồi, khâu cuối cùng (cũng là khâu căn bản quyết
định sự thành công trong việc xuất khẩu) là những người nuôi trồng, chế biến
rất thiếu thông tin. Từ sự thiếu thông tin này có thể dẫn đến một số sơ xuất kỹ
thuật không đáng có, để phía bên nguyên đơn vịn cớ bắt bẻ mình.
Chính phủ nên quan tâm nhiều hơn nữa đến vấn đề “tư duy thị trường”
tức là phải tạo được sự gặp nhau giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Sản
xuất phải phát triển tương ứng với nhu cầu thị trường, mở thị trường ra đến
đâu hãy phát triển sản xuất ra đến đó. Đây là vấn đề khá bức xúc hiện nay, rõ
ràng người nông dân chỉ biết lợi trước mắt thì sản xuất mà sản xuất ồ ạt thì
cung vượt cầu, kéo giá xuống. Khi đó họ lại kêu ca, phàn nàn doanh nghiệp
mua phá giá, mà trên thực tế chính họ là người phá giá. Chính phủ cần phải
làm cho nông dân, cũng như các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rằng kinh
doanh trên thương trường Mỹ là phải chịu sự cạnh tranh rất gay gắt, cạnh
tranh bán phá giá là một biện pháp khốc liệt nhất, vũ khí này thường dùng cho
các “đại gia” có tiềm lực tài chính mạnh, nhằm loại bỏ những đối thủ không
công sức. Và việc các doanh nghiệp giảm giá các sản phẩm của mình (do
được lợi từ sự tự phá giá nguyên liệu của nông dân trong nước) nhằm thu
được lợi nhuận nhất thời trên thị trường Mỹ sẽ khiến các doanh nghiệp Việt
79
Nam mất đi cơ hội kinh doanh và tự loại bỏ chính mình. Mặt khác, đây cũng
là bài học về sự phát triển có tổ chức, tránh quan niệm cứ sản xuất ra bao
nhiêu, cơ quan có thẩm quyền lại yêu cầu doanh nghiệp chế biến phải tiêu thụ
hết bấy nhiêu.
Thúc đẩy việc thành lập các hiệp hội ngành nghề và tăng cường vai trò
của nó nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam phát triển xuất khẩu. Đây là
một bài học rất hữu ích từ sau vụ kiện này. Trước khi xảy ra vụ kiện vai trò
của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) tỏ ra mờ
nhạt trong hoạt động kinh doanh chế biến cũng như xuất khẩu thuỷ sản của
các doanh nghiệp, VASEP đã thừa nhận rằng Việt Nam hiện có khoảng 20
đầu mối xuất khẩu thủy sản, mặc dù sinh hoạt chung ở hiệp hội VASEP
nhưng vẫn có tình trạng tranh mua tranh bán. Chỉ khi các doanh nghiệp đụng
chuyện thì mới thấy lợi ích của mình bị thiệt hại ra sao. Hai năm trước,
VASEP đã yêu cầu thống nhất giá mua, giá bán nhưng các doanh nghiệp chỉ
“ừ” mà không thực hiện. VASEP không thể ép buộc các doanh nghiệp vì đây
chỉ là một tổ chức tự nguyện. Trước tình hình này Chính phủ nên có biện
pháp như yêu cầu việc tham gia hiệp hội ngành nghề sẽ trở thành quy định bắt
buộc đối với các doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh hoặc cho các doanh
nghiệp tham gia các hiệp hội được hưởng nhiều ưu đãi hơn về thuế, dịch vụ
công cộng…để cho các doanh nghiệp thấy rằng vào hiệp hội không chỉ là để
bán được hàng mà phải cùng nhau lo sao cho sản phẩm có nhãn hiệu, có tiêu
chuẩn quốc tế, cùng nhau duy trì để phát triển nghề của mình. Đồng thời cũng
yêu cầu các hiệp hội cải tổ lại cách thức hoạt động sao cho có hiệu quả và hợp
lý hơn, giúp các doanh nghiệp bảo vệ tối đa lợi ích của họ.
Các hiệp hội nên do các doanh nghiệp dân doanh bầu ra và hoạt động
độc lập. Tất nhiên là họ phải có mối quan hệ tốt với chính phủ và hoàn toàn
minh bạch. Các hiệp hội có thể đứng ra mời luật sư đến bàn thảo về Luật
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
80
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
doanh nghiệp của nước nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong nước, việc thu
thập thông tin về hệ thống luật pháp, tìm hiểu về thị trường, mẫu mã, các quy
định về chất lượng hàng hoá… tốt nhất nên để các hiệp hội ngành nghề cung
cấp cho doanh nghiệp như vậy các thông tin mà doanh nghiệp nhận được sẽ
cụ thể và chi tiết hơn.
Chính phủ, mặt khác, cần xem xét xem chúng ta có gì chưa phù hợp để
kịp thời điều chỉnh cho phù hợp. Chúng ta cứ nghĩ là kinh tế thị trường là tự
do hoàn toàn, mạnh ai nấy làm nhưng thực tế đã chứng minh rằng không phải
như vậy. Trong nghề nuôi cá tra, cá basa, năng lực xuất khẩu của An Giang
chỉ được 60 000 tấn cá thành phẩm nhưng người nuôi đang có trong tay
khoảng 110 000 tấn và đa phần đứng ngoài các câu lạc bộ, các hội đoàn chế
biến xuất khẩu là những nơi luôn gắn với thị trường. Và hậu quả của việc
tranh mua tranh bán đã gây ra phiền toái và thiệt hại cho ngành công nghiệp
cá tra, cá basa của chúng ta.
Vụ kiện này đặt ra một câu hỏi là tại sao các doanh nghiệp xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam lại không bán hàng đúng giá vừa tăng lợi nhuận cho cả
nông dân và nhà xuất khẩu vừa tránh được phiền toái? Xưa nay chúng ta chỉ
tính toán đơn thuần: mua cá basa khoảng 15000 đồng/kg, xuất khẩu giá 3
USD (45000 đồng/kg), tức là đã có lãi, ta không bán phá giá, nhưng không
tìm hiểu xem đối tác của ta ở nước sở tại chi phí sản xuất của họ thế nào? bán
hàng với giá bao nhiêu? Nừu nghiên cứu kỹ, ta sẽ đưa ra được một mức giá
phù hợp, không gây mâu thuẫn về lợi ích với các doanh nghiệp Hoa Kỳ thì
chắc chắn không đời nào họ lại nhiệt tình làm cái việc tốn kém là kiện cáo.
Thật đáng tiếc chúng ta có cả Hiệp hội Thuỷ sản mà lại không đưa ra được
mức giá hợp lý, thậm chí từng doanh nghiệp trong hiệp hội cũng cạnh tranh
với nhau để giảm giá xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Hơn nữa, ngay cả trong khi tình
hình xuất khẩu có thuận lợi ta cũng nên san sẻ sang các thị trường khác, bởi
81
cứ gia tăng sản lượng xuất khẩu vào một thị trường sẽ bị doanh nghiệp nước
sở tại phản ứng một cách tiêu cực. Từ những thiếu sót trên chính phủ cần tìm
ra một giải pháp thích hợp như thành lập một tổ chức chuyên tính toán giá
xuất khẩu hợp lý trên từng thị trường, cho từng mặt hàng nhằm hỗ trợ doanh
nghiệp trong công tác xuất khẩu, hoặc đề ra các quy định xử phạt khi các
doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh nhau gây ra hậu quả giảm giá xuất khẩu
dẫn tới các vụ kiện cáo.
Chính phủ nên khuyến khích các hiệp hội như VASEP, VINATEX,
LEFASO… đặt văn phòng đại diện ở nước ngoài chuyên liên hệ vận động cho
lợi ích quốc gia mình. Trong vụ kiện này, phía CFA đã sử dụng cả phương
thức vận động hành lang (lobby) để „hạ gục” các doanh nghiệp Việt Nam.
Việt Nam cũng có thể sử dụng phương thức này để vận động các tổ chức, cá
nhân có chung quyền lợi với chúng ta là các nhà nhập khẩu cá tra, cá basa góp
tiền cùng chúng ta thuê các tổ chức lobby chuyên nghiệp. Chúng ta có thể
dùng lobby (một phương tiện dành cho mọi tổ chức kinh tế – xã hội để làm rõ
quan điểm và quyền lợi chính trị, kinh tế của mình đối với chính quyền và dư
luận. Lobby được coi là hoạt động hợp pháp và ở Mỹ người ta có cả một đạo
luật về vấn đề này: Lobby Dislosure Act 1995) không chỉ hướng tới chính
quyền mà còn hướng tới dư luận, những người tiêu dùng có lợi ích với hàng
nhập khẩu giá cạnh tranh, qua đó gây áp lực đối với chính quyền và cũng qua
lobby, chúng ta có thể thương thảo với người đi kiện, thoả thuận mức giá bán
và sản lượng xuất khẩu mà cả hai bên chấp nhận được, nhất là không làm cho
người đi kiện bị “mất mặt” thì sẽ loại trừ được những rủi ro, thiệt hại về kinh
tế do kiện cáo gây ra. Thêm nữa lobby vừa tránh được xung đột quyền lợi vừa
tạo ra được hình ảnh thân thiện của nhà xuất khẩu ở nước nhập khẩu.
Chính phủ cũng nên thành lập quỹ hỗ trợ tài chính cho các doanh
nghiệp, các nhà sản xuất khi có các vụ kiện xảy ra. Thực tế, khác với CFA có
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
82
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
quỹ tiền nhiều triệu USD và được tổ chức tốt, những người nông dân Việt
Nam chỉ là chủ của những bè cá nhỏ, manh mún dọc bờ sông Mêkông. Khi
theo kiện họ sẽ chịu những tốn phí không nhỏ. Nhà nước đến lúc đó không
thể hỗ trợ họ. Có chuyên gia đã cho rằng Việt Nam không thể đủ tiền theo
kiện thì làm sao mà thắng kiện được.
Cái giá của vụ kiện này không phải là đắt, qua đó Việt Nam phải học và
bảo hộ mậu dịch một cách tinh vi hơn, chỉ những ngành nào có lợi thì nên tự do
hoá thương mại còn với những ngành bất lợi thì sẽ sử dụng hàng rào pháp lý.
2. Bài học đối với các doanh nghiệp
Vụ tranh tụng này xảy ra là điều rất đáng tiếc đối với cả hai quốc gia.
Đây là việc nhỏ mà phải đưa đến Quốc hội, Chính Phủ, Bộ Ngoại Giao, Bộ
Thương mại hai nước giải quyết thì thật đáng tiếc. Trong bối cảnh Chính phủ
hai nước vừa thông qua Hiệp định Thương mại song phương, các doanh
nghiệp không nên để Chính phủ phải can thiệp vào những sự vụ cụ thể. Điều
đó sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích quốc gia.
Thực ra không riêng gì cá Basa, tất cả những gì mình kinh doanh, mình
sản xuất, từ hàng may mặc, giày da, lúa gạo…thì người Mỹ cũng đều làm.
Cho nên họ phải có biện pháp bảo vệ hàng hoá tự sản xuất ra. Tất cả doanh
nghiệp phải luôn luôn cảnh giác rằng không có cái gì mình làm mà họ lại
không làm cả và không có lĩnh vực nào là không có yếu tố cạnh tranh. Cá
basa cũng là mặt hàng được sản xuất nhiều tại Mỹ. Họ sợ con cá basa của ta
vào diệt họ, bóp chết thị trường trong nước mà họ đã phải đầu tư hàng tỷ
USD, họ kêu lên để tự vệ là điều dễ hiểu. Có một thực tế chúng ta cần phải
lưu ý, các nhà làm chính trị của Mỹ rất mị dân. Tại tiểu bang Mitinixi – tiểu
bang nuôi nhiều cá catfish, các vị dân biểu nghị sỹ ở đây sẽ đứng ra bảo vệ
quyền lợi cho người sản xuất của họ mặc dù nó có thể đi ngược với Hiệp định
83
Thương mại, không làm như vậy họ sẽ mất tín nhiệm, lần sau họ không được
bầu nữa. Cho nên cùng với việc tác động ngoại giao cực kỳ tế nhị của Chính
phủ Việt Nam để họ hiểu mình không làm mất quyền lợi của họ mà chỉ làm
lợi thêm cho họ thì các doanh nghiệp Việt Nam – những doanh nghiệp dù
không được Nhà nước trợ giúp dưới bất kỳ hình thức nào, dù phải bươn trải,
cạnh tranh thực sự cũng đừng quá tự tin vào tính minh bạch, vô tư hoàn toàn
của luật pháp nước mà mình xuất hàng vào mà phải truy tìm nguyên nhân
đích thực - cái nằm ở bên trong vụ việc.
Qua vụ kiện, các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ hơn rằng muốn đi vào
nền kinh tế thị trường thì cần phải biết luật chơi của nó, muốn chơi với Mỹ thì
phải biết luật Mỹ và chơi theo kiểu Mỹ. Cũng như vậy với các nước khác và
khi vào WTO ta phải biết luật chơi chung của thế giới. Đồng thời cũng phải
có giải pháp để đối phó khi bị chơi ép.
Điều đáng quan tâm trong vụ kiện này là các doanh nghiệp Việt Nam
hoàn toàn chưa có sự chuẩn bị về mặt pháp lý khi thâm nhập vào các thị
trường nhất là Mỹ - một thị trường rất phức tạp. Tình trạng bị động ở đây còn
ở chỗ ta không có sẵn trong tay một đội ngũ luật gia có kiến thức, kinh
nghiệm về luật pháp quốc tế đủ khả năng thụ lý những vụ kiện kiểu này. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp và các cơ quan chức năng của Việt Nam còn có
những hạn chế về kinh nghiệm trong các vụ kiện tụng, tranh chấp về thương
mại như vụ cá basa cũng như những hạn chế về hiểu biết luật pháp quốc tế và
ngoại ngữ đủ ứng đối trong những vụ kiện quốc tế đó. Đó là những điểm yếu
của ta cần được bổ sung.
Vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa Việt Nam vào thị trường
Mỹ cũng cho thấy một thực trạng: các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam
chỉ mới chủ yếu chăm lo sản xuất, tìm bạn hàng, tìm thị trường mà chưa chú ý
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
84
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
đúng mức đến nghiên cứu luật lệ thương mại các nước, luật chống bán phá giá
và các thủ tục khác có liên quan đến xuất khẩu để có sự phòng ngừa ngay từ
đầu những tranh chấp đáng tiếc có thể xảy ra.
Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản, cơ sở nuôi cá cũng thu
được bài học về tinh thần đoàn kết, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế
giới. Trong vụ kiện này, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
đã tập hợp được 14 doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thuỷ sản cá tra và cá
basa cùng nhau chia sẻ chi phí, kiên quyết theo đuổi vụ kiện đến cùng. Nếu
không có vai trò của Hiệp hội thì một doanh nghiệp riêng rẽ sẽ khó có đủ điều
kiện để theo đuổi vụ kiện.
Hơn nữa các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ cũng như các
doanh nghiệp đang làm ăn tại Mỹ của Việt Nam cũng có cơ hội để nhìn nhận
lại chính mình, để suy ngẫm xem tại sao có nhiều doanh nghiệp Việt Nam
chưa tới đất Mỹ đã chết yểu ngay tại thị trường trong nước. Tất cả là vì không
có tính cộng đồng, không nghĩ đến quyền lợi chung, mà chỉ nghĩ tới quyền lợi
riêng, cứ muốn chạy lên hàng đầu. Biết là ngồi lên tàu sẽ cùng đến đích một
lúc, nhưng ai cũng cố chen lên đầu tầu và cuối cùng tầu chìm, tất cả đều cùng
chết đuối. Trong thương mại cạnh tranh theo kiểu tự phá giá là hại chính
mình. Các nông dân nuôi cá muốn bán được nhiều cá đã tự giảm giá để rồi
đến khi xảy ra chuyện lại đổ lỗi cho các doanh nghiệp mua rẻ, còn các doanh
nghiệp muốn xuất khẩu được nhiều hàng cũng không tính toán đến mức giá
hợp lý và cuối cùng để bị kiện bán phá giá. Không riêng gì trong vụ kiện này
mà các doanh nghiệp Việt Nam đã tự hại lẫn nhau trong các lĩnh vực khác
nữa. Ví dụ như: nghề mộc thủ công mỹ nghệ, sản xuất bàn ghế của Việt kiều
tại miền Nam California là nghề hái ra tiền. Đáng lẽ các ông chủ Việt kiều
nên bảo nhau để giữ giá, bảo nhau cùng làm ăn, đằng này ai cũng muốn bán
được nhiều hàng, cứ tự hạ giá, đến lúc làm ăn thua lỗ phải phá sản cả nghành,
85
để lại thị trường cho người Tây Ban Nha chiếm lĩnh. Hay vụ việc hệ thống
chợ bán lẻ (đầu tiên thị trường này không có Hoa kiều tham gia) do cộng
đồng người Việt lập ra để buôn bán với nhau, làm ăn rất phát đạt. Nhưng cũng
chính những người Việt này đã cạnh tranh hạ giá đến độ sập tiệm. Khi đó Hoa
kiều vào mua lại, bảo nhau làm ăn và trở thành những người giầu có nhất.
Đặc biệt cần chú ý khi có tranh chấp phát sinh trong việc kinh doanh
trên thương trường Mỹ ta nên tiến hành đối thoại mà không nghênh chiến.
Phải đối thoại ngay thẳng trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Vậy đối thoại với
ai ? khi tranh chấp trên đất Mỹ, trước tiên tiến hành đối thoại với những nhà
chính trị có tiếng nói mạnh, sau đó đối thoại với hiệp hội nghề nghiệp của lĩnh
vực kinh doanh đang có tranh chấp. Hiểu rõ những bức xúc của họ, chúng ta
có giải pháp thoả đáng. Mục đích của họ là mua hàng, ta thì tìm lợi nhuận, tìm
thị trường. Nếu họ thông cảm thì mình phải ngồi xuống và thương lượng. Nếu
chúng ta đem luật lệ, lý lẽ của chúng ta để đối nhau thì họ lại đem luật của họ
ra để đối chọi lại, vừa tốn kém thời gian, tiền bạc chi phí cho kiện tụng, vừa
không có kết quả tốt đẹp mà còn ảnh hưởng đến mối quan hệ hai bên. Cụ thể
vụ kiện cá Basa không nên làm to chuyện đến cùng mà cần phải mềm mỏng
vì dù sao tiềm lực kinh tế của mình cũng khiêm tốn, họ lại là khách hàng của
mình, dung hoà, nhượng bộ một chút mình sẽ duy trì được mục tiêu chính là
xuất được cá, đó mới là điều quan trọng, mặt khác để chính phủ hai nước can
thiệp vào việc kinh doanh là điều không hay. Tuy nhiên cũng không nên để
tâm lý e ngại, dĩ hoà vi quý quá lấn lướt để họ có cơ hội đòi hỏi mình quá
đáng. Cần phải kết hợp nhu cương đúng lúc, lạt mềm buộc chặt để giải quyết
vấn đề một cách thoả đáng.
Mặt khác, các nhà sản xuất và chế biến cá basa của Việt Nam không
nên “bỏ trứng một rổ” mà hãy tìm kiếm các thị trường khác – một vùng nước
mới không có “cá mập” để không phụ thuộc nhiều vào Mỹ. Các doanh nghiệp
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
86
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
có thể liên hệ chặt chẽ với bạn hàng Mỹ, họ có thể giới thiệu sản phẩm của
Việt Nam ở nhiều thị trường khác. Cái gì cũng có hai mặt của nó và vụ kiện
cá basa cũng vậy, vụ kiện này đã gây tổn hại không nhỏ về mặt kinh tế cho
các hộ nuôi cá, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam nhưng nó cũng đã
làm cho cá basa của chúng ta nổi tiếng khắp thế giới. Sau vụ kiện, các doanh
nghiệp đã tích cực tìm kiếm, xây dựng thị trường ở Châu Âu, Nhật Bản, Hồng
Kông, các nước Trung Đông…và chính thức đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị
trường này. Sản lượng cá tra, cá basa xuất khẩu vào thị trường Châu Âu (vốn
rất khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm) đã tăng gấp hai lần trong năm
tháng đầu năm 2003 đạt doanh thu khoảng 100 triệu USD, các thị trường mới
như Đức, Pháp, Bỉ…đều rộng mở, đặc biệt tại thị trường Australia mức thuế
suất đánh vào hàng nhập khẩu thuỷ sản là 0%, và đây đang là lợi thế cần được
khai thác. ở thị trường Nhật Bản, hiện nay Việt Nam đang đứng thứ 2 về tôm,
thứ 3 về mực và đứng thứ 10 trong tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của
Nhật Bản với mức khoảng 66.6 tỷ Yen (555 triệu USD). Cuộc hội thảo
chuyên đề về các basa và thuỷ sản do thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản tổ
chức ngày 17/7/2003 tại Tokyo đă thu hút được sự quan tâm chú ý của đại
diện gần 200 doanh nghiệp của đất nước hoa anh đào. Điều này chứng tỏ sự
quan tâm đặc biệt của người tiêu dùng Nhật Bản đối với sản phẩm cá tra và cá
basa của Việt Nam và Nhật Bản cũng hứa hẹn trở thành một thị trường nhập
khẩu tiềm năng đối với loại cá này của Việt Nam. Thêm vào đó, thị trường
các nước Hồi giáo cũng có thuận lợi lớn với việc hơn 50 sản phẩm chế biến từ
cá basa, cá tra của Việt Nam vừa được chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn sử
dụng thực phẩm của người theo đạo Hồi…Vụ việc này cũng khiến các doanh
nghiệp Việt Nam bừng tỉnh và quyết định xây dựng kế hoạch phát triển thị
trường nội địa như một chiến lược lâu dài.
87
Tóm lại, ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải xây
dựng một cơ chế thống nhất. Trước hết, các doanh nghiệp phải đoàn kết, thực
hiện nghiêm chỉnh những quy định và tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, quy
trình và điều kiện sản xuất, an toàn, vệ sinh... (Cụ thể như việc VASEP đã đề
nghị Bộ Thương mại xem xét đưa cá basa vào chương trình xây dựng thương
hiệu quốc gia và bổ sung mặt hàng này vào danh sách được hưởng chính sách
hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, xây dựng lại quy hoạch vùng sản xuất cá tra, cá
basa nguyên liệu ở đồng bằng sông Cửu Long). Ngoài ra, các doanh nghiệp
cũng phải nhanh chóng đăng ký thương hiệu tại các thị trường nước ngoài mà
mình dự kiến thâm nhập, nhất là với những thị trường mà các vụ kiện xảy ra
như “cơm bữa” như Mỹ, EU. Doanh nghiệp cần lưu trữ đầy đủ các bằng
chứng sử dụng thương hiệu trong hoạt động thương mại để khi gặp tình trạng
tranh chấp thương hiệu thì có thể sử dụng để giành quyền về mình. Thực tế đã
khẳng định rằng, có không ít các vụ kiện giữa các doanh nghiệp trong và
ngoài nước đều xuất phát từ tranh chấp về thương hiệu và vụ kiện cá basa
không phải là một ngoại lệ.
II. Một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng của Luật chống bán phá giá của
Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Việt
Nam vào thị trường Mỹ
Đứng trước xu hướng ngày càng gia tăng các vụ kiện chống bán phá
giá của Mỹ đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, Chính phủ cũng như các
doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần phải nghiên cứu và tìm ra các giải
pháp nhằm hạn chế tác động của Luật chống bán phá giá của Mỹ đối với hàng
xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ trên cơ sở quy trình của một
“cuộc tổng tấn công” bằng đòn chống bán phá giá của Mỹ mà chúng ra đã
phát hiện ra:
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
88
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
Quá trình mộ t vụ kiệ n
chố ng bán phá giá tạ i
Mỹ
Bà i
xích
Cuố i 2000
Vậ n
độn
g
Quố
c hộ i
9/2/2001
Cuộ c
chiế n
thươn
g
hiệ u
5/10/2002
Kiệ n bán
phá giá
28/6/2002
4/2003
Những rào cản thương mại kiểu như rào cản chống bán phá giá ở Mỹ là
rất minh bạch và phổ biến. Điều quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam
cần phải chủ động nhận biết và vượt qua rào cản đó. Thật đáng sợ là trong
trường hợp nếu chúng ra không nắm rõ quy trình như thế nào thì không thể
xác định được quy mô rào cản thương mại này lớn đến đâu và hậu quả của nó
đối với nền kinh tế của chúng ta sẽ nặng nề như thế nào.
1. Các giải pháp mang tính định hướng chung để đối phó với một vụ kiện
chống bán phá giá.
Chính phủ cần tích cực triển khai việc đàm phán song phương, đa phương
để tranh thủ nhiều nước thừa nhận Việt Nam là nước thực hiện kinh tế thị
trường, từ đó yêu cầu Mỹ trao cho quy chế nước có nền kinh tế thị trường,
được như vậy thì khi bị Mỹ kiện bán phá giá chúng ta sẽ ít bị thiệt thòi hơn về
mức thuế suất. Bên cạnh đó cũng cần đẩy mạnh tiến trình đàm phán gia nhập
WTO, sử dụng các quy tắc của WTO để hạn chế tác động tiêu cực của Luật
chống bán phá giá Hoa Kỳ;
Phải biết kết hợp sức mạnh quốc tế với sức mạnh dân tộc để đối phó với
các vụ kiện. Rõ ràng trong vụ kiện này Việt Nam đã nhận được nhiều sự ủng
hộ của cộng đồng quốc tế, của chính những người tiêu dùng Mỹ. Điều này
không chỉ buộc các cơ quan xét xử của Mỹ không xử ép Việt Nam một cách
quá sai lầm và hạn chế được thiệt hại về kinh tế cho Việt Nam khi bị áp thuế
89
chống bán phá giá mà còn dành được sự yêu mến của cộng đồng người tiêu
dùng thế giới đối với các sản phẩm cá của Việt Nam;
Phát huy vai trò của các Hiệp hội chuyên ngành, tăng cường sự phối hợp
của các doanh nghiệp để làm mạnh thêm năng lực kháng kiện của các doanh
nghiệp. Quá trình điều tra càng sâu bao nhiêu thì các doanh nghiệp càng phải
phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ với nhau;
Các doanh nghiệp của Việt Nam nên có tinh thần tích cực theo đuổi các
vụ kiện khi bị kiện bán phá giá, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ từ phía Chính
phủ. Theo quy tắc của WTO trong giải quyết bán phá giá, doanh nghiệp đóng
vai trò chính còn Chính phủ của doanh nghiệp bị khởi kiện chỉ đóng vai trò
phụ. Nếu doanh nghiệp từ bỏ quyền lợi kháng kiện, cho dù là bị oan, thì
Chính phủ cũng không có cách nào làm thay để cứu vãn. Đặc biệt khi các vụ
kiện xảy ra, không nên lẩn tránh hoặc ngại ngùng mà cần nhanh chóng hợp
tác chặt chẽ với đối tác và cơ quan chức năng của Chính phủ, xem đó như là
một phần của công việc kinh doanh bởi có những vụ tranh chấp lớn, không
vào cuộc dễ dẫn đến sự thiệt hại lớn về kinh tế thậm chí còn mất cả thị
trường;
Chính phủ nên phổ biến rộng rãi kiến thức về Tổ chức Thương mại thế
giới và Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ cho các doanh nghiệp
xuất khẩu, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia giỏi, hình thành những tổ chức
chuyên phục vụ việc ứng phó với các tranh chấp về ngoại thương có khả năng
tư vấn cho doanh nghiệp và hỗ trợ chính phủ khi có các vụ kiện xảy ra. Hiện
nay, Bộ Thương mại mới thành lập Ban Quản lý cạnh tranh nhưng sự hoạt
động của ban này chưa lan toả mạnh, còn ở các bộ ngành khác, vai trò của bộ
phận pháp chế còn rất yếu so với yêu cầu;
Bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chú
trọng vào việc làm thế nào để có lợi nhuận lớn nhất chứ chưa chú ý đến việc
làm thế nào để chiến thắng khi bị kiện tụng. ở hầu hết các doanh nghiệp, vai
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
90
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
trò của các luật sư cố vấn là mờ nhạt thậm chí là không có, và khi xảy ra các
vụ kiện cáo đặc biệt là các vụ kiện mang tính quốc tế thì ta luôn ở thế bị động,
lúc đó các doanh nghiệp mới đi mời luật sư hoặc đến tư vấn ở các văn phòng
luật. Việc này có một hạn chế lớn là các luật sư hoặc các cơ quan tư vấn luật
lại không phải là người trong cuộc, không nắm rõ tình hình hoạt động của
doanh nghiệp, nghiệp vụ kinh tế hạn chế, nên không thể chủ động tìm ra
những điểm thắng thế của doanh nghiệp trong một thời gian ngắn để cho vụ
kiện phải kéo dài, gây rất nhiều tốn kém. Do vậy mà Chính phủ nên thành lập
cơ quan chuyên trách hầu kiện. Tổ chức này là rất cần thiết, bao gồm các luật
sư, kế toán, các nhà kinh tế chuyên nghiên cứu các diễn biến xu hướng kinh tế
quốc tế và các chuyên gia chuyên nghiệp có liên quan có năng lực làm việc
cao; nhằm hỗ trợ chính phủ cũng như các doanh nghiệp giải quyết các tranh
chấp thương mại phát sinh qua các vụ kiện một cách chuyên nghiệp và kinh
nghiệm hơn, từ đó hạn chế được tổn thất cho nền kinh tế trong nước nói
chung và cho ngành công nghiệp có liên quan nói riêng. Đây có thể là một cơ
quan nhà nước hoặc hoạt động như các tổ chức phi chính phủ khác như
VASEP…;
Khi bị kiện tụng các doanh nghiệp nên tích cực hoàn thành các hồ sơ thẩm
vấn. Đây là bảng cầu hỏi hoặc bảng yêu cầu mà Cơ quan tiến hành điều tra
chống bán phá giá đại diện cho bên nguyên cung cấp. Các doanh nghiệp cần
đưa ra đầy đủ các tư liệu, chứng cứ, phần nào thuộc tài liệu cơ mật của doanh
nghiệp thì phải yêu cầu đối phương bảo quản không được tiết lộ. Việc này sẽ
thể hiện tinh thần hợp tác của bị đơn cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình điều tra chống bán phá giá được tiến hành một cách nhanh chóng, tránh
tốn kém về tiền bạc và thời gian cho cả hai phía
Các doanh nghiệp cũng cần tích cực chuẩn bị tài liệu và ý kiến bảo vệ,
biện hộ. Đặc biệt các doanh nghiệp cần phải chú ý những vấn đề sau:
91
- Tính đại biểu và tư cách của bên khiếu kiện, theo quy định của WTO, phải
là doanh nghiệp cùng ngành hàng nước nhập khẩu, họ và những người ủng hộ
họ có tổng sản phẩm không được ít hơn 50% sản phẩm toàn quốc, nếu không
họ sẽ không được khiếu kiện.
- Bản thân mình có hành vi bán phá giá hay không, biên độ bán phá giá là
bao nhiêu, đã bán phá giá bao nhiêu lần và đã đình chỉ hay chưa.
- Hành vi phá giá gây thiệt hại cho doanh nghiệp cùng ngành hàng nước
nhập khẩu như thế nào, có tồn tại quan hệ nhân quả hay không?
- Sự phán xét bán phá giá có dựa vào các tiêu chuẩn, căn cứ hợp lý hay
không?
Các doanh nghiệp bị kiện nên đưa ra lời hứa giá cả. Nếu xét thấy đúng là
mình đã có hành vi phá giá gây thiệt hại cho doanh nghiệp cùng ngành hàng
nước nhập khẩu thì nên chủ động thương lượng với Chính phủ nước khởi kiện
về cam kết giá cả và thời gian thực hiện. Việc này sẽ tránh bị trừng phạt nặng
nề và dành được sự cảm thông của phía đối phương;
Các doanh nghiệp cũng có thể yêu cầu cơ quan tư pháp nước nhập khẩu
can thiệp. Nếu không chấp nhận kết luận của Chính phủ nước khởi kiện, có
thể kháng án lên cơ quan tư pháp của nước nhập khẩu. ở Mỹ là Toà án
Thương mại quốc tế ITC và cao hơn nữa là Toà án liên bang;
Đề nghị Chính phủ can thiệp. Nếu có đủ chứng cứ chứng minh hành vi
kiện bán phá giá chỉ là chuyện nước nhập khẩu muốn bảo hộ mậu dịch, gây
thiệt hại cho doanh nghiệp thì bị đơn có thể đề nghị Chính phủ can thiệp đến
tận WTO (khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này);
Kịp thời đề nghị phúc thẩm. Trong thời gian 5 năm kể từ ngày nộp thuế
chống bán phá giá, nếu bên bị đơn đã chấm dứt hành vi bán phá giá thì cần
kịp thời đề nghị Chính phủ nước khởi kiện bán phá giá phúc thẩm, để huỷ bỏ
các hình thức xử phạt trước đây. Điều này là rất cần thiết để tránh những thiệt
hại kinh tế không đáng có đối với hàng hoá bị áp thuế chống bán phá giá;
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
92
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
Hình thành cơ chế thu thập và xử lý thông tin một cách nhanh nhất trong
các doanh nghiệp. Điều này không những giúp các doanh nghiệp luôn nắm
được diễn biến của thị trường quốc tế mà còn chủ động hơn trong các vụ kiện
khi đã hiểu rõ phần nào đối phương của mình.
2. Các giải pháp cụ thể.
Đối sách đầu tiên và cũng là đối sách hàng đầu trong việc hạn chế ảnh
hưởng Luật chống bán phá giá của Mỹ đối với hàng xuất khẩu Việt Nam
chính là phải biết biến bất lợi thành lợi thế. Phải tập quen dần với cuộc chơi.
Đứng trước một vụ kiện chống bán phá giá, để thành công Việt Nam cần phải
chủ động chuẩn bị thật tốt hai yếu tố: kỹ thuật và pháp lý. Về kỹ thuật, cần
phải nhanh chóng hoàn chỉnh ngay từ khâu nguyên liệu đến nuôi trồng, chế
biến…Chúng ta cần phải có những hồ sơ trình bày kỹ thuật thật hoàn chỉnh để
đối phương không thể bắt bẻ mình. Về mặt pháp lý, việc đầu tiên là chúng ta
không chỉ biết lo liệu cho mình mà còn phải thu thập thông tin đầy đủ về đối
phương ví dụ như việc họ sẽ nhờ công ty luật nào, lobby ra sao, quan hệ của
họ cũng như mẫu thuẫn giữa họ với các nhà nhập khẩu… Hay phải xác định
được rằng giá cả cá nheo cũng như của nhiều mặt hàng thủy sản khác của Mỹ
tăng cao là do hậu quả của một loạt những yếu tố như: sự hợp nhất giữa các
công ty cá nheo, một nền kinh tế suy thoái chưa có dấu hiệu phục hồi và sự
kiện ngày 11/9… chứ không phải nguyên nhân giá cá tra, cá basa rẻ hơn là do
Việt Nam bán phá giá. Điều này có lẽ sẽ rất cần thiết khi sắp tới đây Mỹ sẽ
kiện Việt Nam bán phá giá tôm vào thị trường Mỹ. Lần này Mỹ sẽ phải đối
đầu với 16 nước, trong đó Việt Nam đã dày dạn kinh nghiệm và chủ động
hơn;
Về phía các cơ quan chức năng cần phải tăng cường hơn công tác quản lý
xuất nhập khẩu và việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Việt Nam nhằm
kiểm soát được chính xác số liệu hàng xuất khẩu của Việt Nam đồng thời hạn
chế tối đa việc C/O bị làm giả hoặc bị lợi dụng. Đây là vấn đề hết sức quan
93
trọng bởi qua thực tế các vụ kiện chống bán phá giá vừa qua giữa Việt Nam
và các nước khởi kiện thường có sự khác biệt lớn về số liệu thống kê hàng
xuất khẩu có xuất xứ từ Việt Nam;
Thêm nữa, Chính phủ cũng nên giúp doanh nghiệp tổ chức các hội chợ
thương mại nhằm giới thiệu sản phẩm cá tra và cá basa trên đất Mỹ để quảng
bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm và chiếm được lòng tin của người tiêu
dùng Mỹ;
Về phía các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược marketing ở Mỹ.
Trước tiên để thâm nhập một thị trường lớn phải tìm những khách hàng mua
lớn. Đây chính là kinh nghiệm thành công của Hồng Kông, Đài Loan, Hàn
Quốc…Các doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý đến những nhà bán lẻ trên toàn
nước Mỹ. Nên mời họ đến Việt Nam, xây dựng mối quan hệ với họ, sau đó sẽ
mời họ đặt hàng. Đây là những khách hàng lớn, đồng thời sẽ giúp các doanh
nghiệp Việt Nam phát triển. Họ sẽ nhận hàng của Việt Nam tại một điểm và
phân phối khắp nước Mỹ. Trước mắt là như vậy, về lâu dài thì các doanh
nghiệp Việt Nam cũng phải xây dựng một hệ thống phân phối của mình. Từ
đó có thể kiểm soát được mức giá bán chung và tránh được việc các doanh
nghiệp tự mình phá giá để cạnh tranh với nhau;
Liên kết với các nhà nhập khẩu Mỹ để có thể sản xuất cá tra và cá basa
ngay trên đất Mỹ. Việc đó không những giảm được chi phí vận chuyển khi
xuất khẩu mà còn giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về cách kinh doanh trên
thương trường Mỹ, tạo được sự ủng hộ của chính người dân Mỹ. Nhằm thực
hiện giải pháp này, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang có kế hoạch
triển khai mô hình nuôi cá tra và cá basa trên đất Mỹ và ngược lại sẽ nuôi cá
nheo Mỹ tại Việt Nam. Đây là chương trình hợp tác thương mại song phương
đồng thời kết quả của nó sẽ là minh chứng cụ thể nhất khẳng định giá thành
cá tra và cá basa thấp và Việt Nam không bán phá giá loại cá này vào thị
trường Mỹ;
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
94
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
Đẩy mạnh việc quảng bá thương hiệu và nâng cao chất lượng sản phẩm
thông qua các hội chợ thương mại, các chiến dịch quảng cáo. Để làm được
việc này trước tiên các doanh nghiệp cần tự “tổng kiểm tra sức khoẻ” của
chính mình, phân tích SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ), và
xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp, đổi mới công nghệ sản xuất, và cải
thiện cơ chế thu thập và xử lý thông tin một cách nhanh nhất. Bên cạnh đó các
doanh nghiệp cũng không nên quên rằng cần phải tập trung khắc phục điểm
yếu lớn nhất của mình đó là năng lực sản xuất còn hạn chế - đây chính là yếu
tố cản trở nguồn cung xuất khẩu vào Mỹ;
Đổi mới cách tiếp cận thị trường Mỹ, nên chăng các doanh nghiệp Việt
Nam cần điều chỉnh cách sản xuất của mình để đạt hiệu quả hơn khi xuất
khẩu thủy sản vào Mỹ? Chúng ta có thể thực hiện chen mùa vụ, nuôi trồng
thuỷ sản, người Mỹ nuôi trồng theo mùa vụ, mùa đông tại Mỹ quá lạnh, cá,
tôm không phát triển nên họ nghỉ, ta nên tự điều chỉnh chen mùa vụ, mùa sản
xuất chính của họ ta nên xuất ít, đến vụ nghỉ đông của họ ta nên xuất nhiều.
Hoặc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nếu họ hay bán cá tươi tại chợ, thì ta
không nên làm giống họ mà chế biến thành cá nướng hoặc các thành phẩm
khá và điều chỉnh về giá cho phù hợp với thị trường Mỹ; Một điều thuận lợi
nữa là hiện nay Mỹ chỉ đánh thuế chống bán phá giá cá philê còn các sản
phẩm chế biến từ cá basa thì không. Các doanh nghiệp Việt Nam nên cố gắng
khai thác lợi thế này;
Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh ở Mỹ để tránh xung đột quyền lợi đến
mức kiện tụng lên toà án. Chúng ta sẽ còn gặp nhiều bất lợi ở thị trường Mỹ
nếu không có chiến lược sống chung với các đối thủ mạnh có thế lực ở ngay
xứ sở của họ; Các doanh nghiệp cần phải biết rằng khi một nước xuất khẩu
đến một nước khác những sản phẩm có nhiều ưu thế hơn về chất lượng, giá cả
thì chắc chắn dù ít hay nhiều cũng sẽ đụng phải phản ứng của những nhà sản
xuất cùng sản phẩm trong nước đó. Đây có thể là phản ứng không công bằng
95
nhưng thực tế vẫn thường xảy ra và ta phải chấp nhận nó như một quy luật
của thương trường. Vấn đề mấu chốt là chúng ta phải dự báo và định lượng
được mức độ phản ứng đó ngay cả lúc trước khi đem hàng qua bán để đề ra
được những sách lược đối phó thích hợp;
Nắm chắc thể chế, chính sách hiện hành của Mỹ đối với hàng nhập khẩu,
Luật Thương mạiệợà Luật Khống bán phá giá. Đồng thời, Việt Nam cũng nên
chú ý nghiên cứu thật kỹ Luật Thương mại quốc tế và các Quy định điều ước
quốc tế đa biên để không bị các cường quốc kinh tế như Mỹ lấn át. Cũng như
nhanh chóng hoàn thiện Pháp lệnh về Chống bán phá giá đối với hàng hoá
nhập khẩu vào Việt Nam. Công cụ này không chỉ được sử dụng một cách hữu
hiệu để bảo vệ thị trường trong nước mà còn có thể dùng như một biện pháp
để “trả đũa” trong các cuộc tranh chấp thương mại quốc tế mà Mỹ hay làm.
Tuy nhiên Việt Nam cũng cần biết rõ rằng Hiệp định Chống bán phá giá của
WTO thừa nhận các biện pháp chống bán phá giá là một công cụ hỗ trợ các
ngành sản xuất trong nước khi có hành vi bán phá giá hàng hoá nhập khẩu và
hành vi gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong
nước nhưng cũng không nên quá lạm dụng Luật chống bán phá giá để tạo ra
lợi thế thương mại không bình đẳng cho mình và tạo nên tiền lệ xấu cho chủ
nghĩa bảo hộ phát triển;
Đẩy mạnh việc sản xuất cá theo mô hình khép kín. Từ đó chủ động được
vấn đề cung cấp nguyên liệu sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Tiết kiệm được
khoản chi phí khá lớn do cắt giảm chi phí vận chuyển, tận dụng được nguồn
chất thải công nghiệp, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn
HACCP từ khâu nuôi trồng đến khâu sản xuất chế biến, giảm thiểu được
lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường xung quan. Mục đích của việc này là
nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu và tính cạnh tranh của sản
phẩm Việt Nam trên thị trường Mỹ. Một trong những yếu tố quan trọng nữa
nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho hàng xuất khẩu sang Mỹ là
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
96
Chương III: Những bà i họ c rút ra từ vụ kiệ n chố ng bán phá giá cá tra và cá
basa và o thị trường Mỹ
chúng ta cần xây dựng một hệ thống phương tiện, máy móc kỹ thuật hiện đại.
Cụ thể là EU vừa qua gặp vụ việc thịt gà, sữa nhập khẩu có hàm lượng dioxin
cao, họ có đủ phương tiện kiểm tra nhanh, chính xác hàm lượng này, trong
khi Việt Nam chỉ có một nơi duy nhất nhưng lại cho kết quả chỉ mang tính
tham khảo chứ không phải là kết luận có độ chính xác cao. Hàng thuỷ sản
cũng vậy, muốn kiểm tra dư lượng cloramphenicol cần xây dựng được những
trung tâm hiện đại với vốn đầu tư vài ba triệu USD. Trong khi chúng ta đang
ngần ngại với số vốn trên thì nguy cơ mất hàng chục triệu USD kim ngạch
xuất khẩu cũng như sự sụt giảm về thị trường xuất khẩu có lẽ ít ai nghĩ đến.
Như vậy trước mắt dù các sản phẩm cá tra và cá basa của Việt Nam có
bị đánh thuế chống bán phá giá cao đi chăng nữa thì với một sản phẩm có chất
lượng và đảm bảo vệ sinh như vậy thì chúng ta vẫn có thể trụ vững trên thị
trường Mỹ, vẫn giữ được thị phần của mình.;
Tìm đối tác trung gian giúp mình xuất khẩu cá để giữ thị phần cá tra và cá
basa trên thị trường Mỹ. Ví dụ các doanh nghiệp Việt Nam có thể đặt văn
phòng đại diện tại Panama. Đây là một nước nhỏ chỉ có 2,8 triệu dân nên nếu
xuất khẩu vào nước này cho dân họ tiêu thụ thì sản lượng ít nhưng quan trọng
là ở Panama có khu mậu dịch tự do, diện tích khoảng 400 ha và có đến 2000
doanh nghiệp của hơn 30 nước tập trung tại đây để tạm nhập tái xuất riêng
Việt Nam chưa có văn phòng đại diện nào. ở khu này thuế tạm nhập tái xuất
là 0% hơn nữa một số doanh nghiệp của Panama đang hỏi về cá tra và cá basa
của Việt Nam để bán sang thị trường Mỹ và các nước khác;
Một điều tối quan trọng mà Chính phủ Việt Nam cũng như các doanh
nghiệp không thể bỏ qua đó là cần phải có giải pháp bảo vệ thương hiệu cá tra
và cá basa trên thị trường Mỹ. Bởi lẽ phán quyết cuối cùng của Mỹ còn có
nguy cơ làm mất thương hiệu cá tra và cá basa trên thị trường Mỹ khi một số
doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài lợi dụng mức thuế suất 0% mà Mỹ đã
“vung tay ban phát”, để mua cá từ thị trường Việt Nam về đóng nhãn mác
97
mới rồi xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp cần phải nhanh
chóng đăng ký thương hiệu cho các sản phẩm cá của mình không chỉ trên thị
trường Mỹ (chi phí đăng ký khoảng 5000USD) mà còn ở các thị trường tiềm
năng khác (ví dụ như thị trường Nhật Bản với chi phí là 8000USD)…
Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ đã mở ra một viễn cảnh tươi
sáng cho nền thương mại hai nước và đem lại nhiều cơ hội kinh doanh cho
các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các thương nhân Mỹ. Đứng trước một
thị trường Mỹ đầy tiềm năng và thách thức các doanh nghiệp Việt Nam nên tự
tin vào chính mình, chủ động tiếp cận và vượt qua các rào cản thương mại
trên thị trường Mỹ một cách khôn khéo và nhất định sẽ thu được nhiều thành
công bởi không có chiến thắng vẻ vang nào mà lại dễ dàng đạt được. Điều
này cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác đã từng có tranh chấp
thương mại với Mỹ, tuy nhiên sau đó họ đều đã thành công trong việc tiếp cận
thị trường này.
Phan Thị Tuyế t - Pháp 2 - K38E
98
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
kết luận
Vụ kiện cá basa coi như đã kết thúc hoặc có thể chưa kết thúc nếu các
doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục kiện lên Toà án Liên bang của Mỹ. Nhưng
ngay từ bây giờ chúng ta có thể hiểu một cách rõ ràng rằng thị trường thế giới
trong đó lớn nhất là thị trường Mỹ không hề minh bạch và sòng phẳng như ta
tưởng. Đó là một cái chợ, nơi kẻ giàu ăn hiếp người nghèo, kẻ mạnh áp đặt
“luật chơi” lên người yếu, mọi quan hệ kinh tế nhiều khi chịu thua những “trò
chơi chính trị”. Bước vào cái chợ đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần rất bình
tĩnh, và cách tốt nhất là kiên trì, không mệt mỏi phát huy tối đa nội lực của
mình. Mặt khác, thị trường Mỹ không chỉ đơn giản mang tính chất quốc gia,
khu vực mà đây còn là thị trường quốc tế. Nếu chúng ta có thể “dằn mặt” Mỹ
trong trận chiến này cũng có nghĩa ta đã làm bao đối thủ khác phải khiếp sợ,
buộc họ phải xem xét lại nếu có ý đồ tấn công nước ta bằng các đòn cạnh
tranh bất bình đẳng về kinh tế.
Từ vụ kiện trên có thể thấy, để hội nhập và phát triển, Việt Nam còn
phải đối mặt khốc liệt hơn với sức ép cạnh tranh thiếu công bằng của các nhà
sản xuất, kinh doanh thuỷ sản các nước nhập khẩu trong đó có Mỹ. Nhận thức
được điều này sẽ giúp Việt Nam điều chỉnh chính sách hội nhập kinh tế của
mình cho phù hợp.
Sự thành công của chiến lược phát triển quốc gia;
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm quốc gia trên trường quốc tế;
Sự hoàn chỉnh của các quy ước quốc tế;
Sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và khu vực.
Là 4 điều kiện, trong đó 2 điều kiện đầu được coi là điều kiện cần, 2 điều kiện
sau là điều kiện đủ để một quốc gia đang và kém phát triển như Việt Nam có
thế thắng thế trong môi trường cạnh tranh quốc tế không bình đẳng.
Phan ThÞ TuyÕt - Ph¸p 2 - K38E
Tài liệu tham khảo
Luật chống bán phá giá của Mỹ (United States – Anti-Dumping Act
of 1916);
Báo Thương Mại các số 25,29,10 năm 2003;
Kỷ yếu hội nghị khoa học sinh viên 2002, Trường Đại học Ngoại
Thương;
Báo Kinh tế Sài Gòn số 28/2003 (625) ngày 3/7/2003;
Báo Thương Mại Thuỷ sản, tháng 5-6/2003, tháng 8/2003 (Bộ Thuỷ
sản);
Báo Kinh tế Việt Nam số 32 ngày 12/8/2003;
Báo Doanh nghiệp Thương mại số 179 ngày 1/5/2003;
Tin Kinh tế số 119 TTX ngày 28/5/2003;
Báo Đầu tư số 90 ngày 28/7/2003;
Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 65 tháng 11/2002;
Dự thảo 4 Pháp lệnh về chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu
vào Việt Nam số 4/2003/PL-UBTVQH11 ngày 11/10/2003;
Báo Vnexpress trang www.http://vnexpress.com;
www.atimes.com/atimes/Front-page/DK29Aa01.html;
Sách trắng do VASEP công bố về vụ kiện cá tra và cá basa của Việt
Nam vào thị trường Mỹ;
Những thông tin thu thập thực tế từ Ban Quản lý cạnh tranh, Bộ
Thương mại (31 Tràng Tiền, Hà Nội); Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu
Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) và Phòng Thông tin, Bộ Thuỷ sản (20
Nguyễn Công Hoan, Hà Nội); Ban Pháp chế Phòng Công nghiệp Việt
Phan ThÞ TuyÕt - Ph¸p 2 - K38E
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Nam (số 9 Đào Duy Anh, Hà Nội); Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư (20 Hoàng Văn Thụ, Hà Nội).
Phan ThÞ TuyÕt - Ph¸p 2 - K38E
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I Khái quát chung về luật chống bán phá giá của Mỹ ........................................... 1
I. Giới thiệu chung.......................................................................................... 1
1. Lịch sử phát triển Luật chống bán phá giá của Mỹ ................................... 1
2. Các cơ quan có thẩm quyền thi hành ......................................................... 2
II. Nội dung Luật chống bán phá giá của Mỹ.............................................. 3
1. Phạm vi điều chỉnh .................................................................................... 3
2. Điều kiện để khởi xuất một vụ kiện bán phá giá ....................................... 4
3. Các giai đoạn chính của một cuộc điều tra chống bán phá giá tại Mỹ ...... 4
4. Bắt đầu điều tra .......................................................................................... 5
5. Chứng cứ để kết luận hàng hoá có bán phá giá hay không ....................... 7
5.1. Bảng câu hỏi ........................................................................................ 7
5.2. Các dữ kiện thực tế sẵn có (Những thông tin tốt nhất sẵn có) .......... 10
5.3. Thẩm tra ............................................................................................. 10
5.4. Xử lý thông tin .................................................................................... 11
5.5. Sản phẩm tương tự và các Quyết định về phạm vi ............................ 11
6. Xác định việc bán phá giá ........................................................................ 13
6.1. Giá trị chuẩn ...................................................................................... 14
6.2. Giá xuất khẩu ..................................................................................... 21
6.3. Tính toán các biên độ phá giá ........................................................... 25
6.4. Phân tích thiệt hại của ITC ................................................................ 27
7. Xem xét lại ............................................................................................... 34
7.1. Xem xét lại theo thủ tục hành chính ................................................... 34
7.2. Xem xét lại nhà Xuất khẩu mới .......................................................... 35
7.4. Xem xét lại “Hoàng hôn” 5 năm ....................................................... 37
7.5 Xem xét lại theo thủ tục tư pháp ......................................................... 38
8. Những vấn đề thủ tục khác ...................................................................... 39
8.1. Đình chỉ các cuộc điều tra ................................................................. 39
8.2. Tình trạng khẩn cấp ........................................................................... 39
8.3. Chấm dứt điều tra .............................................................................. 40
8.4 Việc chống âm mưu bán phá giá......................................................... 41
8.5. Huỷ bỏ lệnh thuế chống bán phá giá ................................................. 42
Phan ThÞ TuyÕt - Ph¸p 2 - K38E
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
8.6. Điều khoản chống lẩn tránh (Anti-circumvention) ............................ 43
Chương II Vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ................. 42
I. Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ ...................................................................................... 42
1. Nguyên nhân ............................................................................................ 42
2. Danh sách các bên trong vụ kiện ............................................................. 44
2.1 Bên Nguyên đơn: ................................................................................. 44
2.2 Bên bị đơn: .......................................................................................... 44
II. Diễn biến vụ kiện ..................................................................................... 45
1. Diễn biến .................................................................................................. 45
2. Phân tích lợi thế của phía Việt Nam trong vụ kiện ................................. 55
3. Phân tích những cáo buộc phi lý của Mỹ ................................................ 59
4. Kết quả vụ kiện ........................................................................................ 65
5. ảnh hưởng của kết quả cuối cùng của vụ kiện đối với cả hai phía................ 66
5.1. ảnh hưởng của kết quả cuối cùng đối với Mỹ .................................... 66
5.2. ảnh hưởng của kết quả cuối cùng đối với Việt Nam .......................... 68
5.3. Phân tích phản ứng của hai phía trước kết quả này ......................... 70
chương iii Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa vào
thị trường Mỹ .......................................................................................................................... 75
I. Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Mỹ .................................................................................. 77
1. Bài học đối với Chính phủ Việt Nam ...................................................... 77
2. Bài học đối với các doanh nghiệp............................................................ 83
II. Một số giải pháp hạn chế ảnh hưởng của Luật chống bán phá giá của
Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp Việt
Nam vào thị trường Mỹ ......................................................................... 88
1. Các giải pháp mang tính định hướng chung để đối phó với một vụ
kiện chống bán phá giá. ......................................................................... 89
2. Các giải pháp cụ thể. ................................................................................ 93
kết luận
Tài liệu tham khảo
Phan ThÞ TuyÕt - Ph¸p 2 - K38E
- Xem thêm -